Đề án Thực trạng và một số giải pháp nhằm huy động vốn đầu tư vào phát triển ngành dầu khí ở Việt Nam

Dầu khí đang và sẽ đóng vai trò nổi bật trong các cân năng lượng. Đối với Việt Nam, là đất nước ổn định về chính trị, an ninh xã hội, được thiên nhiên ưu đãi có nguồn tài nguyên phong phú, vị trí địa lý thuận lợi. Đặc biệt trong nguồn tài nguyên phong phú ấy các mỏ Dầu khí chiếm một vị trí lớn. Cho nên không phải ngẫu nhiên mà ngành Dầu khí trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước. Để đưa ngành Dầu khí là ngành đầu tàu trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Việt Nam đã thực hiện các biện pháp huy động vốn vào phát triển ngành Dầu khí, đặc biệt sự thông thoáng rõ ràng của luật đầu tư nói chung và luật Dầu khí nói riêng đã thu hút nhiều vốn và công nghệ từ các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào các lĩnh vực trong phát triển ngành Dầu khí từ thăm dò, tìm kiếm, khai thác đến tinh lọc dầu. Đương nhiên trên bước đường trưởng thành và hội nhập, ngành Dầu khí là một ngành công nghiệp mang tính tầm cỡ, đòi hỏi vốn lớn công nghệ hiện đại. Nên trong quá trình phát triển, ngành Dầu khí Việt Nam không thể tránh khỏi những vấp váp, yếu kém, thậm chí tiêu cực. Tuy nhiên, như ta đã thấy, những kết quả đã đạt được của ngành trong vấn đề huy động vốn và sự phát triển của ngành những năm gần đây, cộng với những đường lối đúng đắn, những đổi mới trong tư duy, những tiến bộ trong công nghệ và quản lý. Ngành Dầu khí Việt Nam chắc chắn sẽ phát triển ngày càng nhanh hơn trước và quá trình hội nhập quốc tế sẽ nhanh chóng, để trở thành một ngành công nghiệp hiện đại ngang tầm khu vực.

doc58 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1967 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng và một số giải pháp nhằm huy động vốn đầu tư vào phát triển ngành dầu khí ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Bước vào thế kỷ XXI, trong bối cảnh khu vực hoá, toàn cầu hoá, các nền kinh tế diễn ra mạnh mẽ, cộng với sự suy thoái kinh tế mang tính toàn cầu, sau các sự kiện đầy kịch tính ở Mỹ, Nga, Trung Đông, nước ta cũng không thể thoát khỏi những thách thức đầy cam go như các nước khác trong khu vực. Tuy vậy, Việt Nam trong những năm qua khép lại bằng những thành tựu kinh tế - xã hội đã đạt được trong bối cảnh không ít khó khăn thách thức đó. Nền kinh tế tiếp tục tăng tưởng với tốc độ khá cao, giá trị sản lượng công nghiệp tăng nhanh chóng. Việt Nam đã khẳng định mình là một quốc gia ổn định trên con đường phát triển và hội nhập. Trong thành tựu chung đó có sự đóng góp quan trọng của ngành Dầu khí Việt Nam. Một thực tế là, nhiều năm nay, Dầu khí là một trong những ngành đầu tư hấp dẫn nhất. Kim ngạch xuất khẩu Dầu khí chiếm tỷ trọng đáng kể và đóng góp quan trọng đối với nền kinh tế nhiều nước. Riêng với ngành Dầu khí Việt Nam, cơ hội đầu tư có nhiều, nhưng vốn đầu tư còn hạn chế. Thêm vào đó ta nhận thấy ngành công nghiệp Dầu khí thế giới đang đi vào giai đoạn đỉnh để bước sang giai đoạn suy tàn, cuộc khủng bố ở Newyork ngày 11.9.2001 đã mang lại những thay đổi to lớn trong bức tranh địa lý_ chính trị Dầu khí toàn cầu. Và những gì chúng ta đã và đang thấy trong hoạt động chính trị- quân sự của Mỹ ở Trung Cận Đông phần nào nói lên tầm quan trọng của năng lượng Dầu khí. Trước sự quan trọng như vậy của năng lượng Dầu khí, cùng với một tiềm năng Dầu khí không phải là ít ở Việt Nam, thì vấn đề đầu tư vào phát triển ngành Dầu khí ở Việt nam là vấn đề đang được quan tâm. Chính vì lẽ đó, mà trong bài viết này em xin trình bày về tình hình huy động vốn đầu tư vào phát triển ngành Dầu khí ở Việt Nam, nhằm đánh giá một cách cụ thể hơn các hoạt động đầu tư vào phát triển ngành Dầu khí Việt Nam, cũng như sự phát triển ngành Dầu khí nước ta giai đoạn hiện nay, để từ đó có những giải pháp cụ thể thu hút các nguồn vốn đầu tư vào phát triển ngành Dầu khí. Đưa ngành Dầu khí phát triển xứng đáng với tiềm năng sẵn có của đất nước và khẳng định vị thế là ngành kinh tế – kỹ thuật quan trọng trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Tuy bài viết đã có nhiều cố gắng, song không tránh khỏi những thiếu sót và