Đề án Thực trạng vấn đề vốn và huy động vốn cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay và giải pháp

Nông nghiệp, nông thôn từ lâu đã đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của Việt Nam. Để đẩy nhanh sự phát triển trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn nói riêng Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương tiến hành Công nghiệp hoá nông nghiệp ,nông thôn. Đây là một bước đi dúng đắn nhằm phát triển kinh tế nông nghiệp ,nông thôn thúc đẩy quá trình CNH HĐH đất nước. Để có thể thành công trong quá trình này thì sự tích tụ và tập trung là yêu cầu bắt buộc. Vốn được xem như yếu tố đầu vào quan trọng nhất quyết định đến sự thành công của mọi quá trình phát triển kinh tế. Để đảm bảo đủ nguồn vốn cho quá trình CNH nông nghiệp nông thôn ở nước ta trong giai đoan tới đoì hỏi phải có một chính sách huy động vốn đúng đắn. Trước yêu cầu đó nghiên cứu về vốn và chính sách huy động vốn là điều rất cần thiết. Trong bài viết nhỏ này em chỉ xin đề cập một cách khái quát về vấn đề vốn cho phát triển nông nghiệp, nông thôn, thực tai vấn đè vốn ,tín dụng và đầu tư ở Việt Nam và từ đó đề ra các chính sách, giải phát nhằm huy động tối đa các nguồn vốn cho quá trình CNH nông nghiệp ,nông thôn ở nước ta.

docx41 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2071 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng vấn đề vốn và huy động vốn cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Nông nghiệp, nông thôn từ lâu đã đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của Việt Nam. Để đẩy nhanh sự phát triển trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn nói riêng Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương tiến hành Công nghiệp hoá nông nghiệp ,nông thôn. Đây là một bước đi dúng đắn nhằm phát triển kinh tế nông nghiệp ,nông thôn thúc đẩy quá trình CNH HĐH đất nước. Để có thể thành công trong quá trình này thì sự tích tụ và tập trung là yêu cầu bắt buộc. Vốn được xem như yếu tố đầu vào quan trọng nhất quyết định đến sự thành công của mọi quá trình phát triển kinh tế. Để đảm bảo đủ nguồn vốn cho quá trình CNH nông nghiệp nông thôn ở nước ta trong giai đoan tới đoì hỏi phải có một chính sách huy động vốn đúng đắn. Trước yêu cầu đó nghiên cứu về vốn và chính sách huy động vốn là điều rất cần thiết. Trong bài viết nhỏ này em chỉ xin đề cập một cách khái quát về vấn đề vốn cho phát triển nông nghiệp, nông thôn, thực tai vấn đè vốn ,tín dụng và đầu tư ở Việt Nam và từ đó đề ra các chính sách, giải phát nhằm huy động tối đa các nguồn vốn cho quá trình CNH nông nghiệp ,nông thôn ở nước ta. Vấn đề vốn nói riêng vốn cho nông nghiệp, nông thôn nói chung là một vấn đề kinh tế rộng ,chính vì vậy mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng đề án này chắc không thể đề cập được đầy đủ mọi khía cạnh của vấn đề . Em rất mong được thầy giáo và các bạn đọc và cho em những ý kiến để em có thể hoàn thiện hơn đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn Thầy Đào Hùng đã nhiệt tình hướng dẫn, và những góp ý quý báu của thầy giúp em hoàn thành đề án này. Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẤN ĐỀ VỐN TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ NÔNG NGHIỆP,NÔNG THÔN. I-Sự nghiệp công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam. 1.1 - Vấn đề nông nghiệp , nông thôn Việt Nam. Từ thủa xa xưa ông cha ta đã chọn nghề nông là nghề kiếm sống chính.Trải qua 4000 năm lịch sử dựng nước và giữ nước , ở mọi thời đại nông nghiệp và nông thôn luôn là vấn đề trọng tâm của quá trình phát triển. Đất nước ta được hình thành và phát triển dựa trên nền văn minh nông nghiệp. Nền văn hoá truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc của nước ta gắn liền với nghề nông và vùng nông thôn ,nơi mà phần lớn dân cư sinh sống. Hiện nay ở nước ta 80% dân số sống ở nông thôn, hơn 70% lực lượng lao động làm nông nghiệp. Vùng nông thôn bao gồm 8930 xã,thị trấn với khoảng 70.000 thôn, ấp, buôn, bản . Trong đó miền núi trung du Bắc bộ có 2666 xã, Đồng bằng Sông Hồng có 1710 xã, khu IV cũ 1647 xã, Đông nam bộ 447 xã và Đồng bằng sông cửu long 1151 xã. (1) Là một nước nằm trong vùng địa lý đa dạng ,khí hậu nhiệt đới gió mùa đã tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế nông nghiệp phát triển. Tuy nhiên nước ta cũng thường xuyên phải gánh chịu hậu quả của thiên tai như bão lụt ,hạn hán ...Theo thống kê trong hơn 20 năm qua, đã có tới 140 cơn bão và áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng trực tiếp tới nước ta, làm chết và mất tích 12.684 người .Giá trị tài sản thiệt hại ước tính khoảng 2,247 tỷ USD . Bình quân trên 100 triệu USD một năm ,chủ yếu là thiệt hại trong nông nghiệp,nhà cửa ,tàu thuyền của ngư dân. Hoạt động sản xuất nông nghiệp của nước ta vẫn còn chịu ảnh hưởng khá nặng bởi tự nhiên . Do đó rủi ro trong nông nghiệp là rất lớn. (2) Một đặc điểm nữa của nền nông nghiệp và nông thôn ở nước ta là hoạt động sản xuất rất manh mún, dựa vào kinh nghiệm là chính . Quan hệ kinh tế ở nông thôn thường mang tính chất họ hàng ,quen biết . Tính bảo thủ, sợ rủi ro của người dân nông thôn vẫn còn khá lớn dẫn đến sự chậm đổi mới trong tư duy kinh tế, không dám mạnh dạn đầu tư vốn vào sản xuất lớn. Những đặc điểm này làm cho các mối quan hệ kinh tế ở nông thôn ở nước ta ,trong đó có quan hệ tín dụng có những đặc điểm riêng mà chúng ta phải quan tâm. * Những thành tựu và tồn tại Trong những năm qua vượt lên bao khó khắn , nông nghiệp nước ta đã đạt được bước tăng trưởng khá. Từ một nước thiếu đói thường xuyên vào đầu thập niên 80, ngày nay nước ta đã vươn lên trở thành nước xuất khẩu gạo thừ hai trên thế giới, giải quyết được vấn đề an ninh lương thực. Liên tục từ năm 1989 đến nay sản xuất nông nghiệp tăng trưởng khá cao , khoảng 4,3 % năm. Tất cả các lĩnh vực sản xuất lương thực thực phẩm,chăn nuôi,đánh bắt và nuôi trồng thuỷ hải sản,lâm nghiệp... đều đạt được bước tăng trưởng đáng kể. Năm 2000 tổng giá trị nông ,lâm, thuỷ sản nước ta đạt 107.914 tỷ đồng ,chiếm 24,4 % GDP. Tốc độ tăng trưởng đạt 4,9 % so với năm 1999 (kế hoạch 3,5-4 %). Sản lượng lương thực quy thóc đạt 35,7 triệu tấn. (3) Sự phát triển của nông nghiệp đã tạo ra một khối lượng hàng hoá xuất khẩu lớn thu về một lượng lớn ngoại tệ cho đất nước. Kim ngạch xuất khẩu hàng nông ,lâm , hải sản của nước ta liên tục tăng từ gần 1 tỷ USD năm 1998 lên 3,2 tỷ USD năm 1999. Năm 2000 măc dù một số mặt hàng nông sản găp khó khăn trong khâu tiêu thụ nhưng nhìn chung xuất khẩu nông sản của nước ta vẫn tăng mạnh ,đặc biệt thuỷ sản đạt 1,1 tỷ USD ,đóng góp một phần quan trọng vào thành tích 14 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu cả nước. Thị trường được mở rộng, hàng nông sản nước ta đã dần tạo lập được uy tín trên thị trường thế giới ,thâm nhập được vào cả những thị trường khó tính như EU, Nhật Bản... Những thành tựu trong nông nghiệp đã tạo điều kiện tăng thu nhập cho người nông dân. Đời sống dân cư nông thôn dần khấm khá lên tạo điều kiện cho công nghiệp ,dịch vụ nông thôn phát triển. