Đề án Thực trạng nền kinh tế Việt Nam mục tiêu đến năm 2010 và giải pháp thực hiện

Như ta đã biết, kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ phát triển nhất định của văn minh nhân loại. Từ trước đến nay nó tồn tại và phát triển chủ yếu dưới chủ nghĩa tư bản, là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản đã biết lợi dụng tối đa ưu thế của kinh tế thị trường để phục vụ cho mục tiêu phát triển tiềm năng kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận, và một cách khách quan nó thúc đẩy lực lượng sản xuất của xã hội phát triển mạnh mẽ. Ngày nay, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã đạt tới giai đoạn phát triển khá cao và phồn thịnh trong các nước tư bản phát triển. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát mà nước ta đã chọn trong thời kỳ đổi mới. Nó vừa mang những tính chất chung của kinh tế thị trường, vừa có những đặc thù, được quyết định bởi nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đây là sự vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm trong nước và thế giới về phát triển kinh tế thị trường, là sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng trong quá trình lãnh đạo nhân dân xây dựng đất nước. Trong bài viết này, do kiến thức còn hạn hẹp nên em chỉ trình bày một số vấn đề cơ bản về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nội dung bài viết được chia làm ba phần lớn: - Phần I: Viết về các quan niệm về kinh tế thị trường và lý do phải phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. - Phần II: Nêu những đặc trưng cơ bản về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. - Phần III: Phác thảo một số thực trạng; mục tiêu phấn đấu của Đảng và Nhà nước ta đến năm 2010; các giải pháp khắc phục và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

doc30 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2186 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng nền kinh tế Việt Nam mục tiêu đến năm 2010 và giải pháp thực hiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. ĐẶT VẤN ĐỀ Như ta đã biết, kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ phát triển nhất định của văn minh nhân loại. Từ trước đến nay nó tồn tại và phát triển chủ yếu dưới chủ nghĩa tư bản, là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản đã biết lợi dụng tối đa ưu thế của kinh tế thị trường để phục vụ cho mục tiêu phát triển tiềm năng kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận, và một cách khách quan nó thúc đẩy lực lượng sản xuất của xã hội phát triển mạnh mẽ. Ngày nay, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã đạt tới giai đoạn phát triển khá cao và phồn thịnh trong các nước tư bản phát triển. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát mà nước ta đã chọn trong thời kỳ đổi mới. Nó vừa mang những tính chất chung của kinh tế thị trường, vừa có những đặc thù, được quyết định bởi nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đây là sự vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm trong nước và thế giới về phát triển kinh tế thị trường, là sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng trong quá trình lãnh đạo nhân dân xây dựng đất nước. Trong bài viết này, do kiến thức còn hạn hẹp nên em chỉ trình bày một số vấn đề cơ bản về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nội dung bài viết được chia làm ba phần lớn: - Phần I: Viết về các quan niệm về kinh tế thị trường và lý do phải phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. - Phần II: Nêu những đặc trưng cơ bản về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. - Phần III: Phác thảo một số thực trạng; mục tiêu phấn đấu của Đảng và Nhà nước ta đến năm 2010; các giải pháp khắc phục và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo đã hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành bài viết này. Mặc dù vậy, bài viết này chắc chắn còn nhiều thiếu sót, em mong thầy thông cảm và góp ý giúp em! B. NỘI DUNG. I. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN PHẢI PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. 