Khi nước ta chuyển sang cơ chế thị trường có sự định hướng của nhà nước thì các làng nghề thủ công truyền thống ở nhiều địa phương cũng được phục hồi và phát triển sản nhanh chóng. Sản phẩm của các làng nghề không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn vươn ra thị trường nước ngoài thu được nguồn ngoại tệ lớn và cải thiện đời sống nhân dân. Phát triển các làng nghề là một hướng đi rất đúng vì tạo thêm việc làm cho người dân tại các làng nghề lại giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Bên cạnh những dấu hiệu đáng mừng ấy, một nỗi lo lắng và day dứt là nguy cơ ô nhiễm môi trường tại các làng nghề truyền thống. Nguy cơ này phát sinh chính từ hoạt động đặc thù của các làng nghề như: quy mô nhỏ, manh mún, công nghệ thủ công lạc hậu, không đồng bộ phát triển tự phát chủ yếu chịu sự chi phối của thị trường. Và một thực tế nữa là do sự thiếu hiểu biết của chính những người dân ở các làng nghề về sự tác động của hoạt động sản xuất đến sức khoẻ của bản thân và những người xung quanh.
Vấn đề ô nhiễm ở các làng nghề đáng báo động như hiện nay thì các doanh nghiệp và hộ gia đình đã làm gì? Các cơ quan nhà nước và các địa phương có những giải pháp nào để khắc phục triệt để tình trạng trên. Đề án này sẽ đi xem xét thực trạng và giải pháp nhằm giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường tại các làng nghề. Nội dung của đề án gồm ba phần:
Phần 1: phát triển nghề truyền thống và tác động đến môi trường sinh thái.
Phần 2: thực trạng ô nhiễm môi trường tại các làng nghề.
Phần 3: phương hướng và giải pháp nhằm giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường làng nghề.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để trình bầy, nhưng không tránh khỏi các thiếu sót, rất mong được sự góp ý của thầy và các bạn đọc.
24 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 5204 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng và giải pháp nhằm giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường tại các làng nghề, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Khi nước ta chuyển sang cơ chế thị trường có sự định hướng của nhà nước thì các làng nghề thủ công truyền thống ở nhiều địa phương cũng được phục hồi và phát triển sản nhanh chóng. Sản phẩm của các làng nghề không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn vươn ra thị trường nước ngoài thu được nguồn ngoại tệ lớn và cải thiện đời sống nhân dân. Phát triển các làng nghề là một hướng đi rất đúng vì tạo thêm việc làm cho người dân tại các làng nghề lại giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Bên cạnh những dấu hiệu đáng mừng ấy, một nỗi lo lắng và day dứt là nguy cơ ô nhiễm môi trường tại các làng nghề truyền thống. Nguy cơ này phát sinh chính từ hoạt động đặc thù của các làng nghề như: quy mô nhỏ, manh mún, công nghệ thủ công lạc hậu, không đồng bộ phát triển tự phát chủ yếu chịu sự chi phối của thị trường. Và một thực tế nữa là do sự thiếu hiểu biết của chính những người dân ở các làng nghề về sự tác động của hoạt động sản xuất đến sức khoẻ của bản thân và những người xung quanh.
Vấn đề ô nhiễm ở các làng nghề đáng báo động như hiện nay thì các doanh nghiệp và hộ gia đình đã làm gì? Các cơ quan nhà nước và các địa phương có những giải pháp nào để khắc phục triệt để tình trạng trên. Đề án này sẽ đi xem xét thực trạng và giải pháp nhằm giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường tại các làng nghề. Nội dung của đề án gồm ba phần:
Phần 1: phát triển nghề truyền thống và tác động đến môi trường sinh thái.
Phần 2: thực trạng ô nhiễm môi trường tại các làng nghề.
Phần 3: phương hướng và giải pháp nhằm giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường làng nghề.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để trình bầy, nhưng không tránh khỏi các thiếu sót, rất mong được sự góp ý của thầy và các bạn đọc.
