Tiền tệ từ lâu đã trở thành vật ngang giá chung của các hàng hoá, dịch vụ. Các giao dịch buôn bán ở hầu hết mọi nơi trên thế giới đều sử dụng tiền và tiền tệ gắn liền với quan hệ lợi ích. Thực tế này minh chứng cho vai trò quan trọng của tiền tệ trong nền kinh tế của các quốc gia cũng như toàn thế giới. Nó được đặc trưng bởi sức mua; khi sức mua thay đổi hay lạm phát xuất hiện sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của mọi người, từ các tổ chức, cá nhân cho tới chính phủ. Do vậy, lạm phát chính là đối tượng nghiên cứu của các nhà kinh tế học từ nhiều năm nay. Lạm phát được coi như là một căn bệnh thế kỉ của nền kinh tế thị trường, mặc dù lý thuyết về lạm phát đã khá phát triển nhưng việc làm thế nào vận dụng các biện pháp để kiểm soát chúng có hiệu quả đối với mỗi nền kinh tế vẫn luôn là vấn đề phức tạp.
Nhìn lại lịch sử lạm phát ở nước ta, từ cuối thế kỉ 19 đến đầu thế kỉ 20, lạm phát diễn ra kéo dài và nghiêm trọng. Lạm phát đã phá vỡ toàn bộ kế hoạch của nền kinh tế Việt Nam đồng thời ảnh hưởng đến tất cả các mối quan hệ trong nền kinh tế xã hội. Những sự kiện gần đây như việc Việt Nam gia nhập WTO, luồng vốn nước ngoài đã đột ngột chảy mạnh vào Việt Nam trong năm 2008, các vấn đề của thị trường ngoại hối Việt Nam trong hai năm 2009 và 2010 và cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới cũng như nguy cơ lạm phát tăng mạnh trở lại đã đặt ra nhiều thách thức mới cho việc quản lý kinh tế vĩ mô và đặc biệt trong việc kiểm soát lạm phát ở Việt Nam. Với sự điều hành quản lý của nhà nước, lạm phát đã phần nào được ngăn chặn, khắc phục; tuy nhiên với nhiều bất cập như thị trường tài chính tiền tệ kém phát triển, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp, các chính sách pháp luật vừa chồng chéo, vừa thiếu đồng bộ. lạm phát vẫn chưa thật sự được đẩy lùi mà còn có nguy cơ quay trở lại, diễn biến một cách phức tạp. Vì thế, việc tìm hiểu lạm phát trong thời gian qua, giai đoạn 2008-2010, về nguyên nhân, diễn biến, tác động, giải pháp sẽ giúp ta có một cái nhìn tổng quan hơn, đúc kết được kinh nghiệm để xây dựng chiến lược phát triển đất nước trong thời gian sắp tới.
30 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4119 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 2008-2010 và các giải pháp ứng phó trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Tiền tệ từ lâu đã trở thành vật ngang giá chung của các hàng hoá, dịch vụ. Các giao dịch buôn bán ở hầu hết mọi nơi trên thế giới đều sử dụng tiền và tiền tệ gắn liền với quan hệ lợi ích. Thực tế này minh chứng cho vai trò quan trọng của tiền tệ trong nền kinh tế của các quốc gia cũng như toàn thế giới. Nó được đặc trưng bởi sức mua; khi sức mua thay đổi hay lạm phát xuất hiện sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của mọi người, từ các tổ chức, cá nhân cho tới chính phủ. Do vậy, lạm phát chính là đối tượng nghiên cứu của các nhà kinh tế học từ nhiều năm nay. Lạm phát được coi như là một căn bệnh thế kỉ của nền kinh tế thị trường, mặc dù lý thuyết về lạm phát đã khá phát triển nhưng việc làm thế nào vận dụng các biện pháp để kiểm soát chúng có hiệu quả đối với mỗi nền kinh tế vẫn luôn là vấn đề phức tạp.