1. Quan niệm về kinh tế thị trường nói chung. Trước khi đi vào tìm hiểu về các quan niệm về kinh tế thị trường ta cần phải biết thế nào là thị trường và thế nào là kinh tế thị trường. Thị trường là lĩnh vực trao đổi hàng hoá, đồng thời là một trong những hình thức biểu hiện quan hệ sản xuất của những người sản xuất hàng hoá, nên thị trường hoàn toàn có thể mang bản chất kinh tế – xã hội khác nhau, phụ thuộc vào tính chất của quan hệ sở hữu, trước hết là dựa vào chế độ sở hữu thống trị trong từng chế độ xã hội cụ thể. Kinh tế thị trường (thực chất là tên gọi khác của kinh tế hàng hoá) là nền kinh tế dựa vào thị trường để vận động và phát triển. Theo C.Mác, kinh tế thị trường được quan niệm theo các ý sau: a. kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá trong đó từ sản xuất đến tiêu dùng đều thông qua thị trường. Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, sản xuất hàng hoá ra đời từ lâu, nó tồn tại và phát triển trong xã hội nông nô, trong xã hội phong kiến và đạt tới đỉnh cao trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Khi có sản xuất hàng hoá ắt phải có trao đổi hàng hoá, và khi tiền tệ xuất hiện thì trao đổi hàng hoá trở thành lưu thông hàng hoá. Sản xuất hàng hoá và lưu thông hàng hoá hợp thành kinh tế hàng hoá. Khi kinh tế hàng hoá xuất hiện, mọi hàng hóa khi được sản xuất ra đều được lưu thông thông qua thị trường. Khi các quan hệ giữa các chủ thể đều biểu hiện qua mua và bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường thì nền kinh tế đó được gọi là nền kinh tế thị trường. Vậy kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá ở trình độ phát triển cao, khi tất cả các quan hệ trong quá trình tái sản xuất xã hội đều được tiền tệ hoá, các yếu tố của sản xuất như đất đai và tài nguyên; vốn bằng tiền và vốn vật chất, sức lao động, công nghệ và quản lý; các sản phẩm và dịch vụ tạo ra; chất xám đều là đối tượng mua – bán, là hàng hoá. Tất cả các yếu tố trên được mang vào thị trường để trao đổi, để mua và bán. Quy mô của lưu thông hàng hoá và sức mua của xã hội quyết định dung lượng thị trường, đến lượt mình, sử dụng, mở rộng và lành mạnh hoá thị trường lại có tác dụng đẩy lưu thông hàng hoá phát triển nhanh chóng về chất lượng và số lượng. Thị trường gắn với lĩnh vực lưu thông hàng hoá, nói đến thị trường là nói đến hàng hoá, giá cả, tiền tệ, người bán, người mua… và mọi hoạt động từ sản xuất đến kinh doanh trong nền kinh tế hàng hoá hay kinh tế thị trường đều thông qua thị trường. b. Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá trong đó các quan hệ kinh tế đều được tiền tệ hoá. Từ thế kỷ XIX Ph. Ăngghen đã dùng phạm trù “kinh tế tiền tệ” để đối lập với “kinh tế tự nhiên”. Người viết: “Chính từ đó mà nền kinh tế thị trường, đang phát triển, đã thâm nhập, giống như một chất axit ăn mòn, vào lối sống cổ truyền của các cộng đồng nông thôn, dựa trên cơ sở nền kinh tế tự nhiên” (– C. Mác – Ph. Ăngghen: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t 21, tr 168). V.I.Lênin cũng đã dùng phạm trù kinh tế tiền tệ để nói về một trong hai đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa “một là, chế độ đó dựa vào kinh tế tiền tệ, hai là,... dựa trên cơ sở mua và bán sức lao động” (– V. I. Lênin: Toàn tập, NXB Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, t 3, tr 737). Như vậy, kinh tế thị trường hay kinh tế tiền tệ là phương thức đối lập với kinh tế tự nhiên, trong đó các sản phẩm xã hội được trao đổi thông qua vật trung gian là tiền tệ, trong đó tiền cũng được coi là một loại hàng hoá đặc biệt với rất nhiều tính năng, mọi quan hệ kinh tế trong nền kinh tế đó đều được tiền tệ hoá. Nó là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá, là một hệ thống kinh tế tồn tại khách quan trên một trình độ phát triển tương ứng của lực lượng sản xuất và trở thành một bộ phận quan trọng của quan hệ sản xuất tương ứng. Nó không phải là một kiểu tổ chức kinh tế do con người tạo ra bằng ý chí chủ quan của mình, mà hình thành một cách khách quan ngoài ý chí của con người. c. Kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường gọi là kinh tế thị trường. Cơ chế thị trường là hình thức vận động của các quy luật kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, là cơ chế nảy sinh một cách tất yếu từ sự phát triển và lưu thông hàng hoá, qua thị trường để tự điều chỉnh các cân đối của nền kinh tế theo các quy luật khách quan. Những quy luật kinh tế này vận hành một cách khách quan trong sự liên kết các cá nhân, các doanh nghiệp trên thị trường thông qua giá cả và số lượng hàng hoá, dịch vụ. Cơ chế thị trường không đồng nhất với kinh tế thị trường. Cơ chế