Phần 1: Phát triển nghề truyền thống và tác động đến môi trường sinh thái
1. Phát triển nghề truyền thống tại Việt Nam
Làng nghề nước ta thường là làng nghề đã có từ rất lâu, nhất là khi có chính sách đổi mới nền kinh tế đã đem lại luồng sinh khí mới cho các làng nghề thủ công truyền thống tại Việt Nam. Sau một khoảng thời gian bế tắc và ì ạch thì 10 năm gần đây do cơ chế thoáng và mở cửa của thị trường, chính sách hỗ trợ của nhà nước và do sự năng động tâm huyết vời nghề của người dân, các làng nghề thủ công không ngừng thay da đổi thịt đã tạo nên một diện mạo mới cho nông thôi Việt Nam.
Theo số liệu gần đây nhất, Việt Nam hiện nay có 1450 làng nghề phân bố tại 58 tỉnh và thành phố trong cả nước riêng đồng bằng sông Hồng có khoảng 800 làng nghề; Hà Tây có 280; Thái Bình có 187; Bắc Ninh có 59; Thanh Hoá có 127. Trong 10 năm vừa qua tốc độ tăng trưởng tại các làng nghề là 8%/năm, tính theo giá trị đầu ra.Các làng nghề được phân chia thành các loại lớn như sau:
Ươm tơ, dệt nhuộm, đồ da
Chế biến nông sản, thực phẩm
Tái chế phế liệu
Thủ công mỹ nghệ
Vật liệu, xây dựng gốm sứ
Nghế khác
Miền Bắc
138
134
61
404
17
222
Miền Trung
24
42
24
121
9
77
Miền Nam
11
21
5
93
5
42
Tổng cộng
173
197
90
618
31
341
Phân bố làng nghề ở vùng nông thôn Việt Nam
Làng nghề là giải pháp phát triển kinh tế nông thôn rất có hiệu quả. Lao động nghề đã giải quyết được vấn đề lao động dư thừa và lao động trong thời gian nông nhàn. Có 27% số hộ nông dân sản xuất nông nghiệp kiêm các ngành nghề và 13% số hộ chuyên về nghành nghề. Lao động tại các làng nghề đã thu hùt được 10 triệu lao động thường xuyên. Đó cũng là nguồn thu nhập đáng kể tại các hộ gia đình, tại nhiều làng hoạt động nghế không còn là hoạt động phụ nữa mà đã là thu nhập chính của các hộ gia đình. Ví dụ như làng Đồng Kỵ ở Từ Sơn, Bắc Ninh chuyên sản xuất đồ gỗ có thu nhập rất cao, hầu như các hộ gia đình ở đây đã không sản xuất nông nghiệp nữa.
2. Phát triển nghề truyền thống tác động đến môi trường sinh thái
Bên cạnh những dấu hiệu đáng mừng ấy là nỗi lo lắng và day dứt không kém là nguy cơ ô nhiễm môi trường tại các làng nghề. Nguy cơ này phát sinh chính từ đặc thù của các làng nghề như quy mô nhỏ manh mún, công nghệ thủ công lạc hậu không đồng bộ và cũng do sự thiếu hiểu biết của người dân trong việc bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khỏe của chính mình và mọi người xung quanh. Hơn nữa các làng nghề có mật độ dân cư đông đúc, vì vậy thiếu mặt bằng sản xuất, các xưởng sản xuất xen kẽ với khu dân cư. Theo lẽ thường tình các làng nghề phàt triển thì thu hút càng nhiều lao động. Trước hết là con em các làng nghề không phải ly hương tìm đường cứu sống, thứ nữa là làng nghề phát triển sẽ thu hút thêm lao động các vùng lân cận làm cho dân cư ở đây càng thêm đông đúc. Tình trạng phổ biến tại các làng nghề là nơi sản xuất trùng với nơi ở nên quy mô sản xuất càng mở rộng thì diện tích đất ở càng hẹp và sử dụng thiết bị, hoá chất càng nhiều làm cho môi trường sống càng thêm ô nhiễm nặng nề. Mỗi một làng nghề đều có đặc thù riêng nên mức độ ô nhiễm môi trường hay loại ô nhiễm riêng như ô nhiễm về nguồn nước; ô nhiễm không khí; ô nhiễm tiếng ồn… Nhưng bất kỳ loại ô nhiễm nào cũng ảnh hưởng đến sức khỏe, môi trường sống của người dân.