Nhìn lại lịch sử lạm phát ở nước ta, từ cuối thế kỉ 19 đến đầu thế kỉ 20, lạm phát diễn ra kéo dài và nghiêm trọng. Lạm phát đã phá vỡ toàn bộ kế hoạch của nền kinh tế Việt Nam đồng thời ảnh hưởng đến tất cả các mối quan hệ trong nền kinh tế xã hội. Những sự kiện gần đây như việc Việt Nam gia nhập WTO, luồng vốn nước ngoài đã đột ngột chảy mạnh vào Việt Nam trong năm 2008, các vấn đề của thị trường ngoại hối Việt Nam trong hai năm 2009 và 2010 và cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới cũng như nguy cơ lạm phát tăng mạnh trở lại đã đặt ra nhiều thách thức mới cho việc quản lý kinh tế vĩ mô và đặc biệt trong việc kiểm soát lạm phát ở Việt Nam. Với sự điều hành quản lý của nhà nước, lạm phát đã phần nào được ngăn chặn, khắc phục; tuy nhiên với nhiều bất cập như thị trường tài chính tiền tệ kém phát triển, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp, các chính sách pháp luật vừa chồng chéo, vừa thiếu đồng bộ... lạm phát vẫn chưa thật sự được đẩy lùi mà còn có nguy cơ quay trở lại, diễn biến một cách phức tạp. Vì thế, việc tìm hiểu lạm phát trong thời gian qua, giai đoạn 2008-2010, về nguyên nhân, diễn biến, tác động, giải pháp…sẽ giúp ta có một cái nhìn tổng quan hơn, đúc kết được kinh nghiệm để xây dựng chiến lược phát triển đất nước trong thời gian sắp tới.
Với những nội dung cơ bản như trên, đề án được trình bày theo 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về vấn đề lạm phát.
Chương 2: Thực trạng lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 2008-2010.
Chương 3: Các giải pháp ứng phó với lạm phát tại Việt Nam trong thời gian tới.
Mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng do trình độ và thời gian có hạn, trong quá trình nghiên cứu đề tài chắc chắn còn nhiều thiếu sót, kính mong nhận được sự góp ý và chỉ bảo tận tình từ các thầy cô giáo để đề án được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành gửi lời cảm ơn đến thầy Th.s Nguyễn Ngọc đã hướng dẫn em hoàn thành đề án này.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ LẠM PHÁT
1.1. Quan niệm, cách tính, phân loại lạm phát
1.1.1. Quan niệm về lạm phát
Lạm phát là vấn đề không xa lạ đối với một nền kinh tế nhưng hiểu chính xác lạm phát là gì không phải dễ, và ngay cả các nhà kinh tế học cũng có rất nhiều quan điểm, cách tiếp cận, lý luận khác nhau về lạm phát.
Trường phái kinh tế học thị trường
Theo trường phái kinh tế học thị trường (đại diện là Milton Friedman), họ cho rằng lạm phát là “một hiện tượng xã hội của tất cả các nước có sử dụng tiền tệ hiện đại”, là “đưa nhiều tiền thừa vào lưu thông làm cho giá cả hàng hoá tăng lên”. Chúng ta đều biết rằng không phải bất cứ số lượng tiền nào tăng lên trong lưu thông với nhịp điệu nhanh hơn sản xuất cũng đều là lạm phát, nếu như nhà nước không giảm bớt nội dung vàng hoặc giá trị tượng trưng trong đồng tiền để bù đắp cho bội chi ngân sách. Những người theo học thuyết này đã dùng logic hình thức để kết hợp một cách máy móc hiện tượng tăng số lượng tiền với hiện tượng tăng giá để rút ra bản chất kinh tế của lạm phát.
Trường phái cầu kéo
Theo trường phái lạm phát do cầu kéo (đại diện là J.Keynes), họ cho rằng lạm phát là “cầu dư thừa tổng quát cho phát hành tiền ra quá mức sản xuất trong thời kỳ toàn dụng dẫn đến mức giá chung tăng”. Chúng ta nhận thức được rằng nói lạm phát là “cầu dư thừa tổng quát” là không chính xác, vì trong giai đoạn khủng hoảng ở thời kỳ Chủ nghĩ tư bản phát triển, mặc dù có khủng hoảng sản xuất thừa mà không có lạm phát. Còn ở Việt Nam trong năm 1991 có tình trạng cung lớn hơn cầu mà vẫn có lạm phát giá cả và lạm phát tiền tệ. Tuy Keynes đã tiến sâu hơn trường phái kinh tế học thị trường là không lấy hiện tượng bề ngoài, không coi điều kiện của lạm phát là nguyên nhân của lạm phát nhưng lại mắc sai lầm về mặt logic là đem kết quả của lạm phát quy vào bản chất của lạm phát. Khái niệm của Keynes vẫn chưa nêu được đúng bản chất kinh tế - xã hội của lạm phát.
