Đề án Sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Con người với tư cách là một thực thể xã hội chỉ có thể tồn tại và phát triển khi có những cơ sở nhất định. Trong quá trình sản xuất, con người phải quan hệ với tự nhiên chiếm hữu những vật liệu có sẵn trong tự nhiên, biến đổi những vật liệu đó thành những sản phẩm phù hợp với nhu cầu của con người. Ngay từ thời kì sơ khai của xã hội loài người, ý thức về xã hội, cộng đồng còn hạn chế, những người nguyên thuỷ đã biết sử dụng hoa quả tự nhiên, chim thú săn bắn đựơc, những công cụ lao động giản đơn để phục vụ cho nhu cầu của mình. Hay nói cách khác con người sinh ra từ tự nhiên, để tồn tại và phát triển con người phải dựa vào tự nhiên. Chiếm hữu được hiểu là quan hệ giữa con người với tự nhiên, chiếm giữ những sản vật của tự nhiên. Còn sở hữu lại là mối quan hệ giữa con người với con người trong việc chiếm hữu của cải vật chất, trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản suất giữ vai trò quyết định. Sở hữu là phạm trù cơ bản, phức tạp của Kinh tế chính trị học, được bàn nhiều và cũng tồn tại không ít những ý kiến khác nhau xung quanh vấn đề này. Nhưng tất cả đều dựa trên nguyên tắc phương pháp luận coi sở hữu như quá trình chiếm hữu và nhấn mạnh mặt pháp lý khi giải thích nội dung kinh tế của sở hữu. Do vậy việc tìm hiểu nội dung kinh tế của sở hữu không những cần thiết đối với lí luận kinh tế học nói chung mà còn rất quan trọng với mỗi quốc gia trong việc đánh giá các đổi mới, về thực chất của sở hữu tư sản hiện đại, thực chất của mô hình XHCN và con đường tất yếu chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Sở hữu là một phạm trù kinh tế mang yếu tố khách quan – xuất hiện, tồn tại và phát triển cùng với sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Mặt khác quan hệ sản xuất còn mang bản chất giai cấp. Chúng ta đứng trên lập trường tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lê nin để nghiên cứu vấn đề sở hữu qua các hình thái kinh tế-xã hội và đặc biệt quan trọng là "Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt nam” hiện nay. Đây còn là vấn đề quan tâm có tính chất sống còn của mọi giai cấp, mọi tổ chức, cá nhân : Sở hữu về tư liệu sản xuất là cơ sở kinh tế đầu tiên quyết định địa vị của giai cấp cầm quyền, sở hữu là cơ sở kinh tế và là cơ sở pháp lý để các chủ thể thực hiện quyền năng pháp lý đó. Đối với nước ta hiện nay, thực hiện quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn Tư bản chủ nghĩa thì việc đòi hỏi phải củng cố và hoàn thiện một hệ thống lý luận khoa học sắc bén trong đó có lý luận về ‘sở hữu’ là tất yếu khách quan. Nó không chỉ là kim chỉ nam cho mọi hoạt động kinh tế của đất nước mà còn góp phần giải quyết, tháo gỡ vướng mắc, khắc phục sai lầm, lệch lạc của thực tiễn điều hành, quản lí vì sự hoàn thiện của chế độ sở hữu XHCN, từ đây tạo ra nền vật chất pháp lý cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

doc14 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2058 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề án Sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài : Sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. A. LỜI NÓI ĐẦU Con người với tư cách là một thực thể xã hội chỉ có thể tồn tại và phát triển khi có những cơ sở nhất định. Trong quá trình sản xuất, con người phải quan hệ với tự nhiên chiếm hữu những vật liệu có sẵn trong tự nhiên, biến đổi những vật liệu đó thành những sản phẩm phù hợp với nhu cầu của con người. Ngay từ thời kì sơ khai của xã hội loài người, ý thức về xã hội, cộng đồng còn hạn chế, những người nguyên thuỷ đã biết sử dụng hoa quả tự nhiên, chim thú săn bắn đựơc, những công cụ lao động giản đơn để phục vụ cho nhu cầu của mình. Hay nói cách khác con người sinh ra từ tự nhiên, để tồn tại và phát triển con người phải dựa vào tự nhiên. Chiếm hữu được hiểu là quan hệ giữa con người với tự nhiên, chiếm giữ những sản vật của