Đề án Thực trạng và những giải pháp hoàn thiện hệ thống chất lượng đối với sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu

Năm 1986, nước Việt Nam ta đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng trong việc chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung ,bao cấp sang một nền kinh tế mới,nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.Sau hơn 20 năm đổi mới,thực tiễn đã chỉ cho ta thấy rằng,đây là một nền kinh tế tối ưu của Việt Nam hiện nay. Sự chuyển đổi này đã mở ra nhiều thay đổi lớn trong nền kinh tế với sự xuất hiện các loại hình doanh nghiệp mới năng động hơn,hiệu quả hơn.Quản lý kinh tế đã thông thoáng hơn Theo đó,các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh được hoàn toàn tự chủ trong khuôn khổ luật pháp,tự quyết định và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh của mình.Hơn thế nữa,các loại hình doanh nghiệp không còn hoạt động trong khuôn khổ,phạm vi bó hẹp như trước đây,mà đã và đang từng bước tham gia hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Điều này sẽ tạo ra nhiều cơ hội,thuận lợi cho các doanh nghiệp nước ta phát triển.Tuy nhiên,bên cạnh đó vẫn luôn còn những mặt trái của nó,đó là những nguy cơ và thách thức mà các doanh nghiệp phải đối mặt.Chính vì vậy,để quá trình hoạt động kinh doanh có hiệu quả,đem lại thành công cho doanh nghiệp,đòi hỏi mỗi nhà quản trị khi hoạch định chiến lược không chỉ chú trọng quan tâm đến môi trường nội bộ doanh nghiệp,môi trường ngành,mà còn cần phải chú trọng đến môi trường nền kinh tế quốc dân,môi trường quốc tế,hay nói cách khác là môi trường vĩ mô của doanh nghiệp.

docx39 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1854 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng và những giải pháp hoàn thiện hệ thống chất lượng đối với sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Năm 1986, nước Việt Nam ta đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng trong việc chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung ,bao cấp sang một nền kinh tế mới,nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.Sau hơn 20 năm đổi mới,thực tiễn đã chỉ cho ta thấy rằng,đây là một nền kinh tế tối ưu của Việt Nam hiện nay. Sự chuyển đổi này đã mở ra nhiều thay đổi lớn trong nền kinh tế với sự xuất hiện các loại hình doanh nghiệp mới năng động hơn,hiệu quả hơn.Quản lý kinh tế đã thông thoáng hơn…Theo đó,các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh được hoàn toàn tự chủ trong khuôn khổ luật pháp,tự quyết định và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh của mình.Hơn thế nữa,các loại hình doanh nghiệp không còn hoạt động trong khuôn khổ,phạm vi bó hẹp như trước đây,mà đã và đang từng bước tham gia hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Điều này sẽ tạo ra nhiều cơ hội,thuận lợi cho các doanh nghiệp nước ta phát triển.Tuy nhiên,bên cạnh đó vẫn luôn còn những mặt trái của nó,đó là những nguy cơ và thách thức mà các doanh nghiệp phải đối mặt.Chính vì vậy,để quá trình hoạt động kinh doanh có hiệu quả,đem lại thành công cho doanh nghiệp,đòi hỏi mỗi nhà quản trị khi hoạch định chiến lược không chỉ chú trọng