Trường phái lạm phát và giá cả
Theo trường phái lạm phát giá cả họ cho rằng lạm phát là “sự tăng giá”. Thực chất lạm phát chỉ là một trong nhiều nguyên nhân của tăng giá. Có những thời kỳ giá mà không có lạm phát như: thời kỳ “cách mạng giá cả” ở thế kỷ XVI ở châu Âu, thời kỳ hưng thịnh của một chu kỳ sản xuất, những năm mất mùa... tăng giá chỉ là hệ quả là một tín hiệu dễ thấy của lạm phát nhưng có lúc tăng giá lại trở thành nguyên nhân của lạm phát. Lạm phát xảy ra là do tăng nhiều yếu tố chứ không phải chỉ đơn thuần do tăng giá. Vì vậy quan điểm của trường phái này đã lẫn lộn giữa hiện tượng và bản chất, làm cho người ta dễ ngộ nhận giữa tăng giá và lạm phát.
Trường phái Karl Marx
K.Marx đã cho rằng: lạm phát là “sự tràn đầy các kênh, các luồng lưu thông những tờ giấy bạc thừa làm cho giá cả (mức giá) tăng vọt và việc phân phối lại sản phẩm xã hội giữa các giai cấp trong dân cư có lợi cho giai cấp tư sản”. Ở đây Marx đã đứng trên góc độ giai cấp để nhìn nhận lạm phát, từ đó dẫn tới việc người ta có thể hiểu lạm phát là do giai cấp tư bản chủ động tạo ra để bóc lột một lần nữa giai cấp vô sản. Trường phái này có nhược điểm là cho rằng lạm phát chỉ là phạm trù kinh tế của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và chưa nêu được ảnh hưởng của lạm phát trên phạm vi quốc tế.
Trên đây là các quan điểm của các trường phái kinh tế học chính. Nói chung các quan điểm đều chưa hoàn chỉnh, nhưng đã nêu được một số mặt của hai thuộc tính cơ bản của lạm phát.
Ở nước ta cũng như nhiều nước khác, quan niệm của trường phái giá cả được chấp nhận tương đối phổ biến. Sở dĩ như vậy là vì thế kỷ XX là thế kỷ lạm phát, lạm phát hầu như diễn ra ở tuyệt đại bộ phận các nước mà sự tăng giá lại là tín hiệu nhạy bén, dễ thấy của lạm phát. Nói chung, lạm phát chính là một hiện tượng của các nền kinh tế thị trường, và chúng ta sẽ hiểu đơn giản lạm phát là “sự tăng giá kéo dài, là sự thừa các đồng tiền trong lưu thông, là việc nhà nước phát hành thêm tiền nhằm bù đắp bội chi ngân sách”.
1.1.2. Cách tính tỉ lệ lạm phát
Lạm phát được đo lường bằng tỷ lệ lạm phát mà nó là suất tăng của mức giá tổng quát theo thời gian. Vấn đề đặt ra trước tiên là mức giá tổng quát được tính toán như thế nào? Hai thước đo thông dụng phản ánh mức gía tổng quát là chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và chỉ số điều chỉnh GDP (GDP deflator).
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là một tỷ số phản ánh giá của rổ hàng hoá trong nhiều năm khác nhau so với giá của cùng rổ hàng hoá đó trong năm gốc 1. Chỉ số giá này phụ thuộc vào năm được chọn làm gốc và sự lựa chọn rổ hàng hoá tiêu dùng.