tự nhiên. Còn sở hữu lại là mối quan hệ giữa con người với con người trong việc chiếm hữu của cải vật chất, trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản suất giữ vai trò quyết định. Sở hữu là phạm trù cơ bản, phức tạp của Kinh tế chính trị học, được bàn nhiều và cũng tồn tại không ít những ý kiến khác nhau xung quanh vấn đề này. Nhưng tất cả đều dựa trên nguyên tắc phương pháp luận coi sở hữu như quá trình chiếm hữu và nhấn mạnh mặt pháp lý khi giải thích nội dung kinh tế của sở hữu. Do vậy việc tìm hiểu nội dung kinh tế của sở hữu không những cần thiết đối với lí luận kinh tế học nói chung mà còn rất quan trọng với mỗi quốc gia trong việc đánh giá các đổi mới, về thực chất của sở hữu tư sản hiện đại, thực chất của mô hình XHCN và con đường tất yếu chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Sở hữu là một phạm trù kinh tế mang yếu tố khách quan – xuất hiện, tồn tại và phát triển cùng với sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Mặt khác quan hệ sản xuất còn mang bản chất giai cấp. Chúng ta đứng trên lập trường tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lê nin để nghiên cứu vấn đề sở hữu qua các hình thái kinh tế-xã hội và đặc biệt quan trọng là "Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt nam” hiện nay. Đây còn là vấn đề quan tâm có tính chất sống còn của mọi giai cấp, mọi tổ chức, cá nhân : Sở hữu về tư liệu sản xuất là cơ sở kinh tế đầu tiên quyết định địa vị của giai cấp cầm quyền, sở hữu là cơ sở kinh tế và là cơ sở pháp lý để các chủ thể thực hiện quyền năng pháp lý đó. Đối với nước ta hiện nay, thực hiện quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn Tư bản chủ nghĩa thì việc đòi hỏi phải củng cố và hoàn thiện một hệ thống lý luận khoa học sắc bén trong đó có lý luận về ‘sở hữu’ là tất yếu khách quan. Nó không chỉ là kim chỉ nam cho mọi hoạt động kinh tế của đất nước mà còn góp phần giải quyết, tháo gỡ vướng mắc, khắc phục sai lầm, lệch lạc của thực tiễn điều hành, quản lí vì sự hoàn thiện của chế độ sở hữu XHCN, từ đây tạo ra nền vật chất pháp lý cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. B. NỘI DUNG I. Những vấn đề lí luận về phạm trù sở hữu 1. Một số khái niệm a. Sở hữu Mối quan hệ giữa người với người trong quá trình chiếm hữu và sản xuất ra của cải vật chất trong xã hội là quan hệ sở hữu. Quan hệ sở hữu phản ánh sự chiếm giữ tư liệu sản xuất và các sản phẩm tiêu dùng, biểu hiện qua mối quan hệ người-vật. Quan hệ sở hữu là một quan hệ xã hội, phát sinh, tồn tại và phát triển trong quá trình chiếm hữu. Sở hữu là quan hệ kinh tế và pháp lý chứ không phải là quan hệ ý chí của con người trong xã hội. Theo nghĩa rộng thì quan hệ sở hữu kinh tế là tổng hoà các quan hệ sản xuất xã hội gồm sản xuất, phân phối trao đổi, tiêu dùng. Sở hữu về mặt kinh tế biểu hiện thông qua thu nhập, thu nhập ngày càng cao, sở hữu ngày càng được thực hiện. Sở hữu luôn hướng tới kinh tế, là động lực cho hoạt động kinh tế. b.Đối tượng sở hữu Trong điều kiện của nước ta, nhìn chung đối tượng chủ yếu của sở hữu là những tư liệu sản xuất quan trọng như : đất đai, tài nguyên, nhà máy, hầm mỏ, các phương tiện kỹ thuật hiện đại.... Vì thế làm chủ những đối tượng sở hữu chủ yếu là điều kiện tiên quyết cho việc làm chủ các quan hệ kinh tế. Lí luận và thực tiễn đều khẳng định rằng giai cấp nào nắm quyền sở hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu thì giai cấp ấy nắm quyền thống trị xã hội, nắm quyền chi phối tổng sản phẩm xã hội. Bởi vậy, xét đến cùng vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất vẫn là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cuộc cách mạng xã hội. Vì vậy, xác định các hình thức sở hữu thích hợp cho từng đối tượng sẽ đảm bảo cho các tư liệu sản xuất, mọi của cải vật chất của xã hội đều có chủ đích thực, tránh được tiêu hao, thất thoát các nguồn lực kinh tế của đất nước. c.Hình thức sở hữu Hình thức sở hữu