quan tâm đến môi trường nội bộ doanh nghiệp,môi trường ngành,mà còn cần phải chú trọng đến môi trường nền kinh tế quốc dân,môi trường quốc tế,hay nói cách khác là môi trường vĩ mô của doanh nghiệp. Đề án này cũng nhằm mục đích phân tích và đánh giá từng nhân tố của môi trường để chỉ ra vai trò quan trọng của môi trường vĩ mô. Đồng thời đưa ra những phương pháp để có thể đánh giá chính xác,cụ thể hơn mức độ tác động của chúng đối với doanh nghiệp. I.NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN. Để có thể đánh giá và phân tích được môi trường vĩ mô,trước tiên ta cần phải hiểu và nắm rõ được các khái niệm cơ bản sau đây: Môi trường được hiểu một cách đơn giản như là một không gian hữu hạn,bao quanh những sự vật,những yếu tố hay một quá trình hoạt động nào đó như: môi trường khí,môi trường nước,môi trường văn hoá xã hội,môi trường thể chế,môi trường sống,môi trường làm việc…Hay,có thể nói rằng,môi trường là một tập hợp các yếu tố,những điều kiện tạo nên khung cảnh tồn tại và phát triển của một chủ thể. Môi trường kinh doanh của một doanh nghiệp là tổng hợp các yếu tố,các điều kiện bên ngoài,có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp gồm có môi trường vĩ mô và môi trường vi mô.Hay bao gồm môi trường kinh doanh quốc tế,môi trường kinh doanh quốc gia,môi trường ngành và môi trường nội bộ doanh nghiệp.Môi trường vi mô là môi trường hay những lực lượng có quan hệ trực tiếp với bản thân công ty,doanh nghiệp và khả năng phục vụ khách hàng của nó,tức là những người môi giới Marketing,các khách hàng,các đối thủ cạnh tranh và công chúng trực tiếp. Khác với môi trường vi mô,môi trường vĩ mô được hiểu là những lực lượng trên bình diện xã hội,rộng lớn hơn,có ảnh hưởng đến môi trường vi mô.Nó bao gồm các yếu tố như: chính trị và luật pháp,kinh tế,kỹ thuật công nghệ,tự nhiên,văn hoá-xã hội.Ngoài ra cũng cần quan tâm đến môi trường quốc tế trong phân tích và đánh giá môi trường vĩ mô.Môi trường kinh doanh quốc tế và môi trường kinh doanh quốc gia có tác động và làm ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh ngành,môi trường kinh doanh nội bộ doanh nghiệp.Nói cách khác,môi trường nội bộ doanh nghiệp,môi trường ngành nằm trong môi trường quốc gia và môi trường quốc tế. Phân tích môi trường kinh doanh chính là một quá trình mà cá nhà chiến lược tiến hành kiểm tra xem xét các nhân tố môi trường khác nhau,có tác động vào hoạt động của doanh nghiệp để xác định các thời cơ,cũng như nguy cơ đối với doanh nghiệp. Thời cơ được hiểu là cơ hội,tạo ra điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc đầu tư,phát triển sản xuất kinh doanh,chiếm lĩnh thị trường,mở rộng thị phần,tăng doanh thu và hiệu quả kinh doanh trên thương trường trong và ngoài nước.Còn nguy cơ được hiểu là thách thức,đe doạ gây ra rủi ro và khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc đầu tư,phát triển sản xuất kinh doanh…Có thể thấy,thời cơ và nguy cơ là hai vấn đề,hai nhân tố phát triển ngược chiều.Thời cơ càng phát triển thì nguy cơ càng giảm dần và ngược lại. Khi phân tích môi trường kinh doanh của doanh nghiệp cần phải xác định được việc phải phân tích những vấn đề gì?.