Phần hai: Thực trạng ô nhiễm môi trường tại các làng nghề
1. Làng nghề chế biến nông sản, thực phẩm
Trước hết chúng ta hãy đi xem xét đặc điểm và thực trạng ô nhiễm tại các làng nghề chế biến nông sản, thực phẩm. Theo thống kê mới nhất, Việt Nam có 197 làng nghề chế biến nông sản thực phẩm, chủ yếu tập trung ở miền Bắc là 142 làng, miền Trung 42 làng và 21 làng ở miền Nam. Các hộ gia đình thường có tâm lý và thói quen sản xuất trên quy mô nhỏ, khép kín, tự phát nên hạn chế đầu tư trang thiết bị, đổi mới công nghệ dẫn đến hiệu quả sản xuất không cao, tiêu tốn nguồn nhiên liệu đồng thời thải ra môi trường lươngj lớn chất thải đặc biệt là chất thải hữu cơ. Đối với môi trường không khí, đặc trưng nhất là mùi hôi thối của nguyên vật liệu tồn đọng lâu ngày và do sự phân huỷ của các hợp chất hưu cơ trong chất thải rắn và chất thải từ cống rãnh kênh mương. Quá trình phân giải yếm khí các chất hữu cơ sinh ra khí độc ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe của người dân. Đặc biệt phải kể đến các nghề sản xuất nước mắm, do phơi ướt ngoài trời nên mùi hôi tanh khắp nơi. Hay ô nhiễm tại “làng xương” ở xã Hoà Bình, Thường Tín, Hà Tây: mỗi ngày làng nhập về khoảng 30 tấn xương các loại sau đó thải hàng tấn mẩu phế thải ra bờ mương hoặc ngoài đồng vì chưa có bãi tập kết. Hơn nữa các hộ gia đình còn đổ ra những nước thải vừa đỏ vừa đen mùi hôi thối không thể chịu nổi. Phần lớn các nước và rác đều được thải trực tiếp ra ngoài không qua bất kỳ khâu xử lý nào. Chất lượng nước ngầm tại đây đều có dấu hiệu ô nhiêm với hàm lượng COD, TS, NH4+… ở nước giếng rất cao (được mô tả ở bảng sau).
Chỉ tiêu
Tiêu chuẩn cho phép
Tinh bột Bình Minh
Bún Phú Đô
Nước mắm Hải Thanh
Rượu Tân Đô
Đậu phụ Quang Bình
pH
5.5-9
4.6
6.1
9,59
12
5.1
SS(mg/l)
100
926
414
10
266
1.764
COD(ml/g)
100
1.858
2.967
597
3.868
1.271
BOD5(ml/g)
50
743
1.850
250
1.700
1.080
SN(ml/g)
60
145,6
20,9
9,26
1.002
67
SP(ml/g)
6
27,5
2,79
0,034
44,2
23
Chỉ tiêu tại một số làng nghề chế biến nông sản
Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy đa phần các nước thải đều bị ô nhiễm nặng thậm trí dân cư ở những vùng này phải mua nước ngột từ nơi khác để sử dụng. Mặt khác các làng nghề này đều tận thu phế liệu để chăn nuôi. Nước thải từ nguồn này cũng gây ô nhiễm môi trường không khí và nước đáng kể. Theo kết quả điều tra y tế ta mới thấy rõ hết được ảnh hưởng của môi trường đến sức khoẻ của người dân như: phụ khoa ở phụ nữ là 13-38%; viêm da là 4,5-23%; đường hô hấp là 6-18%; đau mắt là 9-15%. Nguyên nhân chính là môi trường sinh hoạt không bảo đảm vệ sinh, nguồn nước sạch khan hiếm.
Xét một ví dụ cụ thể tình trạng ô nhiễm môi trường làng nghề tại Dương Liễu, Hoài Đức, Hà Tây chuyên chế biến các sản phẩm nông sản đã có uy tín trên thị trường như miền dong, đỗ xanh bóc tách, bún khô, phở khô… Khi về làng, ấn tượng đầu tiên không phải là những ngôi nhà tầng khanh trang mới được xây dựng mà là rác và ruồi muỗi. Rác có khắp ở các nơi với đủ các loại như rác khô, sợi, nước cốt… tràn ra mặt đất chảy xuống cống, ao hồ, mương máng với những mùi đặc trưng phả vào không khí. Không khí, đất đều đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. Trong làng có khoảng 2000 hộ sản xuất và trung bình mỗi ngày thải ra 433 tấn giác thải các loại chưa qua xử lý. Nhiều nhất là nước thải và rác thải từ việc làm miến, ngày đêm thải ra những thứ đen ngòm, đặc quánh chồng chất lên nhau cao hàng mét. Trước kia làng có rầt nhiều ao hồ, mương rãnh đan chéo nhau nhưng bây giờ đã bị rác thải “san bằng” trở thành bãi phơi miến, là nơi để ruồi, nhặng phát triển.