còn nhiều hạn chế, em mong sự đóng góp của thầy cô giáo để bài viết được hoàn thành tốt hơn. Bài viết được hoàn thành với sự hướng dẫn tận tình của cô giáo, Tiến sỹ Đinh Đào Ánh Thủy. Em xin chân thành cảm ơn cô. Hà Nội, 11.2008. Chương I: Khái quát chung về đầu tư và vấn đề huy động vốn đầu tư vào ngành Dầu khí Việt Nam. Trước khi đi sâu vào nghiên cứu vấn đề “huy động vốn đầu tư cho sự phát triển ngành Dầu khí”, em xin trình bày những khái niệm cơ bản về đầu tư, đầu tư cho phát triển và các nguồn vốn cơ bản cần huy động cho công cuộc đầu tư. 1. Đầu tư và nguồn vốn đầu tư. 1.1. Đầu tư và đầu tư phát triển. “Đầu tư là thuật ngữ có thể được hiểu đồng nghĩa với “sự bỏ ra”, sự hy sinh”. Từ đó có thể coi “đầu tư” là sự bỏ ra, sự hi sinh những cái gì đó ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm đem lại cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra. Các nguồn lực bỏ ra có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động, tài sản vật chất khác. Còn những kết quả đạt được có thể là tăng thêm tài sản tài chính, tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn lực có đủ điều kiện để làm việc với năng suất lao động và hiệu suất công tác cao hơn trong nền sản xuất xã hội. Những kết quả đã đạt được ở trên đây, những kết quả là tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi lúc, mọi nơi, đối với cả người bỏ vốn và nền kinh tế. Những kết quả này không chỉ riêng người đầu tư mà cả nền kinh tế được hưởng. Trong hoạt động đầu tư có bao gồm Đầu tư cho tài chính, Đầu tư thương mại và Đầu tư cho phát triển. Đầu tư vào ngành dầu khí là hoạt động thuộc thuộc lĩnh vực Đầu tư phát triển. Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và kiến trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ và, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với hoạt động của các tài sản này nhăm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế - xã hội,tạo ra việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. Đầu tư phát triển làm gian tăng tài sản cho nền kinh tế mà không phải là sự chu chuyển giữa đơn vị này sang đơn vị kia của nền kinh tế. 1.1.1. Đặc điểm của đầu tư phát triển. Khác với các hoạt động đầu tư khác, Đầu tư phát triển có đặc điểm sau: Hoạt động Đầu tư phát triển đòi hỏi một khối lượng vốn lớn, vốn tồn đọng, không vận động suốt quá trình thực hiện đầu tư. Đây chính là cái giá khá lớn của Đầu tư phát triển. Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều thời gian với nhiều biến động xảy ra. Thời gian cần huy động đòi hỏi để có thể thu hồi đủ vốn đã bỏ ra đối với các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh thường là lớn và do đó không tránh khỏi sự tác động hai mặt (tích cực và tiêu cực) của các yếu tố không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế … Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài nhiều năm, có khi hàng trăm, hàng ngàn năm và thậm chí tồn tại vĩnh viễn như các công trình nổi tiếng thế giới (Kim Tự Tháp cổ ở Ai Cập, nhà thờ La Mã ở Rome, Vạn Lý Trường Thành ở Trung Quốc, Đền AngcoVat của Campuchia). Điều này nói lên giá trị của các thành quả Đầu tư phát triển. Các thành quả hoạt động Đầu tư phát triển là công trình xây dựng sẽ hoạt động ở ngay nơi mà nó được tạo dựng. Do đó các điều kiện về địa lý, địa hình nơi đầu tư sẽ ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác dụng sau này của các kết quả đầu tư. Mọi thành quả và hậu quả của quá trình thực hiện đầu tư chịu ảnh hưởng nhiều của các yếu tố không ổn định theo thời gian và điều kiện pháp lý của không gian. Từ những đặc điểm trên, ta thấy Đầu tư phát triển không những tác động đến nền kinh tế mà còn tác động đến toàn bộ xã hội. Vì vậy mà Đầu tư phát triển có những vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói riêng và toàn xã hội nói chung. 