Để làm được điều này,phải có thông tin,thu thập,phân tích và xử lý thông tin…Đồng thời,năng lực cần có của một nhà quản lý cũng đóng một vai trò hết sức quan trong trong quá trình phân tích này. II.VAI TRÒ CỦA VIỆC PHÂN TÍCH &ĐÁNH GIÁ MÔI TRƯỜNG VĨ MÔ Mục đích của việc phân tích và đánh giá môi trường vĩ mô là để xác định đúng đắn các thời cơ,các nguy cơ trong môi trường bên ngoài.Từ đó,doanh nghiệp có thể khia thác và phát huy các thời cơ,đồng thời tìm ra các giải pháp hữu hiệu để hạn chế,ngăn ngừa và xoá bỏ nguy cơ,giúp cho các hoạt động chiến lược của doanh nghiệp luôn luôn thích ứng với môi trương kinh doanh.Đây được coi là một trong những cơ sở hay căn cứ để xác định mục tiêu,định hướng và các biện pháp trong nội dung của mỗi chiến lược kinh doanh. Việc phân tích và đánh giá môi trường vĩ mô giúp cho doanh nghiệp hiểu và biết rõ được những nhân tốt bên ngoài doanh nghiệp có ảnh hưởng và tác động như thế nào?ở mức độ ra sao?Tác động tích cực hay tiêu cực?...đối với quá trình hoạt động sản xuất của mình.Từ đó,đưa ra những chính sách phù hợp,đúng đắn trong việc xây dựng và thực thi chiến lược kinh doanh. Bên cạnh đó,nó còn giúp cho các nhà chiến lược lượng hoá được sự tác động của các yếu tố môi trường kinh doanh và mức độ thích ứng của doanh nghiệp trước những thay đổi của môi trường. Mặt khác,nhờ có đánh giá và phân tích môi trường vĩ mô đã giúp cho doanh nghiệp xác định được vị thế của mình trên thương trường,biết được vị trí mình đã đạt được đang ở mức nào.Cũng từ đó đưa ra được những quyết định đúng đắn,để duy trì,củng cố và phát triển doanh nghiệp,tránh được những quyết định sai lầm,thiếu căn cứ. Các yếu tố trong môi trường kinh doanh của doanh nghiệp có tác động không giống nhau đối với cùng một hoạt động sản xuất kinh doanh.Do đó,việc phân tích và đánh giá chúng sẽ giúp cho doanh nghiệp sắp xếp được thứ tự ưu tiên quan tâm,cũng như thứ tự các yếu tố cần phải dè chừng.Từ đó,có những biện pháp,kế hoạch điều chỉnh hợp lý.Điều này giúp cho việc lập chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp được thuận lợi và chính xác hơn III.NỘI DUNG CỦA VIỆC PHÂN TÍCH ĐÁNH GIÁ A.PHÂN TÍCH,ĐÁNH GIÁ CÁC YẾU TỐ CỦA MÔI TRƯỜNG VĨ MÔ Phần II đã chỉ cho ta thấy được tầm quan trọng của môi trường vĩ mô trong việc xác định các thời cơ cũng như tìm ra nguy cơ đối với doanh nghiệp.Tuy nhiên để có thể xác định được các thời cơ và nguy cơ đấy,các doanh nghiệp cần phải biết rõ các nhân tố chủ yếu tạo thành môi trường vĩ mô,bao gồm: nhân tố chính trị-luật pháp,nhân tố kinh tế,nhân tố kỹ thuật-công nghệ,nhân tố tự nhiên,nhân tố văn hoá-xã hội,và nhân tố môi trường quốc tế. 1.Nhân tố chính trị và luật pháp Việc phân tích nhân tố này là rất quan trọng,bởi lẽ nếu một đất nước mà có tình hình chính trị không ổn định,sẽ gây ảnh hưởng xấu và rất lớn đến lực lượng lao động,đến tình hình đầu tư của các đối tác nước ngoài…. Nhân tố chính trị và luật pháp của nhà nước luôn luôn được coi là những vấn đề mang tích chất cơ sở,nền tảng cho việc xác định các nhân tố khác trong môi trường kinh doanh của một của quốc gia.Các nhân tố này cũng tạo ra thời cơ và gây ra nguy cơ đối với hoạt động chiến lược của các ngành kinh