2. Ô nhiễm môi trường tại các làng vật liệu xây dựng và gốm xứ:
Hiện nay nước ta hiện có 31 làng sản xuất vật liệu xây dựng và gốm xứ phân bố đều trên cả nước và tập chung tại các vùng có khả năng cung cấp nguyên liệu cho hoạt động sản xuất. Số lượng làng nghề tăng theo nhu cầu của thị trường. Hoạt động sản xuất bao gồm khai thác đá, nung vôi đóng gạch ngói, gốm xứ. Một số làng được biết tới nhiều như: gốm xứ Bát Tràng ở Gia Lâm, Hà Nội; Đáp Cầu, Bắc Ninh; Phước Lâm, Khánh Hoà; Dạ Trạch, Hưng Yên… Các tác động chủ yếu đến môi trường là do bụi và khói lò nung. Quy mô nung gạch, vôi chủ yếu theo phương pháp thủ công sử dụng nguyên liệu là than, khí thải ra từ các lò nung là CO, SO, SO2…bởi vì thiết kế không đúng quy cách do vậy quá trình cháy không hết. Đã có một số lò nung gốm xứ thay lò đốt than bằng lò đốt gas vừa khỏi ô nhiễm môi trường vừa nâng cao năng suất sản phẩm, rút ngắn thời gian nung đốt tính ra thì hiệu quả kinh tế vẫn cao hơn khi sử dụng lò than nhưng chi phí ban đầu khá tốn kém. Một số hộ gia đình đã chuyển sang lò gas nhưng Đối với các làng nghề khai thác đá, ô nhiễm chủ yếu là bụi từ khu vực khai thác và tiếng ồn do nổ mìn của các hoạt động của máy khoan, đục, nghiền, xay… Việc khai thác 1m3 đá nguyên khai qua chế biến sẽ sinh ra 0,1-0,5kg bụi giầu silic,vượt tiêu chuẩn cho phép từ 3-5 lần và tiếng ồn thưong xuyên ở mức cao. Lượng khí thải từ các lò gạch thủ công còn ảnh hưởng đến hoa mầu và mùa màng của nông dân tại các làng nghề và các vùng lân cận xung quanh nữa. Ngoài ra việc khai thác không đúng quy hoạch gây thoái hoá đất, phá huỷ thảm thực vật, tăng nguy cơ xói mòn và giảm độ phì nhiêu của đất, hậu quả cũng gây ảnh hưởng đến chất lượng mùa màng. Người dân làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng trực tiếp sống trong môi trường có nồng độ bụi, khí độc cao công việc nặng nhọc nên tỷ lệ mắc các đường hô hấp, da và các bệnh về mắt và các rối loạn thần kinh cao. Làng nghề Đông Tâm, Thanh Hoá và làng nghề Kiện Khê, Hà Nam có tỷ lệ mắc bệnh nghề nghiệp do sản xuất trên 50%. Ngoài ra, các vấn đề về an toàn lao động cũng chưa được quan tâm thoả đáng ở các làng nghề này dẫn tới nhiều tai nạn lao động như bỏng hơi, bỏng nhiệt, bị mảnh vỡ đá. nổ mìn…
3. Làng nghề tái chất thải: giấy, nhựa, kim loại…
Đây là nhóm làng nghề tận phế liệu làm nguyên liệu cho sản xuất, nhờ đó giảm chi phí đầu tư và giảm lượng chất thải gây ô nhiễm môi trường nên các làng nghề rất được khuyến khích phát triển. Mặt khác, trong khi chưa có các cơ sở lớn tái chế chất thải, thì các làng nghề tái chất thải đã trở thành một mạng lưới thu gom phế liệu và chất thải. Các nghành tái chế được chia làm ba loại chính đó là: giấy, kim loại và nhựa. Chủ yếu tập chung ở miền Bắc và nghành tái chế kim loại là chủ yếu (có 81 làng tái chế kim loại trong tổng số 90 làng nghề tái chế). Số lượng làng tái chế không lớn nhưng tỷ lệ cơ giới hoá cao hơn các làng nghề khác rất nhiều, chiếm từ 