1.1.2. Vai trò của Đầu tư phát triển. Các nhà kinh tế đều cho rằng Đầu tư phát triển là chìa khoá của sự tăng trưởng. Vai trò này được thể hiện ở các mặt sau: Thứ nhất: Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế của đất nước. * Đầu tư là nhân tố quan trọng tác động đên tăng trưởng và phát triển kinh tế. Về mặt lý luận, hầu hết các tư tưởng, mô hình và lý thuyết về tăng trưởng kinh tế đều trực tiếp hoặc gián thiếp thừa nhận đầu tư và việc tích luỹ vốn cho đầu tư là một nhân tố quan trọng cho việc gia tăng năng lực sản xuất, cung ứng dịch vụ cho nền kinh tế. Từ các nhà kinh tế học cổ điển như Adam Smith trong cuốn “của cải của các dân tộc” đó cho rằng vốn đầu tư là yếu tố quyết định chủ yếu của số lao động hữư dụng và hiệu quả. Việc gia tăng quy mô vốn đầu tư sẽ góp phần quan trọng ttrong việc gia tăng sản lượng quốc gia và sản lượng bình quân mỗi lao động. Theo mô hình của Harrod-Domar, mức tăng trưởng của nền kinh tế phụ thuộc trực tiếp vào mức gia tăng vốn đầu tư thuần. g =∆Y/Y =∆Y/y*∆K/∆K=∆Y/∆K*∆K/Y=1/ICOR*I/Y => ∆Y=1/ICOR*I Trong đó: ∆Y: mức gia tăng sản lượng ∆K: Mức gai tăng vốn đầu tư I: Mức đầu tư thuần K: Tổng quy mụ vốn của nền kinh tế Y: Tổng sản lượng của nền kinh tế ICOR: Là hệ số gia tăng vốn-sản lượng. Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng thể hiện cũng rất rõ trong tiến trình đổi mới của nền kinh tế nước ta thời gian qua. Với chính sách đổi mới, các nguồn vốn đầu tư cả trong nước và nước ngoài ngày càng được đa dạng hoá và gia tăng về quy mô, tốc độ tăng truởng của nền kinh tế đạt được cũng rất thoả đáng. Cuộc sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận dân cư ngày càng được cải thiện. * Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu: Về mặt cung: Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên (đường S dịch chuyển sang đường S’), kéo theo sản lượng tiềm năng từ Q1 đến Q2 và do đó giá cả sản phẩm từ P1 đến P2. Sản lượng tăng, giá cả giảm, cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại tiếp tục kích thích sản xuất hơn nữa sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế - xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. Về mặt cầu: Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm khoảng 24% - 28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu tác động của đầu tư là ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng (đường D dịch sang D’) kéo theo lượng cân bằng tăng theo từ Qo đến Q1 và giá cả của các đầu vào của đầu tư tăng từ Po đến P1. Điểm cân bằng dịch chuyển từ Eo đến E1. Sự tác động của đầu tư đến cung, cầu được thể hiện qua mô hình sau: Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế. Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và đối với tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia. * Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước. Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của đất nước ta hiện nay. Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ, trình độ công nghệ của Việt nam lạc hậu nhiều thế hệ so với thế giới và khu vực. Đầu tư và đặc biệt là ĐTPT trực tiếp tạo mới và cải tạo chất lượng và năng lực sản xuất, phục vụ của nền kinh tế và các đơn vị cơ sở. Chính vì vậy, đâu tư cũng là điều kiện tiên quyết cho quá trình đổi mới và nâng cao năng lực công nghệ của quốc gia theo cơ cấu kĩ thuật của đầu tư, trong giai đoạn vừa qua, tỷ trọng giá trị máy móc thiết bị trong tổng vốn đầu tư của VN chiếm khoảng 28% (xây dựng chiếm khoảng 57%). Cơ cấu này chưa phản ánh đúng yêu cầu CNH-HĐH, tuy nhiên nó cũng là con số không nhỏ tạo ra năng lực công nghê cho toàn bộ nền kinh tế. Đối với đầu tư nước ngoài, hoạt động của doanh nghiệp FDI thường gắn với các chương trình chuyển giao công nghệ trong đó nước nhận vốn cũng có thể là điểm đến của một số công nghệ và phương thức dản xuất mới. Đối với chi đầu tư của nhà nước cho nghiên cứu khoa học và phát triên công nghệ mới mặc dù vẫn cũn nhỏ về quy mô, thấp về tỷ trọng (giai đoạn 2001-2005 là 7,6 nghìn tỷ đồng chiếm 0.9% vốn đầu tư toàn xã hội) nhưng ở đây cũng là một trong những biểu hiện của đầu tư và ở mức độ nhận định nó cũng có tạo ra và tăng cường năng lực khoa học công nghệ nước ta (đạt được những thành tựu nhất định trong lĩnh vực nông nghiệp: giống mới, công nghệ ren…) * Đầu tư và sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy, con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông - lâm nghiệp, thuỷ hải sản do những hạn chế về đất đai và khả năng sinh học, để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5% - 6% là rất khó khăn. Như vậy chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng nhanh của toàn bộ nền kinh tế. Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mặt cân đối về phát triển giữa các vùng, lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng nghèo đói, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị của những vùng có khả năng phát triển nhanh, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển. Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy: muốn giữ tốc độ phát triển ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt từ 15% - 20% so với GDP, tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước ICOR = => ICOR = Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư. Thứ hai: Xét trên giác độ các đơn vị kinh tế của đất nước, Đầu tư phát triển có những vai trò sau: * Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ: đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Chẳng hạn, để tạo dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị máy móc trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất kỹ thuật vừa được tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh phục vụ đang tồn tại, sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật - chất kỹ thuật của các cơ sở này hao mòn, hư hỏng. Để duy trì được sự hoạt động bình thường cần định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất - kỹ thuật đã hư hỏng, hao mòn hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, mua sắm các thiết bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ đã lỗi thời, cũng có nghĩa là phải đầu tư. * Đối với các cơ sở vô vị lợi, để duy trì sự hoạt động, ngoài tiến hành sửa chữa lớn định kỳ, các cở sở vật chất - kỹ thuật còn phải thực hiện các chi phí thường xuyên. Tất cả những hoạt động và chi phí này đều là những hoạt động đầu tư. Như vậy: Đầu tư có một vai trò vô cùng to lớn đối với toàn bộ sự phát triển của một quốc gia. Muốn hoạt động đầu tư ta cần có vốn đầu tư. Vậy vốn là gì? Vốn huy động từ đâu? 1.2. Vốn và nguồn vốn. 1.2.1 Khái niệm về vốn. Xét một phương diện tổng quát nguồn vốn đầu tư là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn cho đầu tư kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước và của xã hội. Nguồn vốn đầu tư bao gồm nguồn đầu tư trong nước và nguồn đầu tư nước ngoài. Nếu chỉ xét theo nguồn hình thành và mục tiêu sử dụng thì vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh phục vụ, là tiền tiết kiệm của dân cư và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội, nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo ra tiềm lực mới cho nền sản xuất xã hội. 1.2.2 Các nguồn vốn cơ bản: 1.2.2.1. Nguồn vốn trong nước Nguồn vốn đầu tư trong nước của mỗi quốc gia được hình thành chủ yếu từ: tiết kiệm của chính phủ, tiết kiệm dân cư, tiết kiệm của các doanh nghiệp và vốn huy động thông qua các tài sản quốc gia. * Nguồn vốn Nhà nước Nguồn vốn đầu tư Nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách Nhà nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp Nhà nước. Nguồn vốn ngân sách Nhà nước là nguồn chi của ngân sách Nhà nước cho đầu tư. Đó là nguồn vốn quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Ngân sách Nhà nước được hình thành từ việc thu thuế, phí, lệ phí, từ vay viện trợ ưu đãi của nước ngoài, vay trên thị trường vốn quốc tế và vay trong dân dựa trên việc phát hành trái phiếu chính phủ. Hiện nay có sự đa dạng vốn đầu tư Nhà nước, không có sự tách biệt giữa: Đầu tư Nhà nước cho sự phát triển chung của xã hội và đầu tư Nhà nước cho sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy mà phải xác định cụ thể nguồn vốn ngân sách không thể đầu tư tràn lan được, mà phải hạn chế trong một số lĩnh vực chủ yếu nhất định. Để làm tăng ngân sách Nhà nước, tức là tăng tiết kiệm chính phủ thì phải tăng thu và tăng tiết kiệm trong chi ngân sách. Trong thu ngân sách thì thu từ thuế chiếm tỷ trọng lớn. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ phương thức cấp phát ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Hình thức tín dụng tức là có vay có trả, và phải trả với một lãi suất nhất định, thường là lãi suất ưu đãi khi vay vốn hay sau khi đầu tư (đầu tư có hiệu quả mới được ưu đãi). Nguồn vốn này có vị trí quan trọng trong chính sách đầu tư của chính phủ. Hiện nay ở nước ta chính phủ sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước nhằm tập trung hỗ trợ đầu tư cho những ngành, lĩnh vực hoặc sản phẩm quan trọng, then chốt của nền kinh tế một cách có trọng tâm, trọng điểm; giảm sự bao cấp và tách bạch tín dụng ngân sách và tín dụng thương mại trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản. Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp Nhà nước là Nguồn vốn này được xác định là thành phần giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, các doanh nghiệp Nhà nước vẫn nắm giữ một khối lượng vốn Nhà nước khá lớn. Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp Nhà nước được hình thành do ngân sách Nhà nước cấp, từ lợi nhuận của doanh nghiệp (đầu tư mới), từ quỹ khấu hao của doanh nghiệp đó (đầu tư thay thế), từ vốn vay (vay ngân hàng thương mại, quỹ tín dụng đầu tư của cán bộ công nhân viên, từ cổ phần )… * Nguồn vốn từ khu vực tư nhân Nguồn vốn của khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích luỹ của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã và lượng kiều hối. Tiết kiệm của dân cư được hình thành từ phần còn lại trong thu nhập của dân cư, sau khi đó đóng góp nghĩa vụ với Nhà nước (nếu có) và đảm bảo tiêu dùng cho nhu cầu thiết yếu của bản thân và gia đình họ. Phạm vi thu nhập của dân cư bao gồm: thu nhập từ kết quả lao động, từ sản xuất và kinh doanh dịch vụ của bản thân dân cư và gia đình họ, kể cả xí nghiệp gia đình cú quy mô nhỏ (không phải là công ty); thu nhập do người thân từ nước ngoài gửi về; thu nhập do thừa kế; thu nhập được hình thành từ những cơ hội may mắn bất ngờ. Tiết kiệm khu vực dân cư là một bộ phận quan trọng của tiết kiệm trong nước, đóng góp vai trũ chủ yếu trong việc hỡnh thành vốn đầu tư của các quốc gia, đây là một bộ phận lớn, chiếm tỷ trọng ngày càng tăng. Tích luỹ của các doanh nghiệp dân doanh là nguồn vốn bao gồm vốn chủ sở hữu và tiết kiệm (các khoản thu nhập của doanh nghiệp sau khi trả thuế và trả cổ tức); từ vốn đi vay hoặc tăng vốn cổ đông bằng cách phát hành cổ phiếu mới. Phần tích luỹ của các doanh nghiệp này đóng góp đáng kể vào tổng quy mô vốn của toàn xã hội. Hoạt động của các doanh nghiệp dân doanh đạt hiệu quả, tạo doanh thu cao hơn so với doanh nghiệp Nhà nước, hoạt động kinh doanh đa ngành với nhiều lĩnh vực khác nhau, giải quyết công ăn vịêc làm cho hàng triệu người lao động, đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước. 1.2.2.2. Nguồn vốn nước ngoài. Nguồn vốn nước ngoài bao gồm toàn bộ phần tích luỹ cá nhân, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và chính phủ nước ngoài có thể huy động được vào quá trình đầu tư phát triển của nước sở tại. Nó bao gồm: nguồn vốn hỗ trợ chính thức, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn tín dụng thương mại, vốn đầu tư gián tiếp, nguồn vốn từ thị trường vốn quốc tế. 1.2.2.2.1. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) * Nguồn vốn ODF (Official Development Finance): là nguồn tài trợ phát triển chính thức do các tổ chức quốc tế hoặc chính phủ cung cấp. Nguồn này bao gồm: viện trợ phát triển chính thức ODA và các hình thức tài trợ phát triển khác trong đó ODA chiếm tỉ trọng chủ yếu. * Nguồn vốn ODA (Official Development Assistance) là nguồn tài chính do các cơ quan chính thức (chính quyền Nhà nước hay địa phương) của một nước hoặc một tổ chức quốc tế viện trợ cho các nước đang phát triển nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội của các nước này. Nội dung viện trợ: - Viện trợ không hoàn lại: yếu tố không hoàn lại của từng khoản vay được xác đinh dựa vào các yếu tố lãi suất, thời hạn cho vay, thời gian ân hạn, số lần trả nợ trong năm và tỷ suất chiết khấu. Đối với loại viện trợ này chiếm 25% tổng vốn ODA, thường là hỗ trợ kĩ thuật, chủ yếu là chuyển giao công nghệ, kiến thức, kinh nghiệm thông qua các hoạt động của chuyên gia quốc tế. Đôi khi viện trợ n
Luận văn liên quan