tế_kỹ thuật và các doanh nghiệp thông qua các thành tố của nó,đó là sự ổn định về chính trị,đường lối đổi mới,tạo lập các tập đoàn kinh tế,xây dựng các công trình tầm cỡ quốc gia,hệ thống luật pháp và các chế độ,chính sách… -Sự ổn định chính trị: điều này thể hiện rõ trong quan điểm đường lối chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước.Sự ổn định chính trị luôn luôn được coi là cơ hội thuận lợi và hấp dẫn đối với hoạt động chiến lược của các nhà Đầu tư,các nhà sản xuất,kinh doanh trong và ngoài nước. -Đường lối quản lý kinh tế đổi mới: chủ trương thực hiện nền kinh tế mở,nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.Cho đến nay,thành tố này vẫn đã và đang tạo ra nhiều cơ hội cho các ngành kinh tế kỹ thuật và cá doanh nghiệp ở trong và ngoài nước được phép gặp gỡ,trao đổi,tham quan,tìm kiếm cơ hội đầu tư hoặc tìm cách thiết lập các mối quan hệ hợp tác,liên kết liên doanh nhằm phát triển và mở rộng thị trường tiêu thụ,phát triển sản xuất kinh doanh với hiệu quả cao - Chủ trương tạo lập các tập đoàn kinh tế mạnh và xây dựng các công trình tầm cỡ quốc gia.Thành tố này cho thấy,Nhà nước hay chính phủ là người tiêu dùng hàng hoá lớn nhất,là thị trường rộng lớn,tạo ra các cơ hợi thuận lợi để các ngành kinh tế-kỹ thuật,và các doanh nghiệp lớn đưa hàng hoá và dịch vụ của mình vào thị trường này theo hướng chiến lược lâu dài. -Hệ thống pháp luật và các chế độ chính sách như: hành lang phấp luật quy định và các chi phối hoạt động của các doanh nghiệp trong suốt cả quá trình hình thành,hoạt động thậm chí là ngay cả khi phá sản.Do đó,cần phải đánh giá và phân tích được hệ thống luật pháp.Nó thể hiện rõ nhất thông qua các bộ luật,nghị định,pháp lệnh để điều chỉnh hành vi kinh doanh của các doanh nghiệp,buộc các doanh nghiệp phải đi đúng hướng và thực hiện trong quá trình hình thành,điều chỉnh…và cả quá trình phá sản của doanh nghiệp. Hệ thống pháp luật và các chính sách,chế độ cho thấy:Quốc hội,Nhà nước đã,đang ban hành luật pháp,chế độ chính sách với tinh thần ngày càng đồng bộ và hoàn hảo để tạo ra điều kiện thuận lợi cho việc ổn định phát triển kinh tế-xã hội,phát triển sản xuất kinh doanh,bảo đảm quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh của các ngành và các doanh nghiệp theo đúng luật pháp đã ban hành.Ngoài ra,đây còn là điều kiện thiết yếu để thực hiện tốt nguyên tắc:Bình đẳng tôn trọng lẫn nhau và các bên cùng có lợi trong kinh doanh”. Cơ chế điều hành của Nhà nước cũng đóng một vai trò quan trọng tới hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp.Nó trực tiếp quyết định đến tính hiệu lực của luật pháp và các chính sách kinh tế của Nhà nước.Việc điều hành tốt sẽ là điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển Quốc hội và Nhà nước đã ban hành khá nhiều bộ luật,chủ yếu liên quan đến sản xuất,kinh doanh,chẳng hạn như:Bộ luật về xuất nhập khẩu;luật đầu tư ;các sắc thuế; luật doanh nghiệp; luật cạnh tranh; luật tiết kiệm,chống lãng phí,chống tham nhũng; luật lao động… Bên cạnh những thời cơ,thì luật pháp,chế độ chính sách cũng có thể gây ra nguy cơ,khó khăn cho hoạt động chiến lược của các ngành và các doanh nghiệp nếu nội dung của