đầu tiên là công hữu, sau đó do sự phát triển của lực lượng sản xuất, có sản phẩm dư thừa, có người chiếm làm của riêng nên xuất hiện tư hữu. Trong lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội, chung quy lại có hai loại hình sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất : Sở hữu công nghiệp và sở hữu tư nhân. Bên cạnh hai loại hình đó là hình thức sở hữu hỗn hợp. Một hình thức sở hữu có thể bao gồm nhiều hình thức sở hữu. Chẳng hạn loại hình sở hữu công nghiệp về tư liệu sản xuất có hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Sự xuất hiện của các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất do tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất quy định. Lực lượng sản xuất không ngừng vận động biến đổi làm cho các hình thức sở hữu cũng không ngừng vận động, biến đổi. Trong lịch sử phát triển của sản xuất xã hội, sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, từ chỗ phù hợp, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất dần dần trở nên lỗi thời, lạc hậu cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự thay thế sở hữu tư nhân bằng sở hữu công nghiệp về tư liệu sản xuất là tất yếu khách quan. d.Phương pháp tiếp cận vấn đề sở hữu Chủ nghĩa Mac-Lê nin chỉ rõ : Bất cứ một sự thay đổi nào của chế độ xã hội, bất cứ một sự cải biến nào về mặt quan hệ sở hữu cũng đều là kết quả tất yếu của việc tạo nên những lực lượng sản xuất mới, không phù hợp với các quan hệ sản xuất cũ nữa. Trong điều kiện của nước ta hiện nay, khi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất không đều giữa các ngành, các vùng thì việc xây dựng quan hệ sản xuất mới phải làm từng bước từ thấp đến cao, kết hợp với sự đa dạng về hình thức sở hữu và có bước đi thích hợp làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. 2. Cơ cấu các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất ở nước ta trong thời kì quá độ lên CNXH Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lê nin thì trong thời kì quá độ lên CNXH có hai phương thức quá độ. Đối với những nước như nước ta, quá độ lên CNXH từ một nước nghèo, lạc hậu, chưa qua giai đoạn phát triển TBCN thì nhất thiết cần có một thời kì lịch sử với sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế với đa hình thức sở hữu, trong đó có sở hữu tư nhân, để sử dụng sức mạnh và ưu thế của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường nhằm tạo điều kiện xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cần thiết cho CNXH. Trong nền kinh tế nước ta tồn tại ba hình thức sở hữu tư liệu sản xuất cơ bản : Sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Tương ứng với các hình thức sở hữu đó có năm thành phần kinh tế cơ bản : Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Mặc dù vậy trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ta hiện nay, nhằm phát triển lực lượng sản xuất thì sở hữu nhà nước, kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo để định hướng nền kinh tế đi theo đúng quỹ đạo. Thời kì quá độ lên CNXH là thời kì chuyển biến từ sở hữu tư nhân sang sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Sự chuyển biến đó mang tính chất khách quan tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sở hữu công cộng vừa là phương tiện, vừa là mục tiêu trong công cuộc xây dựng CNXH. Vấn đề quan trọng và cũng là mục đích của việc thiết lập sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất là làm cho nó có ưu thế hơn so với sở hữu tư nhân về năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Các hình thức sở hữu không tồn tại biệt lập mà đan xen và tác động lẫn nhau. Chính C.Mác và F.Anghen trong tác phẩm ‘‘ Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” đã nhấn mạnh : Chủ nghĩa cộng sản không xoá bỏ của ai quyền chiếm hữu các của cải mà chỉ xoá bỏ việc dùng những của cải ấy để nô dịch lao động của người khác.  