Về mặt tính toán, CPI được tính như sau:
Trong đó:
: rỗ hàng hoá,
: giá của các mặt hàng
t : năm hiện hành
0 : năm gốc
Chỉ số điều chỉnh GDP là loại chỉ số có mức bao phủ rộng nhất. Nó bao gồm tất cả các hàng hoá và dịch vụ được sản xuất trong nền kinh tế và trọng số tính toán được điều chỉnh tuỳ thuộc vào mức độ đóng góp tương ứng của các loại hàng hoá và dịch vụ vào giá trị gia tăng. Về mặt khái niệm, đây là chỉ số đại diện tốt hơn cho việc tính toán tỷ lệ lạm phát trong nền kinh tế. Tuy nhiên, chỉ số giá này không phản ánh trực tiếp sự biến động trong giá hàng nhập khẩu cũng như sự biến động của tỷ giá hối đoái.
Về mặt tính toán, chỉ số điều chỉnh GDP được tính như sau:
Trong đó:
: rỗ hàng hoá,
: giá của các mặt hàng
t : năm hiện hành
0 : năm gốc
1.1.3. Phân loại lạm phát
1.1.3.1. Căn cứ vào định lượng
Lạm phát vừa phải: là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới 10% một năm. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối. Trong thời kì này nền kinh tế hoạt động một cách bình thường, đời sống của người lao động ổn định. Sự ổn định đó được biểu hiện: giá cả tăng chậm, lãi suất tiền gửi không cao, không xảy ra tình trạng mua bán và tích trữ hàng hoá với số lượng lớn…Có thể nói đây là mức lạm phát mà nền kinh tế chấp nhận được, những tác động của nó là không đáng kể.
Lạm phát phi mã: là lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2 con số 1 năm. Ở mức 2 con số thấp: 11,12% thì nói chung các tác động tiêu cực không đáng kể và nền kinh tế vẫn có thể chấp nhận được. Nhưng khi tăng đến hai chữ số cao thì lạm phát sẽ làm cho giá cả chung tăng lên nhanh chóng, gây biến động lớn về kinh tế, các hợp đồng được chỉ số hoá. Lúc này người dân tích trữ hàng hoá, vàng bạc, bất động sản và không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi suất bình thường. Như vậy lạm phát sẽ làm ảnh hưởng xấu đến sản xuất và thu nhập. Bên cạnh đó lạm phát phi mã còn là mối đe doạ đối với sự ổn định của nền kinh tế.
Siêu lạm phát: là lạm phát 3 con số một năm, xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ rất nhanh, tỷ lệ lạm phát cao. Tốc độ và tỷ lệ siêu lạm phát vượt xa lạm phát phi mã, nó như một căn bệnh chết người, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng kinh khủng, giá cả tăng nhanh và không ổn định, tiền lương thực tế của người lao động bị giảm mạnh, tiền tệ mất giá nhanh chóng, thông tin không còn chính xác, các yếu tố thị trường biến dạng và hoạt động sản xuất kinh doanh lâm vào tình trạng rối loạn, mất phương hướng. Tóm lại, siêu lạm phát làm cho đời sống và nền kinh tế suy sụp một cách nhanh chóng. Tuy nhiên siêu lạm phát rất ít xảy ra.
1.1.3.2. Căn cứ vào định tính
Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng:
Lạm phát cân bằng: Tăng tương ứng với thu nhập thực tế của người lao động, tăng phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Do đó không gây ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của người lao động và đến nền kinh tế nói chung.
Lạm phát không cân bằng: Tăng không tương ứng với thu nhập của người lao động. Trên thực tế loại lạm phát này cũng thường hay xảy ra.
Lạm phát dự đoán trước được và lạm phát bất thường:
Lạm phát dự đoán trước: là loại lạm phát xảy ra hàng năm trong một thời kì tương đối dài và tỷ lệ lạm phát ổn định đều đặn. Về mặt tâm lý, người dân đã quen với tình trạng lạm phát đó và đã có sự chuẩn bị trước. Do đó không gây ảnh hưởng đến đời sống, đến kinh tế.
Lạm phát bất thường: xảy ra đột biến mà có thể từ trước chưa xuất hiện. Loại lạm phát này ảnh hưởng đến tâm lý, đời sống người dân vì họ chưa kịp thích nghi. Từ đó mà loại lạm phát này sẽ gây ra biến động đối với nền kinh tế và niềm tin của nhân dân vào chính quyền có phần giảm sút.