50-70%. Khi nói về các làng tái chế phế liệu thì không thể không nhắc tới làng tái chế giấy ở Dương Ổ, Bắc Ninh sản xuất hàng năm là 12.000 tấn với rất nhiều chủng loại, thu hút hơn 5.000 lao động. Hay tái chế sắt nhôm ở Vân Chàng, Nam Định thu hút trên 3.000 lao động với sức sản xuất 90 tấn phế liệu/ngày, mức lương trung bình của một người lao động là 600-700nghìn/tháng. Hay làng nghề khắc đá tại Phước Kiều, Quảng Nam - Đà Nẵng được biết tới bởi những tác phẩm nghệ thuật rất cao như cung đình Hếu, trùng tu di tích Ăng Ko…
Do đặc thù là các làng nghề mới và sản xuất theo quy mô hộ gia đình nên tính năng động và sáng tạo trong việc nắm bắt thi trường và sản phẩm rất rõ ở các làng nghề này. Cũng do đặc tính quá tư hữu này mà vấn đề môi trường ở đây vô cùng nghiêm trọng. Trên báo Thương mại số 35, 2003 có bài viết “Xám xịt làng chì” như sau:
“Không đi làm thì ai cho 3-4 trăm nghìn một thán. Hại thì ai mà chả biết nhưng không có ăn thì vài ngày là chết chứ nhiễm chì thì nào có chết ngay” (dân làng Đồng Mai, Văn Lâm, Hưng Yên).
Làng nghề tái chế Đông Mai có 200 hộ tham gia sản xuất, 25 lò nấu chì, tiêu thụ 16-18 tấn ắcquy hỏng/ngày, thu 8-10 tấn chì, thải ra 500kg bụi chì và từ 7-8 vỏ bình ắcquy và axít H2SO4, thu nhập bình quân đầu người là 3 triệu đồng/năm.
Ô nhiễm môi trường khí: Tầm nhìn hạn chế là 3-4km, hơi axít và khói chì bao phủ, lúa chết vì khói chì, bụi chì bám vào cây.
Ô nhiễm môi trường nước: Ao và nước giếng có hàm lượng chì trung bình 0,77mg/l, vượt tiêu chuẩn cho phép 15 lần, đặc biệt ao đãi chì và đổ xỉ hàm lượng 3,278mg/l, vượt tiêu chuẩn cho phép 65 lần. Trong bèo chứa 430,3mg chì/kg, rau muống 168,15mg chì/kg tại ao chứa nước thải pha ắcquy.
Ô nhiễm môi trường đất: Đường trong xóm lát bằng vỏ ắcquy hỏng, đất khô cằn, năng suất cây trồng giảm mạnh.
Sức khoẻ: 100% người lao động nhiễm bụi chì, hàm lượng chì trong nước tiểu là 0,25-0,56mg/l (đối với người bình thường khoảng 0,06mg/l), hàm lượng chì trong máu người lao động là 135mg/l, 48 trẻ em bị dị tật, 97 trẻ em bị viêm phổi, thiếu máu, xanh xao, tỷ lệ người mắc bệnh thần kinh, bại liệt não, lao phổi cao hơn các nơi khác từ 2-3 lần.
Bài báo trên đã là một minh chứng khá cụ thể và dễ hiểu về tình trạng ô nhiễm tại các làng nghề tái chế phế liệu chì.
Nếu ai có cơ hội đến thăm các xưởng sản xuất, tái chế giấy phế liệu ở Phong Khê, Bắc Ninh cách Hà Nội khoảng 50km đi về phía Bắc thì mỗi khi dùng giấy ăn ở các quán bình dân rất phổ biến thì chắc hẳn mọi người phải “cân nhắc” sử dụng. Nước thải không được xử lý qua bất kỳ công đoạn nào và được thải trực tiếp ra ngoài do vậy hoá chất dư, bột giấy và lượng chất hữu cơ còn lại rất nhiều. Hơn nữa, không khí ở đây chứa rất nhiều bụi giấy, hơi kiềm, Clo do dùng nước ra Javen để tẩy trắng và hơi H2S rất có hại cho sức khoẻ. Tại một số vị trí sản xuất, hàm lượng Clo vượt tiêu chuẩn cho phép tới 3 lần, hơi H2S tại các bãi rác, cống rãnh vượt tiêu chuẩn cho phép 1-3 lần.