chúng không kín kẽ,hoặc không phù hợp với điều kiện thực tế.Do đó,việc thực hiện,cải tiến và đổi mới luật pháp,chế độ chính sách là công việc có tính tất yếu. 2.Nhân tố kinh tế Thực trạng của nền kinh tế và xu hướng phát triển của nó thông qua các nhân tố kinh tế,có ảnh hưởng vô cùng to lớn đối với hoạt động chiến lược của các ngành và các doanh nghiệp. Các thành tố của nhân tố này phải tính đến đó là:Tốc độ tăng trưởng cảu nền kinh tế; chính sách lãi ngân hàng; chính sách tiền tệ; tỷ lệ lạm phát,tỷ giá hối đoái; tỷ lệ thất nghiệp… -Tốc độ tăng trưởng hay suy giảm của nền kinh tế trong các giai đoạn hưng thịnh hay phát triển,suy giảm hay suy thoái và phục hồi đều có ảnh hưởng đến hoạt động chiến lược của các ngành và các doanh nghiệp,cụ thể như sau: Nếu như nền kinh tế quốc dân(KTQD) đang ở giai đoạn hưng thịnh hay phát triển thì nó sẽ tạo ra cơ hội thuận lợi cho các hoạt động chiến lược của các ngành và các doanh nghiệp trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá Ngựơc lại, nếu như nền kinh tế đang ở vào giai đoạn suy thoái hay suy giảm,thị nó sẽ gây ra nguy cơ cho hoạt động chiến lược của các ngành trong việc sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. -Mức lãi suất hay tỷ lệ lãi suất ngân hàng cao hay thấp đều có ảnh hưởng đến hoạt động chiến lược của các ngành và các doanh nghiệp trong việc tạo ra vốn và sử dụng vốn.Do đó,nếu mức lãi suet hay tỷ lệ lãi suất được coi là hợp lý,sẽ tạo cơ hội ch oviệc huy động tiền gửi vào ngân hàng và cho các đối tác vay mượn.Ngược lại,nếu nó bất hợp lý như quá cao hoặc quá thấp sẽ đều gây ra nguy cơ trong việc huy động và cho vay vốn,và chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến hoạt động chiến lược cảu các ngành và các doanh nghiệp. -Chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái:Đây cũng là thành tố vừa tạo ra thời cơ,vừa gây ra nguy cơ không chỉ làm tăng hay giảm giá trị của đồng tiền mà còn ảnh hưởng đến hoạt động chiến lược của các ngành và các doanh nghiệp. -Tỷ lệ lạm phát tăng hay giảm cũng đều ảnh hưởng đến hoạt động chiến lược của các ngành và các doanh nghiệp.Cụ thể là: nếu tỷ lệ lạm phát tăng làm giá trị của đồng tiền bị suy giảm,ảnh hưởng xấu đến các hoạt động kinh tế,đến việc tạo vốn và sử dụng vốn sản xuất kinh doanh.Ngược lại,nếu tỷ lệ lạm phát giảm hoặc kiềm chế được lạm phát,sẽ đảm bảo được giá trị của đồng tiền,thúc đẩy việc phát triển kinh tế và phát triển sản xuất kinh doanh. Ngoài ra,tỷ lệ lạm phát tăng hay giảm còn ảnh hưởng đến việc tạo công ăn việc làm cho người lao động,ảnh hưởng đến tình hình thất nghiệp -Khủng hoảng thừa thiếu hàng hoá đều ảnh hưởng đến hoạt động chiến lược cảu của các ngành và các doanh nghiệp,nó thể hiện ở hai mặt cụ thể là:Nếu xuất hiện khủng hoảng thừa,dẫn đến hiện tượng cung lớn hơn cầu,hàng hoá ứ đọng khó tiêu thụ,các doanh nghiệp đua nhau giảm giá.Điều này vừa gây thiệt hại cho nền kinh tế,vừa thiệt hại cho các ngành và các doanh nghiệp trong việc đình đốn,đình trệ sản xuất kinh doanh.Ngược lại,nếu xuất hiện khủng hoảng thiếu,dẫn đến hiện tượng cung nhỏ hơn cầu,hàng hoá khan hiếm,các doanh nghiệp đau nhau tăng giá,cũng gây thiệt hại,khó khăn cho phát triển và phát triển sản xuất kinh doanh của nhiều ngành và nhiều doanh nghiệp. 