thị trường là guồng máy vận hành của nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường; là phương thức cơ bản để phân phối và sử dụng các nguồn lực. Cơ chế thị trường có đặc trưng cơ bản là hình thành cơ chế giá cả một cách tự do, người bán và người mua thông qua thị trường để xác định giá cả; và cơ chế thị trường lựa chọn tối ưu hoá các hoạt động kinh tế để đạt được lợi nhuận tối đa, nó chịu tác động mạnh của nền kinh tế hàng hoá. Vậy, khi kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường sẽ tạo nên một nền kinh tế tổng thể với sự phát triển của sản xuất hàng hoá, mọi sản phẩm đều là hàng hoá hoặc mang tính hàng hoá; thị trường được mở rộng về mọi phương diện; tự do sản xuất, kinh doanh, tự do thương mại; đa dạng hoá hình thức sở hữu, hình thức phân phối. Nền kinh tế đó được gọi là kinh tế thị trường. 2. Ở Việt Nam cần phát triển kinh tế thị trường. Phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường có vai trò hết sức quan trọng. Đối với nước ta muốn chuyển từ nền kinh tế còn kém phát triển lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa thì không còn con đường nào khác là phải phát triển nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường khắc phục được nền kinh tế tự nhiên tự cấp tự túc đã hình thành từ rất lâu đời ở nước ta, đẩy mạnh phân công lao động xã hội, phát triển ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động, khuyến khích ứng dụng công nghệ – kỹ thuật mới nhằm tăng năng suất lao động, tăng số lượng, chủng loại, chất lượng hàng hoá, dịch vụ, thúc đẩy tích tụ, tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa các địa phương, các vùng lãnh thổ, thúc đẩy việc phát huy tính năng động sáng tạo của mỗi người lao động, mỗi đơn vị kinh tế, đồng thời tạo cơ chế phân bổ và sử dụng các nguồn lực của xã hội hợp lý, tiết kiệm... Vì vậy, phát triển kinh tế thị trường là con đường tất yếu để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất, khai thác có hiệu quả tiềm năng của đất nước vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường này không thể là bản sao của nền kinh tế thị trường khác, có nghĩa là ta chỉ có thể học hỏi ở các nước đi trước chứ không thể dập khuôn đi theo đúng con đường phát triển kinh tế thị trường ở các nước khác. Thực tiễn những năm đổi mới đã chứng minh, nhờ phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần chúng ta đã bắt đầu khai thác được tiềm năng trong nước và thu hút được vốn, kỹ thuật và công nghệ của nước ngoài, giải phóng năng lực sản xuất, góp phần quyết định vào việc bảo đảm tăng trưởng kinh tế với nhịp độ tương đối cao. Vì vậy ta cần hiểu rõ định hướng và quan điểm của Nhà nước ta về kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường có nghĩa là: a. Xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp và chuyển sang cơ chế thị trường. Sau chiến thắng mùa Xuân 1975, đất nước thống nhất, cả nước cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện đất nước chịu những đảo lộn kinh tế và xã hội với quy mô lớn sau cuộc chiến tranh ác liệt, lâu dài, tình hình thế giới có những mặt diễn biến không thuận lợi. Đây cũng là thời điểm mô hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp với đặc trưng là sản xuất theo kế hoạch của nhà nước với một hệ thống chỉ tiêu mang tính pháp lệnh, vốn do nhà nước cấp, người lao động và cán bộ do cơ quan nhà nước chỉ định (lãi thu - lỗ bù) do đó đã triệt tiêu động lực của kinh tế và lợi nhuận, quan hệ phân phối mang tính chất bình quân và bao cấp, sản xuất trì trệ, bộ máy quản lý cồng kềnh, kém hiệu lực, không có khả năng kinh doanh, cơ chế này đã kìm hãm sự phát triển của sản xuất, làm cho nền kinh tế thị trường trì trệ, đời sống nhân dân hết sức khó khăn. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội sâu sắc cuối những năm 70, đầu những năm 80. Đại hội Đảng lần thứ VI đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện cả về cơ chế kinh tế đến tư tưởng chính trị, văn hoá, xã hội, nhận thức của các tầng lớp nhân dân, mà quan trọng nhất là việc dứt khoát phải xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đề cập đến mối quan hệ giữa kế hoạch và thị trường, vận dụng các quy luật của sản xuất hàng hoá... Tới Đại hội Đảng lần thứ IX, Đảng đã làm rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đó là đã đưa ra mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Mô hình này đã chuyển nền kinh tế từ kinh tế hiện vật, bao cấp là chủ yếu sang nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường, dưới sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là cách tổ chức sản xuất tối ưu để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội mà hiệu quả kinh tế cuối cùng là năng suất lao động cao, chất lượng tốt, tạo ra nhiều sản phẩm thặng dư. b. Kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản. Kinh tế thị trường là hình thức tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó nó sản xuất ra để bán trên thị trường, nó không phải là một phương thức sản xuất, cũng không phải là một chế độ xã hội mà nó chỉ là một kiểu tổ chức xã hội. Trước đây, người ta vẫn nghĩ rằng kinh tế hàng hoá chỉ phát sinh và tồn tại trong điều kiện có sự phân công lao động xã hội và chế độ tư hữu. Nhưng nguyên nhân hình thành hàng hoá và trao đổi hàng hoá trong buổi đầu của lịch sử ra đời củ nó lại chính là sở hữu công cộng tồn tại riêng rẽ nhau giữa các cộng đồng nguyên thuỷ khi đã có sự phân công, “chuyên môn hoá” sản xuất giữa các cộng đồng đó. C.Mác viết: “... sự trao đổi các sản phẩm phát sinh ở những điểm tiếp xúc giữa các gia tộc, thị tộc, cộng đồng khác nhau, vì ở thời đầu của nền văn minh thì không phải là những cá nhân riêng biệt, mà là các gia tộc, thị tộc, v.v... mới tiếp xúc nhau như những đơn vị độc lập” và “... sự chuyển hoá sản phẩm thành hàng hoá là kết quả của sự trao đổi giữa các công xã khác nhau, chứ không phải giữa những thành viên của cùng một công xã”. Ph. Ăngghen cũng viết: “Những bộ lạc du mục tách rời khỏi bộ phận còn lại của người dã man: đó là sự phân công xã hội lớn đầu tiên... Vì vậy mà lần đầu tiên, đã có thể có sự trao đổi đều đặn. Ở các giai đoạn phát triển trước đây, chỉ có thẻ có những sự trao đổi ngẫu nhiên mà thôi;... Lúc đầu, sự trao đổi được tiến hành giữa các bộ lạc thông qua những tù trưởng thị tộc của mỗi bên; nhưng khi những đàn gia súc bắt đầu chuyển thành sở hữu riêng, thì sự trao đổi giữa cá nhân với nhau ngày càng chiếm ưu thế và cuối cùng trở thành hình thức trao đổi duy nhất. Nhưng vật phẩm chủ yếu mà các bộ lạc du mục trao đổi với những bộ lạc lân cận là gia súc; gia súc đã trở thành hàng hoá dùng để đánh giá tất cả các hàng hoá khác... – tóm lại, gia súc đã nhận được chức năng tiền tệ...”, “ ... sự phân công lớn lần thứ hai đã diễn ra: thủ công nghiệp đã tách ra khỏi nông nghiệp... Vì nền sản xuất bị tách ra thành hai ngành chính, nông nghiệp và thủ công nghiệp, nên đã ra đời nền sản xuất trực tiếp nhằm trao đổi, - đó là nền sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá xuất hiện thì đồng thời thương nghiệp cũng xuất hiện, không những trong mội bộ và ở biên giới của bộ lạc, mà cỏ với những nước ở hải ngoại nữa. Tuy nhiên, tất cả tình hình đó vẫn còn ở hình thái chưa phát triển; những kim loại quý bắt đầu trở thành thứ hàng hoá - tiền tệ phổ biến và chiếm ưu thế, nhưng người ta chưa đem đúc thành tiền, mà chỉ đem trao đổi theo trọng lượng”. Những ý kiến nêu trên của C. Mác và Ph. Ăngghen cho phép chúng ta khẳng định rằng: Kinh tế thị trường (kinh tế hàng hoá) không phải chỉ gắn với chế độ sở hữu tư nhân mà còn gắn với chế độ sở hữu công cộng thuộc các cộng đồng khác nhau như đã từng diễn ra trong lịch sử. Hay nói cách khác, kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản. c. Kinh tế thị trường tồn tại dưới chủ nghĩa xã hội với hai cơ sở là sự phân công lao động xã hội và sự tách biệt nhất định về kinh tế. Do mô hình cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và trong nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa có những điểm khác nhau cơ bản về: chế độ sở hữu, tính chất giai cấp của nhà nước và mục đích quản lý của nhà nước, cơ chế vận hành, mối quan hệ giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế với công bằng xã hội, phân phối thu nhập. Do đó, để phát triển kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa cần phải có cơ sở vững chắc về phân công lao động xã hội và về vai trò của từng thành phần kinh tế. Cần phải củng cố và phát triển kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác trở thành nền tảng của nền kinh tế, có khả năng điều tiết, hướng dẫn sự phát triển kinh tế hàng hoá nhỏ và tư bản chủ nghĩa. Kinh tế Nhà nước phải được củng cố và phát triển ở các vị trí then chốt của nền kinh tế, ở lĩnh vực