Đối với các làng nghề tái chế nhựa, do đặc thù nguyên liệu thu gom từ nhiều nguồn và đều là nhựa phế thải có dính nhiều tạp chất, nên trong quá trình công nghệ sử dụng rất nhiều nứơc để rửa phế liệu. Tính riêng làng nghề tái chế Minh Khai hàng năm thải ra khoảng 455.000m3 nước thải. Thành phần của này rất phức tạp, vì chứa rất nhiều chất thải vô cơ và hữu cơ dính trên nhựa trong quá trình sử dụng, trong đó có một số chất độc hại như bình chứa thuốc sâu, hoá chất, vi sinh vật độc hại.
Tóm lại ô nhiễm tại các làng nghề tái chế thuộc mức độ ô nhiễm nặng (nguồn nước bị nhiễm chì, kim loại nặng; không khí chứa nhiều hoá chất độc hại…).
Được mô tả bởi bảng số liệu sau đây:
Nơi lấy mẫu
Cr2+
∑Fe
Pb2+
Cu2+
Zn2+
Al3+
Chỉ Đạo-Bắc Ninh
0,04
0,4
0,35
0,1
0,6
-
Vân Chàng-Nam Định
63 – 178
12
0,9
1,5
8,7
10,4
Phước Kiều-Quảng Nam
0,2
7,6
0,6
3,1
1,8
2,1
Tiêu chuẩn Việt Nam
1
5
0,1
1
1
-
Hàm lượng một số kim loại nặng trong nước tại các làng nghề
Do việc thu gom và thải thải bỏ bừa bãi, nên ảnh hưởng đến môi trường sinh thái và sức khoẻ của người dân hết sức nghiêm trọng. Hầu hết các ao cá trong làng không thể nuôi cá, do đã tiếp nhận một lượng chất thải khá lớn từ hoạt động sản xuất với nồng độ ô nhiễm cao, vượt quá khả năng tự làm sạch của môi trường và do rác thải bừa bãi gây bồi lắng và cản trở của sông hồ và cản trở của nước sông hồ. Ví dụ tại sông Vân Chàng, Nam Định, nơi đón nhận tất cả các nguồn nước thải của “nền công nghiệp làng” có mầu đen kịt, mùi hôi rất khó chịu và độ lưu thông của dòng nước rất thấp. Bụi bám thành lớp trên mái nhà, khi trời mưa sẽ cuốn theo lớp hoá chất này xuống bề mật đất sau đó ngấm vào mạch nước ngầm, còn nếu xối vào tay chân sẽ gây phồng rộp rất rất dát. Lượng nước thải chưa được xử lý được đổ thẳng ra sông chứa một lượng lớn nhiều loại axít mạnh và đặc biệt có hàm lượng chất độc xianua vượt 65-117 lần so với tiêu chuẩn cho phép. Thậm chí một đoạn sông Vân Chàng không có một sinh vật nào có thể sống được. Một số bệnh phổ biến ở đây là bệnh ngoài da, viêm ngứa, đau mắt hột (hơn 90% dân số bị mắc), và nhiều người bị chết vì ung thư. Tỷ lệ chị em phụ nữ đẻ non hoặc chết yểu đặc biệt là đẻ ra quái thai ngày càng có triệu chứng ra tăng. Tuổi thọ trung bình của người dân ở đây là 55 tuổi thấp nhiều hơn so với tuổi thọ trung bình so với cả nước.
Kết quả điều tra cho thấy tỷ lệ mắc bệnh nghề nghiệp ở các làng nghề chế tái cao hơn các làng nghề không sản xuất từ 15-25%, tỷ lệ mắc bệnh ở trẻ em và phụ nữ từ 30-45%. Các bệnh mắc phải thường là về đường hô hấp, viêm phế quản, viêm phổi ở trẻ em, viêm phụ khoa ở phụ nữ, tuổi thọ trung bình tại đây thấp thường là 55-65 tuổi và các bệnh dịch như tiêu chảy, đau mắt đỏ, ngộ độc ngày một tăng, đặc biệt tại các làng nghề tái chế kim loại.