1.2. Nguyên nhân, tác động của lạm phát
1.2.1. Nguyên nhân
1.2.1.1. Lạm phát do cầu kéo
Khi tổng cầu tăng quá nhanh trong khi tổng cung không tăng hoặc tăng không kịp, hay nói cách khác là nền kinh tế đã vượt qua mức sản lượng tiềm năng của nó sẽ dẫn tới lạm phát do cầu kéo. Lúc này thì đồng tiền cầu sẽ vượt quá mức cung hàng hóa có giới hạn và sẽ làm cho chúng tăng giá.
Ta có thể thấy rõ hơn cơ chế lạm phát cầu kéo qua mô hình sau đây:
Đồ thị 1.1: Lạm phát cầu kéo
(Nguồn giáo trình Nhập môn tài chính tiền tệ - ĐH Thương Mại)
Trong ngắn hạn, đường tổng cung AS (Aggregate demand) mới đầu nằm ngang và sẽ dốc ngược lên khi vượt quá mức sản lượng tiềm năng Q*. Điều này là do khi chưa đạt mức sản lượng tiềm năng, một sự thay đổi nhỏ về giá cả của đầu ra cũng khuyến khích được các hãng tăng nhanh sản lượng sản xuất ra để đáp ứng sự tăng lên của nhu cầu, thu nhiều lợi nhuận hơn. Khi sản lượng của nền kinh tế là Q’ > Q*, chi phí đầu vào đã kịp thời điều chỉnh tăng lên, các hãng không còn động lực để tăng cao sản lượng nữa, do đó dù giá có tăng nhiều nhưng sản lượng vẫn không tăng đáng kể hay đường AS có độ dốc lớn. Lúc đó, cầu tăng mạnh, đường AD0 dịch chuyển lên trên đến vị trí mới là AD1 và mức giá tăng nhanh từ P0 đến P1. Tổng cầu tăng liên tục làm cho đường tổng cầu liên tiếp dịch chuyển về phía bên phải và mức giá không ngừng tăng lên, tức là xảy ra lạm phát cầu kéo.
Khi đường cầu dịch chuyển đến AD1, nền kinh tế ở trạng thái vượt quá trạng sản lượng tiềm năng và toàn dụng nhân công, người lao động gây áp lực tăng lương làm cho tổng cung giảm, đường tổng cung AS0 dịch chuyển về bên trái tới vị trí AS1. Mức giá tăng tiếp từ P1 đến P2, nền kinh tế lại chuyển về trạng thái đạt mức sản lượng tiềm năng và toàn dụng nhân công. Cứ như thế, sau khi đường tổng cầu dịch chuyển về bên phải thì đường tổng cung lại dịch chuyển về bên trái kéo theo mức giá tăng liên tục.
1.2.1.2. Lạm phát do chi phí đẩy
Hình thức của lạm phát do chi phí đẩy phát sinh từ phía cung, do chi phí sản xuất cao hơn đã được chuyển sang người tiêu dùng. Điều này chỉ có thể đạt trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế khi người tiêu dùng sẵn sàng trả với giá cao hơn. Ví dụ: Nếu tiền lương chiếm một phần đáng kể trong chi phí sản xuất và dịch vụ và nếu tiền lương tăng nhanh hơn năng suất lao động thì tổng chi phí sản xuất sẽ tăng lên. Nếu nhà sản xuất có thể chuyển việc tăng chi phí này cho người tiêu dùng thì giá bán sẽ tăng lên, công nhân và các công đoàn sẽ yêu cầu tiền lương cao hơn trước để phù hợp với chi phí sinh hoạt tăng lên điều đó tạo vòng xoáy lượng giá.
Mô hình dưới đây cho ta thấy quá trình diễn ra lạm phát chi phí đẩy:
Đồ thị 1.2: Lạm phát chi phí đẩy
(Nguồn giáo trình Nhập môn tài chính tiền tệ - ĐH Thương Mại)
Ban đầu đường tổng cầu là AD0, đường tổng cung là AS0. Khi chi phí đầu vào tăng (ví dụ giá dầu lửa tăng), các hãng giảm mức cung hàng hoá, dịch vụ và đường tổng cung dịch chuyển sang tới vị trí AS1, sản lượng giảm xuống còn Q’, đẩy mức giá tăng từ P0 lên P1. Hiện tượng mức giá tăng liên tục, đồng thời sản lượng (hay GDP thực tế) suy giảm được gọi tình trạng lạm phát đình trệ hay đình lạm; kèm theo đó là thất nghiệp gia tăng.