Trong thời kì quá độ lên CNXH ở nước ta còn tồn tại đa hình thức sở hữu. Đó là tất yếu khách quan, vì bước vào thời kì quá độ, nền kinh tế nước ta còn ở trình độ kém phát triển. Trong thời kì quá độ lên CNXH, sở hữu tư bản tư nhân không còn là hình thức sở hữu thống trị nhưng vẫn tồn tại đan xen với hình thức sở hữu nhà nước kể cả trong những nghành kinh tế then chốt. Trong các khu vực kinh tề mà trình độ của lực lượng sản xuất thấp kém hơn thì tồn tại dưới các hình thức sở hữu cá thể và tập thể. Lợi ích của các chủ thể còn đòi hỏi các hình thức sở hữu liên kết với nhau và từ đó, hình thức sở hữu hỗn hợp xuất hiện. Sự hình thành, phát triển và biến đổi của sở hữu là một qúa trình lịch sử tự nhiên gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất không ngừng vận động, biến đổi và phát triển qua các giai đoạn lịch sử, qua các hình thái kinh tế xã hội với tính chất và trình độ xã hội hoá ngày càng cao... Đòi hỏi tất yếu là quan hệ sở hữu xác lập tương ứng phải phù hợp để mở đường thúc đẩy cho lực lượng sản xuất phát triển đi lên. ở nước ta, trước khi tiến hành đổi mới toàn diện đã có thời kì quá nhấn mạnh quan hệ sản xuất, đặc biệt là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất mà không xuất phát từ thực trạng của lực lượng sản xuất dẫn đến nôn nóng, chủ quan duy ý chí muốn xoá bỏ ngay các hình thức sở hữu phi CNXH, xây dựng và thúc đẩy cao sở hữu XHCN ( sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể) bằng việc tập trung cao độ, hợp tác cao độ thậm chí bằng việc quốc hữu hoá cưỡng bức trong điều kiện lực lượng sản xuất thấp kém nó đã kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển, làm cho năng suất lao động thấp, kinh tế không tăng trưởng và diễn ra khủng hoảng kinh tế xã hội. Nhưng sau đó Đảng ta đã nhận thức lại nhìn thẳng vào sự thật, nhận khuyết điểm và đi đúng quy luật bằng việc để ra đường lối đổi mới toàn diện từ Đại hội VI của Đảng. Thực tế những thành tựu thu được của hơn hai mươi năm đổi mới vừa qua đã minh chứng tính đúng đắn của việc vận dụng quy luật quan hệ sản xuất – lực lượng sản xuất ở nước ta. II. Cơ cấu sở hữu trong quá trình hoàn thành và phát triển kinh tế thị trường ở Việt nam theo định hướng XHCN. Sau Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, đặc biệt từ Đại hội VIII đến nay nền kinh tế nước ta đang từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường, có nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu, các chủ thể kinh doanh bao gồm cả quốc doanh, tập thể, tư nhân xuất hiện và cạnh tranh nhau trên thị trường. Chúng ta tiến hành công cuộc đổi mới, tiến hành hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN trước hết là điều chỉnh các hình thức sở hữu vốn có, kết hợp một cách tối ưu các lợi ích : Lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể với lợi ích của nhà nước. Sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu, việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần không phải là ‘‘thụt lùi’’ không làm mất ‘‘ CNXH’’ như một số người lầm tưởng mà chính là một chủ trương lớn để khai thác, phát huy mọi tiềm năng của toàn xã hội, cũng như tranh thủ sự hợp tác của các nước và các tổ chức quốc tế. Cơ sở lí luận để xác lập tính đa dạng các hình thức sở hữu thể hiện ở luận điểm của C.Mac và Anghen cho rằng : các hình thức sở hữu xác lập bởi trình độ xã hội hoá sản xuất. Vì vậy chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, đa dạng hoá sở hữu là một thành tựu to lớn cả về lí luận và thực tiễn của công cuộc đổi mới. Thực tiễn cho thấy một nền kinh tế nhiều thành phần đương nhiên phải bao gồm nhiều hình thức sở hữu để phù hợp với tính chất, đặc điểm của từng thành phần kinh tế, cũng như khai thác, thúc đẩy các yếu tố của lực lượng sản xuất phát triển. Sở hữu nhà nước Trong thời kì bao cấp trước đây chúng ta đã đồng nhất sở hữu toàn dân với sở hữu nhà nước. Do vậy cần phân biệt sở hữu toàn dân với sở hữu nhà nước. Nhà nước chỉ đại diện sở hữu toàn dân