4. Làng nghề dệt nhuộm
Nước ta hiện nay có 173 làng nghề dệt nhuộm chiếm 10% trong tổng số làng nghề, chủ yếu tập chung ở Hà Tây và các vùng núi phía Bắc. Tại các dân tộc thiểu số niềm núi phía Bắc là nền kinh tế tự cung, tự cấp nên sản phẩm dệt nhuộm chủ yếu là phục vụ nhu cầu trong gia đình, thì tình trạng ô nhiễm môi trường ở đây không đáng lo ngại lắm. Vì quy mô sản xuất là hộ gia đình, nguyên liệu chủ yếu là thực vật không có hoá chất cộng thêm môi trường rất trong lành nhưng nền kinh tế cực kỳ khó khăn. Công nghệ tại các làng nghề dệt nhuộm khá phong phú. Tại các vùng, miền khác nhau thường có công nghệ sản xuất và mặt hàng truyền thống khác nhau, mang nét đặc trưng riêng. Có thể kể tên một số làng nghề nổi tiếng như dệt lụa Vạn Phúc- Hà Đông, nhuộm sợi chỉ Tân Triều-Hà Nội, dệt nhuộm khăn mặt Thái Phương-Thái Bình và Tương Giang - Bắc Ninh… Phần lớn máy móc thiết bị sử dụng tại các làng nghề là thiết bị thô sơ, tự tạo hoặc do các cơ sở sản xuất trong nước gia công lắp ráp. Phương thức sản xuất thường là gián đoạn, thiết bị thiếu đồng bộ dẫn đến việc giảm hiệu quả sử dụng nguyên vật liệu đồng thời vấn đề ô nhiễm môi trường trở nên bức xúc hơn.
Ô nhiễm nước thải là vấn đề lớn nhất đối với các làng nghề dệt nhuộm. Do sản xuất có sử dụng nhiều nước, hoá chất, thuốc nhuộm nên thành phần các chất ô nhiễm có trong nước thải làng nghề dệt nhuộm gồm các tạp chất tự nhiên tách ra từ sợi vải như: chất bẩn, dầu sáp, hợp chất chứa nitơ trong quá trình nấu tẩy, nhuộm tơ và các chất sử dụng trong quá trình sử dụng vải như hồ tinh bột, NaOH, H2SO4, HCl, Na2CO3, các loại thuốc nhuộm, chất tẩy giặt. Khoảng 10-30% lượng thuốc nhuộm và hoá chất sử dụng bị thải ra ngoài cùng nước thải.
Ô nhiễm môi trường không khí ở các làng nghề dệt nhuộm chủ yếu là bụi và hơi hoá chất. Bụi bông sinh ra trong quá trình giàn sợi, xe sợi, dệt vải,. Hơi hoá chất phát sinh trong quá trình nấu, tẩy, nhuộm do sử dụng hoá chất ở nhiệt độ cao và các thiết bị sản xuất đều là các thiết bị hở làm cho hơi hoá chất như xút, axít bay ra ảnh hưởng trực tiếp đến công nhân sản xuất và những người xung quanh. Khí thải lò đốt chứa nhiều chất gây ô nhiễm môi trường như CO2, SO2, NO, NO2, NO3, N2O5… và bụi. Tại các làng nghề này hầu như chưa có hệ thống hút bụi thông gió để giảm lượng bụi bông trong khu vực sản xuất, người lao động chủ yếu dùng khẩu trang để bảo vệ sức khoẻ của mình. Tình trạng do hơi hoá chất cũng chưa có biện pháp khác phục. Các cơ sở sản xuất đều không có ống khói và đều không có hệ thống xử lý khí thải lò đốt.
Điều kiệm làm việc tại các làng nghề này đều có độ ồn cao, thiếu ánh sáng, chế độ gió và môi trường không trong lành, thời gian làm việc kéo dài. Kết quả điều tra y tế tại các làng nghề cho thấy các bệnh về ngoài da, viêm mũi, viêm họng, suy nhược thần kinh là các bệnh rất phổ biến. Nguyêu nhân tác động đến sức khoẻ do sản