1.2.1.3. Lạm phát do cung tiền tệ cao và liên tục
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học, khi cung tiền tệ tăng lên kéo dài làm cho mức giá tăng lên kéo dài và gây ra lạm phát. Có thể thấy ngưỡng tăng cung tiền để gây lạm phát là nền kinh tế toàn dụng. Thật vậy, ở nền kinh tế toàn dụng, các nhà máy, xí nghiệp được hoạt động hết công suất, nguồn nguyên nhiên vật liệu được khai thác tối đa. Khi đó lực lượng lao động được sử dụng một cách triệt để và làm sản lượng tăng lên rất nhiều. Tuy nhiên, tình hình này sẽ dẫn đến một vài kênh tắc nghẽn trong lưu thông. Chẳng hạn khi các nhà máy, xí nghiệp hoạt động hết công suất sẽ dẫn đến thiếu năng lượng, thiếu lao động, nguyên vật liệu dần bị han hiếm…Vai trò của chính phủ và các nhà quản lý phải xác định được kênh lưu thông nào bị tắc nghẽn và tìm cách khơi thông nó. Nếu không sẽ gây ra lạm phát. Lúc đó sản lượng không tăng mà giá cả tăng nhiều thì lạm phát tất yếu sẽ xảy ra.
Ngoài ra còn có một số các nguyên nhân khác cũng gây ra lạm phát:
Thứ nhất là tâm lý của dân cư. Khi người dân không tin tưởng vào đồng tiền của Nhà nước, họ sẽ không giữ tiền mà đẩy vào lưu thông bằng việc mua hàng hoá dự trữ hoặc đầu tư vào một lĩnh lực kinh doanh nào đó… Như thế cầu sẽ tăng lên mà cung cấp không đáp ứng được cân bằng cung cầu trên thị trường hàng hoá không còn nữa và tiếp tục đẩy giá lên cao, từ đó lạm phát sẽ xảy ra. Có thể thấy giá cả tăng lên làm tiêu dùng tăng, cứ như vậy sẽ gây ra xoáy ốc lạm phát.
Thứ hai là thâm hụt ngân sách. Khi lâm vào tình trạng thâm hụt trầm trọng và kéo dài thì chính phủ phải áp dụng biện pháp in tiền. Việc phát hành tiền sẽ ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ làm tăng mức cung ứng tiền, đẩy tổng cầu lên cao và làm tăng thêm tỷ lệ lạm phát.
Thứ ba là tỷ giá hối đoái. Khi tỷ giá tăng đồng bản tệ sẽ bị mất giá. Khi đó tâm lý những người sản xuất trong nước muốn đẩy giá hàng lên tương ứng với mức tăng tỷ giá hối đoái. Mặt khác khi tỷ giá hối đoái tăng, chi phí cho các nguyên vật liệu, hàng hoá nhập khẩu sẽ tăng lên. Do đó giá cả của các hàng hoá này tăng lên cao. Đây chính là lạm phát do chi phí đẩy.
1.2.2. Mối quan hệ giữa lạm phát và một số biến số kinh tế vĩ mô
1.2.2.1. Quan hệ giữa lạm phát và lãi suất
Để thấy rõ mối quan hệ lạm phát và lãi suất chúng ta cần phân biệt lãi suất danh nghĩa (nominal interest rate) và lãi suất thực (real interest rate). Lãi suất được yết tại các ngân hàng hay được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng là lãi suất danh nghĩa. Lãi suất danh nghĩa được đo bằng số lượng tiền tệ. Lãi suất thực là lãi suất đo bằng lượng hàng hóa mua được; đó là tỷ lệ phần trăm lượng hàng hóa tăng lên hoặc giảm đi mà cùng một số tiền hiện tại hay giá trị của số tiền đó trong tương lai có thể mua được do không chi tiêu ngày hôm nay và đem cho vay. Lãi suất thực bằng lãi suất danh nghĩa sau khi đã tính đến tác động của lạm phát. Quan hệ giữa lãi suất và tỷ lệ lạm phát được thể hiện qua đẳng thức sau:
Đẳng thức trên có ý nghĩa quan trọng đối với quyết định mua sắm hay đầu tư. Nếu lãi suất danh nghĩa không đủ để bù đắp tỷ lệ lạm phát thì một người khôn ngoan sẽ không cho vay tiền để sau này được nhận một giá trị thực nhỏ hơn giá trị ban đầu của khoản tiền anh ta có. Quan hệ giữa lãi suất và lạm phát còn áp dụng được khi tính toán để đưa ra quyết định đầu tư. Nếu lợi nhuận/ vốn đầu tư < lãi suất thực thì nhà đầu tư sẽ không có lợi bằng việc đem tiền cho vay (với thời hạn cho vay bằng khoảng thời gian đầu tư) để hưởng lãi suất.