về đất đai, vùng biển, vùng trời, tài nguyên trong lòng đất, các công trình công cộng.... Nhà nước với tư cách là cơ quan quyền lực, đại biểu cho lợi ích của dân đóng vai trò người chủ sở hữu những đối tượng thuộc sở hữu toàn dân. Để khắc phục tình trạng vô chủ đối với các đối tượng thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước giao quyền sử dụng cho các cá nhân, tập thể người lao động thông qua các chính sách và pháp luật. Sở hữu Nhà nước còn bao gồm những tư liệu sản xuất, vốn... trong các doanh nghiệp nhà nước, ngân sách dự trữ quốc gia... Để bảo tồn và phát triển tài sản nhà nước, Nhà nước giao quyền sử dụng và quản lý cho các cá nhân, đơn vị tiến hành sản xuất, kinh doanh theo chế độ tự chủ, nhưng Nhà nước vẫn nắm quyền chi phối và điều tiết các hoạt động của các đơn vị kinh tế cơ sở. Trong giai đoạn hiện nay cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền sở hữu của Nhà nước và quyền quản lý kinh doanh của các chủ thể doanh nghiệp nhà nước nhằm thực hiện hạch toán kinh tế, đối với những doanh nghiệp nhà nước có chức năng nhằm ổn định thị trường giá cả một số loại mặt hàng cơ bản, thiết yếu cần xác định rõ quyền lợi và nghĩa vụ một cách cụ thể góp phần thúc đẩy nền kinh tế đi đúng hướng. Tiếp tục thực hiện chủ trương củng cố và xây dựng các doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả và cổ phần hoá doanh nghiệp là một việc làm hết sức cấp bách và quan trọng. Thực hiện tốt điều này sẽ tạo điều kiện để kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, mặt khác tạo cơ sở cần thiết để từng bước hoàn thiện, củng cố hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước dưới nhiều hình thức, mức độ khác nhau. Sở hữu toàn dân Điều 15 Hiến pháp 1992 quy định : ‘‘ Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất – kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể làm nền tảng’’ Hiến pháp 1992 và luật đất đai đã quy định rõ : ‘‘Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi biển, thềm lục địa và vùng trời....các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước đều thuộc sở hữu toàn dân’’. Văn kiện Đại hội III của Đảng đã chỉ rõ : ‘‘Trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, ruộng đất thu được giao cho nông dân sử dụng lâu dài. Nhà nước quy định bằng pháp luật các vấn đề thừa kế, chuyển nhượng quyền sử dụng’’ Sở hữu tập thể Báo cáo tại Đại hội IX của Đảng chỉ rõ : ‘‘ Kinh tế tập thể phát triển với nhiều hình thức đa dạng, trong đó Hợp tác xã là nòng cốt. Các HTX dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn’’ Sở hữu tập thể phải coi trọng lợi ích về kinh tế xã hội, nhất là trong nông nghiệp nông thôn, coi trọng hiệu quả kinh tế của tập thể và của từng thành viên. Xác lập sở hữu tập thể trong nông nghiệp nông thôn phải được xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong suốt quá trình thực hiện công nghiệp hoá - hiện đai hoá. Sở hữu tập thể phải có sự lãnh đạo và quản lý của Đảng, Nhà nước, phải gắn với việc phát huy cơ chế dân chủ cơ sở, ngăn ngừa tệ nạn tham nhũng, bảo đảm hài hoà cả ba lợi ích. Để duy trì và phát triển hơn nữa hình thức này Nhà nước cần tạo lập môi trường về thể chế xã hội, bảo đảm tính nhất quán thông thoáng, tạo động lực phát triển HTX. Các cấp, các nghành đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền về chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Phát triển loại hình sở hữu tập thể và các mô hình làm ăn có hiệu quả, làm cho mọi người hiểu rõ, hiểu đúng bản chất của sở hữu tập thể. 4. Sở hữu tư nhân a. Sở hữu cá thể : Ở nước ta hình thức này tồn tại chủ yếu dưới hình thức cá thể, tiểu chủ. Hiện nay hình thức này đang được khuyến khích phát triển và đang có xu hướng phát triển thuận lợi. Vì thế sở hữu cá thể cũng có quan hệ khăng khít với hình thức sở hữu tập thể. Trong những năm qua hình thức này đã góp phần quan trọng trong các thành tựu kinh tế – xã hội, góp phần tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội, giải quyết nhiều việc làm cho người lao động – một vấn đề bức bách hiện nay. Tuy nhiên, cần thấy rằng kinh tế cá thể, tiểu chủ thực chất là thành phần kinh tế sản xuất nhỏ, dựa trên sở hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và lao động của bản thân người sản xuất, nên gặp khó khăn về vốn, kỹ thuật, còn mang tính tự phát, manh mún, phân tán. Vì thế cần phải có biện pháp kinh tế để giúp đỡ kinh tế cá thể, tiểu chủ giải quyết khó khăn. b. Sở hữu tư bản tư nhân Ở nước ta hiện nay kinh tế tư nhân đang hình thành phát triển. Đây là hình thức sở hữu tư bản tư nhân về tư liệu sản xuất. Trong thời kì quá độ lên CNXH ở nước ta, kinh tế tư bản tư nhân có vai trò đáng kể xét về phương diện phát triển lực lượng sản xuất cũng như phương diện giải quyết các vấn đề xã hội Nhà nước ta chủ trương tôn trọng và bảo vệ quyền sở hữu những tài sản và thu nhập hợp pháp của các chủ sở hữu tư nhân. Sở hữu tư nhân đã góp phần đáng kể cho tăng trưởng kinh tế, đóng góp này càng nhiều cho ngân sách Nhà nước, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá nhất là trong nông nghiệp nông thôn. Là một trong những nguồn nội lực quan trọng đẩy mạnh việc thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tuy vậy sở hữu tư nhân còn nhỏ bé về quy mô, thấp kém về tay nghề và kỹ thuật. Năm 2000 vốn trong sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp tư nhân có 3,7 tỉ đồng. Số lao động bình quân 28,5 người/doanh nghiệp. Nhìn chung sở hữu tư nhân vẫn là cơ sở để nảy sinh hiện tượng người bóc lột người, vì vậy khi thừa nhận sở hữu tư nhân, Nhà nước phải có chính sách, biện pháp tích cực để hạn chế mặt tiêu cực, tự phát của nó để định hướng đi lên CNXH. 5. Sở hữu hỗn hợp Là hình thức sở hữu có sự tham gia của nhiều loại chủ thể khác nhau về tính chất. Đây là loại hình kinh tế chung gian có tính chất đan xen giữa kinh tế tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Có thể tồn tại dưới nhiều hình thức : Sở hữu trong các doanh nghiệp tư bản nhà nước, trong liên doanh gồm vốn của Nhà nước, tư nhân và tập thể. III. Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu Ý nghĩa thực tiễn Chế độ sở hưu với các hình thức sở hữu đa dạng tương ứng với các thành phần kinh tế khác nhau hiện nay ở nước ta đang hoà quyện đan xen, bổ sung cho nhau để phát triển theo định hướng XHCN. Đây là việc chọn lựa hợp quy luật, có hiệu quả, phát huy được vai trò các hình thức sở hữu. Ý nghĩa lí luận Sở hữu là vấn đề hết sức quan trọng và phức tạp khi nghiên cứu, xem xét. Việc nắm vững vấn đề sở hữu, đặc biệt là luận điểm của chủ nghĩa Mác- Lê nin sẽ là cơ sở lý luận nền tảng tư tưởng cho việc hoạch định, định hướng phát triển cho đất nước. Đó là căn cứ để đấu tranh chống lại các tư tưởng phản động, chống đối, xuyên tạc, cho rằng sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa là bất diệt. IV. Một số giải pháp cho vấn đề sở hữu ở nước ta hiện nay Giải pháp chính trị, pháp lí : Đảng, Nhà nước cần ban hành các chủ trương, chính sách sở hữu đúng đắn, kịp thời, phù hợp.... thể chế hoá chúng thành pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội vận hành tốt : Chính sách sở hữu đối với việc sử dụng, quản lí tài sản thuộc quản lí của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân, hoàn thiện pháp luật về sở hữu, chính sách đối với các thành phần kinh tế. 2. Giải pháp kinh tế - xã hội nhằm tạo ra cơ sở kinh tế – vật chất kỹ thuật bảo đảm môi trường kinh tế – xã hội ổ định, lành mạnh, cho các quan hệ sở hữu tự do vận hành trong khuôn khổ pháp luật. - Các thành phần kinh tế đều bình đẳng trong cạnh tranh, chịu sự quản lý của Nhà nước. - Giáo dục ý thức pháp luật, trách nhiệm xã hội, giáo dục truyền thống lịch sử và kiến thức về sở hữu cho mọi công dân để từ đó có cách sử sự đúng đắn, hợp pháp. - Giải quyết vấn đề phân biệt rõ quyền sở hữu, quyền quản lý và
Luận văn liên quan