an ninh quốc phòng, ở các lĩnh vực dịch vụ xã hội cần thiết... mà các thành phần kinh tế khác không có điều kiện hoặc không muốn đầu tư vì không có hoặc ít lãi. Vì vậy kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải kết hợp hài hoà ba vấn đề sau: - Kết hợp vấn đề lợi nhuận với vấn đề xã hội, với mục đích vừa đảm bảo cho các chủ thể của kinh tế thị trường có được lợi nhuận cao, vừa tạo được điều kiện chính trị – xã hội bình thường cho sự phát triển kinh tế. - Kết hợp chặt chẽ những nguyên tắc phân phối của chủ nghĩa xã hội và nguyên tắc phân phối của kinh tế hàng hoá, như phân phối theo lao động, theo vốn, theo tài năng, phân phối qua quỹ phúc lợi xã hội... Trong đó, nguyên tắc phân phối theo lao động là chính. - Điều tiết phân phối thu nhập, một mặt Nhà nước phải có chính sách giảm bớt chênh lệch giàu nghèo...; mặt khác, phải có chính sách, biện pháp bảo vệ thu nhập chính đáng của người giàu và người nghèo của toàn xã hội. ( Từ những ý đã nêu trên ta thấy, ở nước ta, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm đảm bảo: tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giải phóng và phát triển toàn diện con người. Phát triển kinh tế cao dựa trên cơ sở lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là chủ yếu, thành phần kinh tế Nhà nước là chủ đạo, cùng kinh tế hợp tác là nền tảng của kinh tế quốc dân. II. ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM. 1. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế khái quát trong thời kì quá độ ở Việt Nam. Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế kỹ thuật lạc hậu, trình độ xã hội con thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý tưởng của những người cộng sản và nhân dân Việt Nam, là khát vọng ngàn đời thiêng liêng của cả dân tộc Việt Nam. Những đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào? Trải qua nhiều kì Đại hội với cột mốc đánh dấu bước chuyển quan trọng trong nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, tới Đại hội IX của Đảng (tháng 4 – 2001) mới chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đại hội đã khẳng định: phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là kết quả sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết thực tiễn; và là bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam. a. Kinh tế thị trường ở Việt Nam thực chất là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, nó vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta như Đại hội IX của Đảng chỉ rõ, bao gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể với những hình thức đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt; kinh tế cá thể tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài. Các thành phần kinh tế đó dựa trên những hình thức sở hữu khác nhau, thậm chí có lúc đối lập nhau về bản chất kinh tế – xã hội, vừa hợp tác cùng có lợi, vừa cạnh tranh phát triển trong một chỉnh thể, tạo thành những bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế, do đó cuộc đấu tranh “ai thắng ai’ giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa vẫn diễn ra hằng ngày, hằng giờ nhưng có nhiều hình thức biểu hiện khác nhau. Nền kinh tế thị trường vận hành theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện ở các nhân tố cơ bản về kinh tế, chính trị sau: - Về kinh tế: trong các thành phần kinh tế hợp thành nền kinh tế quốc dân thống nhất, kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đang tìm cách hoàn thiện hệ thống pháp chế, xây dựng một hành lang pháp lý bình đẳng cho tất cả các thành phần kinh tế phát triển hết khả năng của mình trong sự hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Để củng cố và phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, Nhà nước cần chú trọng trước hết đến việc làm cho nền kinh tế phát triển nhanh chóng và bền vững, trong đó phải sớm khắc phục tình trạng kém hiệu quả của một bộ phận doanh nghiệp nhà nước bằng cách đẩy mạnh đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, phải củng cố tổ chức của Đảng trong doanh nghiệp, lựa chọn cán bộ, Đảng viên am hiểu về kinh tế để tăng cường đội ngũ cán bộ lãnh đạo của các tổ chức Đảng. Về chính trị: vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước là hai nhân tố chính trị căn bản bảo đảm sự thành công của đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. H
Luận văn liên quan