1.2.2.2. Quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp
Khi đề cập đến mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp, người ta thường sử dụng đường cong Phillip. Tuy nhiên, đường cong Phillip hiện đại khác với đường Phillip ban đầu ở chỗ: đường Phillip hiện đại phản ánh quan hệ giữa lạm phát giá cả và thất nghiệp chứ không phải giữa lạm phát tiền lương và thất nghiệp; đường Phillip hiện đại có tính đến tỷ lệ lạm phát dự kiến cũng như cú sốc cung. Trong phân tích sau đây, chúng ta sẽ sử dụng đường cong Phillip hiện đại cho phù hợp với thực tiễn kinh tế các nước.
Đồ thị 1.3: Đường PhiLip ngắn hạn và dài hạn
(Nguồn: Giáo trình kinh tế học vĩ mô – NXB Giáo dục)
Trong ngắn hạn:
Đường cong Phillip trong ngắn hạn cho thấy mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp khi tỷ lệ lạm phát dự kiến của nền kinh tế ở một mức nhất định. Trong ngắn hạn, quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp là tỷ lệ nghịch, tức là có thể đánh đổi lạm phát cao để lấy thất nghiệp thấp. Nếu lạm phát tăng cao hơn tỷ lệ lạm phát dự kiến (ei) thì thất nghiệp sẽ giảm xuống thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên (UN) và ngược lại. Đường Phillip ngắn hạn sẽ dịch chuyển khi một trong hai yếu tố tỷ lệ lạm phát dự kiến hoặc tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên thay đổi. Khi tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên tăng từ UN đến UN1 thì đường Phillip mới là là đường (P1). Trong trường hợp tỷ lệ lạm phát dự kiến giảm xuống ei’, tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên không đổi thì đường Phillip dịch chuyển sang (P').
Đường Phillip ngắn hạn chỉ thể hiện sự đánh đổi giữa thất nghiệp và lạm phát khi có các cơn sốt cầu: cầu tăng dẫn đến giá tăng cao, sản xuất tăng và thất nghiệp giảm; còn khi xuất hiện các cơn sốt cung: chi phí sản xuất tăng, sản xuất bị thu hẹp làm cho giá cả tăng và thất nghiệp cũng tăng.
Dựa vào đường Phillip ngắn hạn, các nhà hoạch định chính sách có thể lựa chọn chính sách kinh tế vĩ mô (nhất là chính sách tài chính, tiền tệ). Chẳng hạn, khi nền kinh tế gặp phải lạm phát cao, chính phủ theo đuổi mục tiêu giảm lạm phát sẽ thắt chặt chính sách tiền tệ (tăng lãi suất, giảm chi tiêu chính phủ...) và thất nghiệp sẽ gia tăng. Ngược lại, nếu nền kinh tế rơi vào suy thoái, thất nghiệp gia tăng thì chính phủ lại kích cầu đầu tư và tiêu dùng để giảm thất nghiệp nhưng phải chấp nhận lạm phát cao.
Trong dài hạn:
Đường Phillip dài hạn là một đường thẳng song song với trục biểu diễn tỷ lệ lạm phát và cắt trục hoành tại điểm có tỷ lệ lạm phát tự nhiên (UN). Về lâu dài, tỷ lệ thất nghiệp thực tế