3.Nhân tố kỹ thuật-công nghệ Trong môi trường kinh doanh quốc gia,nhân tố kỹ thuật-công nghệ luôn giữ vai trò trung tâm và có ảnh hưởng lớn,trực tiếp sâu sắc và toàn diện đến hoạt động chiến lược của các ngành và các doanh nghiệp.Bên cạnh đó,nó còn là nhân tố có tầm quan trọng đặc biệt đối với việc tạo ra lợi thế và khả năng cạnh tranh của các đơn vị hoạt động trên thương trường. -Nhờ có ứng dụng khoa học kỹ thuật ngày càng tiên tiến,các doanh nghiệp càng có thể thực hiện chiến lược cảu doanh nghiệp mình một cách hiệu quả hơn,khẳng định được vị thế của mình trên thương trường.Đồng thời,thông qua đổi mới công nghệ,đổi mới khoa học công nghệ đã nâng cao trình độ quản lý kỹ thuật cho doanh nghiệp Cần phải nhận thức được rằng,khoa học công nghệ có tác động mạnh mẽ ở mọi khía cạnh đối với doanh nghiệp -Các loại công nghệ mới xuất hiện trên thương trường sẽ đồng thời cùng một lúc vừa tạo ra thời cơ cho một số ngành này,doanh nghiệp này,nhưng lại vừa gây ra nguy cơ cho một số ngành khác,doanh nghiệp khác.Bởi lẽ,để sủ dụng được chúng,các doanh nghiệp phải có những điều kiện nhất định,không phải cùng một công nghệ mà bất cứ ngành nào,doanh nghiệp nào cũng có thể áp dụng và sử dụng tốt.Các doanh nghiệp cần phải biết lựa chọn công nghệ phù hợp với doanh nghiệp. -Mức độ ảnh hưởng của các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới đối với các ngành và các doanh nghiệp có sự khác nhau,chẳng hạn như :Đối với nghàng công nghệ viễn thông,điện tử,hàng không có mức ảnh hưởng lớn hơn so với các nghành sản xuất xi măng,chế biến kim loại và nghành dệt may.bởi vì,công nghệ cử những nghành này có sự thay đổi nhanh hơn -Sự ảnh hưởng của tiến bộ khoa học-kĩ thuật và công nghệ không chỉ đối với các nghành sản xuất,mà còn tác động mạnh mẽ đến nghành thông tin-kinh tế,xã hội,thị trường giá cả và thông tin trong quản trị chiến lược -Thị trường công nghệ và chuyển giao công nghệ:Nói đến thị trường công nghệ là nói đến sự biến đổi cung và cầu về công nghệ,nói đến việc mua bán công nghệ hay còn gọi là chuyển giao công nghệ sự biến động này vừa tạo ra thời cơ đối với những doanh nghiệp có dư nguồn lực,trình độ quản lý và tay nghề,vừa gây ran guy cơ đối với doanh nghiệp mà không có đủ điều kiện thiết yếu. 4. Nhân tố tự nhiên Nhân tố này cũng ảnh hưởng khá lớn đến sản xuất-kinh doanh của các nghành kinh tế-kĩ thuật và các doanh nghiệp thông qua các thành tố của nó như:thời tiết,khí hậu,mưa gió,bão lụt,hạn hán,mùa vụ,môi trường sinh thái,các nguồn tài nguyên thiên nhiên trên mặt đất,trong lòng đất,trên mặt biển,sông ngòi,và trong lòng biển. Môi trường sinh thái tốt hay xấu,ô nhiễm hay không ô nhiễm đều ảnh hưởng tốt hay xấu đến hoạt động chiến lược của các nghành các doanh nghiệp và đời sống văn hoá xã hội của con người. Các loại tài nguyên thiên nhiên phong phú hay nghèo nàn,như các loại mỏ than,thiếc,sắt,cao lanh,apatít,crôm,vàng…đều là những yếu tố vào,ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất kinh doanh của các nghành và các doanh nghiệp việc khai thác tài nguyên thiên nhiên bừa bãi,thiếu quy tắc sẽ dẫn đến tình trạng lãnh phí tài nguyên,đồng thời cũng làm cho lượng thiếu hụt tài nguyên thiên nhiên tăng lên.