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn diễn ra nhanh chóng theo hướng tiến bộ làm cho bộ mặt nông thôn thay đổi đáng kể. Cơ sở hạ tầng nông thôn ở nhiều vùng đã được cải thiện. Sau 10 năm đã tăng thêm năng lực tưới 1,4 triệu ha .Tỷ lệ xã có đường ô tô vào tận trung tâm tăng từ 86,5% năm 1994 lên 93% năm 1998, điện sinh hoạt từ 60,4% lên 70% ,điện thoại từ 10% (năm 1992) lên 78,9% ,xã có chợ từ 55% lên 60%, trạm xá từ 92% lên 98%, nguồn nước sạch từ 63% lên 68%. (4) Mặc dù đã có những chuyển biến tích cực trong nông nghiệp ,nông thôn trong những năm qua , nhưng có thể nhận thấy vẫn còn những khó khăn, tồn tại cũng như những bất cập hạn chế sự phát triển của nông nghiệp , và kinh tế nông thôn . Thứ nhất : Nền nông nghiệp nước ta còn khá lạc hậu, năng suất, chất lượng thấp, sản xuất manh mún , áp dụng khoa học công nghệ hiện đại rất hạn chế. Mặc dù năng suất lúa tăng 2% năm nhưng mới chỉ bằng 65% năng suất của Trung quốc, thấp hơn nhiều nước trong khu vực. Sự phân bố lao động ở nông thôn chưa hợp lý, số lao động thì đông nhưng công việc lại ít ,đặc biệt là lúc nông nhàn. Điều đó làm cho nhiều lao động nông thôn phải ra thành phố kiếm việc ,gây ra một vấn đề xã hội lớn buộc các nhà hoạch định chính sách phải quan tâm giải quyết. Thứ hai : Hệ thông cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn tuy có được cải thiện trong những năm vừa qua nhưng nhìn chung vẫn rất yếu kém. Hệ thống thuỷ lợi mới chỉ đáp ứng được khoảng 80% diện tích canh tác. Có hơn 600 xã chưa có đường giao thông (chủ yếu là ở miền núi, vùng xâu,vùng xa ). Hệ thống đường giao thông phần lớn đã cũ ,không được duy tu ,bảo dưỡng thường xuyên .Hệ thống điện ,nước sạch chưa đến được nhiều xã. Hệ thống dự báo và phòng chống thiên tai còn yếu. Môi trường sinh thái tiếp tục xấu đi. Thứ ba : Nhiều nguồn tiềm năng to lớn trong nông nghiệp, nông thôn chưa được khai thác có hiệu quả. Tiềm năng về đất đai, rừng biển nước ta rất phong phú tuy nhiên trong những năm qua chúng ta chưa khai thá các nguồn lực này một cách hiệu quả. Tiềm năng về vồn, tín dụng trong dân cư là rất lớn tuy nhiên chưa có chính sách phù hợp để khai thác. Thứ tư : khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa thành thị và nông thôn , giưa người giàu và người nghèo ở nông thôn ngày càng gia tăng. Dù đã đạt được những kết quả khả quan trong việc xoá đói ,giảm nghèo nhưng tỷ lệ hộ nghèo hiện nay vẫn chiếm khoảng 11%, chủ yếu là ở nông thôn. Thứ năm : Thách thức lớn đối với nền nông nghiệp và kinh tế nông thôn nước ta trong thời gian tới là quá trình hội nhập nền kinh tế nước ta với nền kinh tế khu vực và thế giới. Liệu hàng nông nghiệp Việt Nam có đảm bảo và cải thiện được chỗ đứng trên thị trường thế giới không khi mà nông nghiệp một số nước khác phát triển khá nhanh trong thời gian gần đây. Bước sang thế kỷ 21 nông nghiệp, nông thôn nước ta đứng trước những triển vọng to lớn để phát triển. Tuy nhiên chúng ta cũng đứng trước rất nhiều khó khăn ,thách thức buộc chúng ta phải tìm ra giải pháp khắc phục. 1.2 - Tính tất yếu của quá trình công nghiệp hoá. Trên thế giới đã từng tồn tại những quan điểm khác nhau trong việc phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn . Mỗi một quốc gia ,tuỳ thuộc vào đặc điểm , điều kiện của mình mà đề ra những chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp ,nông thôn phù hợp . Có thể thấy 3 xu hướng chủ đạo sau. Xu hướng thứ nhất là ưu tiên phát triển công nghiệp ,dịch vụ trước sau đó mới quay lại đầu tư vốn, công nghệ vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn. Xu hướng này xuất hiện trong thời kỳ công nghiệp hoá ở các nước phương tây thế kỷ 19. Tuy nhiên quan điểm này đã bị các nhà kinh tế trọng nông phê phán gay gắt. Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước công nghiệp phát triển đã đi theo xu hướng này trong quá trình phát triển kinh tế. Xu hướng thứ hai là coi trọng phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn coi đó là nền tảng cho phát triển kinh tế đất nước. Nông nghiệp phát triển sẽ tạo điều kiện về vốn cho công nghiệp hoá. Xu hướng này được các nhà kinh tế trọng nông ủng hộ và chúng ta có thể nhận thấy rõ xu hướng này trong chiến lược phát triển kinh tế của một số nước , tiêu biểu là Đài Loan. Xu hướng thứ ba cho rằng nên tồn tại song song cả hai lĩnh vực ,lĩnh vực công nghiệp hiện đại ở thành thị và lĩnh vực nông nghiệp cổ truyền ở nông thôn. Công nghiệp thành thị phát triển sẽ là cánh kéo giúp cho nông nghiệp ,nông thôn phát triển theo. Nhiều nước như Brasil, Mexico, Angeri...đã theo xu hướng này nhưng cuối cùng đã không đạt được kết quả như dự kiến ban đầu ,gây ra sự mất cân đối nghiêm trọng trong nền kinh tế, từ đó kéo theo những mâu thuẫn trong xã hội. Đối với nước ta nông nghiệp, nông thôn có những đặc điểm riêng như đã phân tích . Do đó cần có một chính sách phát triển sao cho phù hợp với những đặc điểm và điều kiện riêng đó. Để khắc phục sự yếu kém của hệ thống cơ sở hạ tầng, nâng cao năng suất,chất lượng, cũng như giải quyết những vấn đề kinh tế xã hội quan trọng khác thì việc tiến hành cnông nghiệp nông nghiệp, nông thôn là một hướng đi hết sức đúng đắn. Quá trình cnông nghiệp nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay là một tất yếu khách quan phù hợp với quy luật phát triển kinh tế cũng như điều kiện thực tế của nền kinh tế nước ta hiện nay. Thứ nhất: Quá trình cnông nghiệp sẽ tạo cho nông nghiệp ,nông thôn một khả năng phát triển mới. Xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại cho nông nghiệp, nông thôn . Tạo ra những tiền đề cho nông nghiệp,nông thôn phát triển mạnh,và bền vững. Thứ hai : Công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng hiện đại và hợp lý . Hướng nền kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá phù hợp với yêu cầu hội nhập và phát triển. Bên cạnh đó tạo điều kiện tăng thu nhập cho người dân, góp phần xoá đói giảm nghèo, hướng tới làm giàu. Công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn sẽ làm giảm bớt sự chênh lệch về mức sống của dân cư nông thôn và thành thị. Thứ ba : Công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn sẽ tạo ra công ăn việc làm cho lực lượng lao động nông thôn. Giải quyêt được những vấn đề xã hội phức tạp mà hầu hết các quốc gia phải đương đầu như hiện tượng di cư ra thành thị, vấn đề thất nghiệp ở nông thôn... Thứ tư : Quá trình công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn sẽ tạo ra những nguồn lực quan trọng cho quá trình phát triển kinh tế đất nước. Sự thành công của cnông nghiệp, nông nghiệp, nông thôn sẽ là tiền đề quan trọng đảm bảo cho quá trình cnông nghiệp, hiện đại hoá đất nước thành công. Cuối cùng phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở nước ta được xem như là một sự phát triển bền vững. Nó tạo ra được sự cân đối cho nền kinh tế. Thực tế kinh nghiệm các nước như Nhật Bản,Hàn Quốc, Brasil, Mexico...cho thấy việc quá chú trọng phát triển công nghiệp của họ đã tạo ra sự mất cân đối nghiêm trọng trong nền kinh tế, gây ra những mâu thuẫn xã hội gay gắt. 1.3 - Thực trạng công nghiệp hoá nông nghiệp ,nông thôn ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Công nghiệp hoá nông nghiệp,nông thôn là một bộ phận hợp thành của quá trình CNH, HĐH đất nước. Quan điểm về CNH nông nghiệp, nông thôn đã được thể hiện trong đường lối chính sách đổi mới của Đảng . Hội