đây sẽ là 1 khó khăn đối với những nghành sản xuất có đầu vào phụ thuộc lớn bởi tài nguyên thiên nhiên.việc thiếu này cũng làm cho chi phí khai thác tăng lên,chi phí năng lượng tăng…Đều ảnh hưởng không tốt.Chẳng hạn như nghành sản xuất mây tre đan … Nhân tố tự nhiên,không chỉ có tài nguyên thiên nhiên các vấn đề thời tiết khí hậu,địa hình…cũng ảnh hưởng không nhỏ đối hoạt động sản xuất của các nghành doanh nghiệp,đặc biệt là những nghành có liên quan trực tiếp đéan tự nhiên như nghành trồng hoa;nghành giầy dép;may mặc;chăn nuôi;trồng trọt;lương thực;thực phẩm;giao thông vẩn tải;nghành sản xuất đồ hộp;mía đường. Mặc dù,nhân tốt tự nhiên có ảnh hưởng khá lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh,nhưng nó cũng chỉ ảnh hưởng có giới hạn,bởi lẽ,ở những nước có nền kinh tế phát triển,có công nghệ tiên tiến và hiện đại,thì những khó khăn về tài nguyên cũng không gây cản trở con đường đi lên của doanh nghiệp,thông qua giảI pháp khắc phục như:mua nguyên liệu thô về chế biến mà vẫn đạt hiệu quả cao 5. Nhân tố văn hoá-xã hội Nhân tố này tác động,gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp.nó tạo ra cơ hội (hay thuận lợi) và gây ra nguy cơ (khó khăn) cho hoạt động chiến lược của các nghành và các doanh nghiệp,do đó,cần phải phân tích và đánh giá nhân tố văn hoá-xã hội.Sự tác động của nhân tố này đối với hoạt động chiến lược thường được thể hiện qua các thành tố của nó như:trình độ,dân trí,tỷ lệ kết hôn,tỷ lệ sinh đẻ,tỷ lệ tăng dân số,lối sống,phong cách sống,chuẩn mực đạo đức,vui chơi,giải trí,sử dụng lao động nữ,phong tục tập quán của các dân tộc,vấn đề tôn giáo và tín ngưỡng,tổ chức của hiệp hội người tiêu dùng…. -Trình độ dân trí càng cao,thì đối với hoạt động chiến lược-sản xuất kinh doanh càng lớn.bởi lẽ,nó ảnh hưởng đến tính thẩm mỹ,thị hiếu,kiểu dáng,mẫu mã,màu sắc của hàng hoá mà người tiêu dùng đòi hỏi. -Tỷ lệ kết hôn và sinh đẻ,tỷ lệ tăng dân số hợp lí hay không hợp lý đều có ảnh hưởng đén nhu cầu tiêu dùng hàng hoá trên thương trường và đều ảnh hưởng đến hoạt động chiến lược sản xuất-kinh doanh của các đơn vị kinh tế. -Lối sống,phong cách sống,chuẩn mực đạo đức,vui chơi ,giải trí,văn hoá nghệ thuật.nếu như lành mạnh và phát triển theo hướng tiến bộ sẽ tạo ra tính tích cực trong tiêu dùng hàng hoá.Ngược lại,nếu không lành mạnh sẽ gây ra nhiều tiêu cực,tệ nạn xã hội,làm cản sự phát triển của sản xuất-kinh doanh. -Vai trò của phụ nữ và sử dụng lao động nữ trong cách nghành các doanh nghiệp.Ngày nay,ở nhiều quốc gia trên thế giới và đặc biệt là nước ta,người phụ nữ có vai trò xứng đáng trong nền kinh tế-xã hội,có nghĩa vụ quyền lợi ngang với nam giới. -Trong các ngành kinh tế-kỹ thuật và các doanh nghiệp,có nhiều lĩnh vực,có nhiều hoạt động rất cần lao động nữ.Thí dụ trong nghành hàng không,hoạt động của các tiếp viên trên các chuyến bay cần nhiều lao động nữ ;trong ngành du lịch,trong các nghành dệt kim,tỷ lệ nữ chiếm từ 60% đến70% -Từ vấn đề này cho thấy,lao động nữ nằm trong nguồn lực của các nghành và các doanh nghiệp.Vì vậy,tro
Luận văn liên quan