nghị trung ương lần thừ 5 BCH TW khoá VII xác định, có thể coi cnông nghiệp nông nghiệp ,nông thôn là một quá trình kinh tế xã hội mà nội dung là sự chuyển dịch cơ bản cơ cấu kinh tế nông thôn, trong đó công nghiệp và dịch vụ là những ngành kinh tế ngày càng chiếm vai trò quan trọng, chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong kinh tế nông thôn. Đại hội VIII một lần nữa khẳng định quan điểm của Đảng về cnông nghiệp, nông nghiệp, nông thôn ở nước ta.Từ quan điểm đó có thể thấy cnông nghiệp nông nghiệp, nông thôn ở nước ta có những nội dung chủ yếu sau. - CNH nông nghiệp, nông thôn là một bộ phận của quá trình CNH, HĐH đất nước, trong đó CNH nông nghiệp ,nông thôn phải đi trước một bước. Phát triển nông nghiệp, nông thôn toàn diện ,ổn định và bền vững, đưa nông nghiệp, nông thôn lên sản xuất hàng hoá lớn, lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm trọng tâm. Đảm bảo nông nghiệp, nông thôn đủ sức làm cơ sở cho sự ổn định tình hình kinh tế xã hội, làm tiền đề vững chắc cho quá trình CNH, HĐH đất nước. Xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn . Phát triển công nghiệp và dịch vụ nông thôn . Nội dung này bao gồm cả phát triển hệ thống hạ tầng dịch vụ nông thôn như các dịch vụ tài chính, ngân hàng... Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng hiện đại ,trong đó từng bước chuyển sản xuất nông nghiệp sang sản xuất theo hướng công nghiệp mang định hướng thị trường hơn. Khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn lực của nền kinh tế quốc dân. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn góp phần xoá đói giảm nghèo, khắc phục tình trạng bất bình đẳng giữa nông thôn và thành thị, đẩy mạnh quá trình đô thị hoá nông thôn, nâng cao trình độ, mức sống văn hoá tinh thần của dân cư nông thôn,giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc . Mặc dù nhà nước ta nhận thức được vấn đề cnông nghiệp, nông nghiệp, nông thôn và tiến hành quá trình đó khá muộn nhưng trong vài năm ngần đây đã có những chuyển biến tích cực. Chúng ta đã đạt được những kết quả khả quan. Sản lượng nông nghiệp liên tục tăng .Kim ngạch xuất khẩu hàng nông ,lâm ,ngư nghiệp tăng mạnh. Tuy nhiên chúng ta chủ yếu xuất khẩu nguyên liệu thô. Công nghệp chế biến chưa phát triển để đáp ứng được nhu cầu (hện nay mới chỉ có khoảng 60% nông sản được chế biến) . Phát triển công nghiệp chế biến nên là hướng ưu tiên trong những năm tới. Nhà nước đã triển khai một số chương trình kinh tế xã hội và đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Chương trình xoá đói giảm nghèo góp phần quan trọng giúp giảm tỷ lệ hộ đói nghèo từ 58% năm 1993 xuống 37% năm 1998, 17% năm 1999 và chỉ còn 11% năm 2000. Kết quả này có ý nghĩa to lớn và được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Bên cạnh đó chính phủ còn triển khai một số chương trình khác như định canh định cư, chương trình 327 phủ xanh đất trống đồi trọc, chương trình lương thực, chương trình 1 triệu tấn đường, chương trình nuôi trồng thuỷ sản và đánh cá xa bờ.... Tuy nhiên cũng còn nhiều hạn chế trong các chương trình đã tiến hành. Có nhiều bằng chứng cho thấy hiệu quả của vốn trong các chương trình đã thực hiện thấp. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản bị thất thoát nhiều. Chúng ta chưa xây dựng được một chiến lược trung và dài hạn cho việc phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Điều này đã làm cho những chính sách của chúng ta thiếu tính định hướng cũng như sự ổn định. Chính vì vậy xây dựng một chính sách tổng thể phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn phải là ưu tiên số một trong những năm tới. Chính phủ cần phải xác định được các ngành nghề, lĩnh vực cần ưu tiên đầu tư phát triển cũng như chính sách để huy động mọi nguồn lực cho cnông nghiệp, nông nghiệp, nông thôn. II .Chính sách huy động vốn cho công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn. 2.1 . Vốn và vai trò của yếu tố vốn. Để có thể tiến hành thành công CNH, HĐH đất nước thì quá trình tích tụ và tập trung tư bản là hết sức cần thiết. Quá trình này là một tất yếu khách quan mà tất cả các quốc gia đều phải tiến hành . Nói một cách khác đây là quá trình tích tụ ,tập trung vốn tạo ra những nguồn lực cho phát triển kinh tế. Có thể nói đây là bước đầu tiên không thể thiếu của mọi quá trình phát triển kinh tế. Vốn là yếu tố đầu vào của mọi quá trình sản xuất kinh doanh. Vai trò của vốn là rất quan trọng . Nó quyết định quy mô đầu vào và do đó tác động đến sản lượng, việc làm và thu nhập ...Nếu không có vốn thì mọi quá trình sản xuất, kinh doanh không thể diễn ra. Theo một nghĩa rộng thì vốn không chỉ đơn thuần là tiền mặt mà nó bao hàm tất cả các yếu tố vật chất và phi vật chất biểu hiện bằng tiền . Theo quan niệm này thì vốn chính là các nguồn lực tài chính, đất đai ,rừng, biển...mà chúng ta có thể khai thác và sử dụng. Khái niệm trên đã mở rộng quan niệm lâu nay của người dân nước ta coi vốn chỉ là các khoản tiền, vàng, ngoại tệ hiện hữu . Điều này cho thấy có rất nhiều con đường khác nhau để tiếp cận, khai thác và sử dụng các nguồn vốn phục vụ cho quá trình CNH nông nghiệp, nông thôn cũng như phát triển kinh tế đất nước. Đối với quá trình cnông nghiệp nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay vốn được xem như là một yêu cầu cấp thiết, là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Đảng và nhà nước ta nhận thức rõ vai trò cực kỳ quan trọng của yếu tố vốn. Nghị quyết 5 của BCH TW Đảng khoá VII khẳng định “ Vấn đề vốn và dịch vụ tài chính là một trong những động lực chủ yếu để phát triển nông nghiệp và nông thôn trong giai đoạn mới ”. Do những đặc điểm riêng của nông nghiệp và nông thôn nước ta nên yếu tố vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn ở nước ta có những đặc điểm riêng. Có thể thấy một số đặc điểm nổi bật sau. Vốn đầu tư vào khu vực nông nghiệp, nông thôn gặp rủi ro rất lớn : Hoạt động sản xuất nông nghiệp ở nước ta gặp rất nhiều rủi ro như thiên tai, dịch bệnh, khả năng dự báo và phòng chống thiên tai lại thấp . Chính vì vậy việc mất khả năng trả nợ của nông dân thường diễn ra , một phần cũng do những rủi ro bất khả kháng. Đặc điểm này cho thấy vai trò quan trọng của chính phủ trong việc hỗ trợ tín dụng để đảm bảo và khuyến khích mọi thành phần kinh tế bỏ vốn đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Chi phí cho việc quản lý vốn đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn lớn: Nền kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở nước ta chủ yếu quy mô nhỏ , sản xuất manh mún ,địa bàn hoạt động rộng khắp trên cả nước. Điều đó làm cho chi phí để huy động và quản lý nguồn vốn cho vay là rất lớn, do đó các NHTM và các TCTD ngại không muốn đầu tư vào khu vực này, hạn chế khả năng huy động vốn cho nông nghiệp, nông thôn. Chu kỳ vốn rất đa dạng và mang tính mùa vụ : Chúng ta biết rằng hoạt động sản xuất nông nghiệp mang tính mùa vụ rất cao do đó vốn đầu tư vào lĩnh vực này cũng phải theo chu kỳ của cây trồng vật nuôi. Chu kỳ sản xuất của các loại cây trồng vật nuôi rất khác nhau, thêm vào đó sự đa dạng trong sản xuất nông nghiệp làm cho chu kỳ vốn của nông nghiệp và kinh tế nông thôn nước ta rất đa dạng . Chu kỳ vốn cũng phải linh hoạt thay đổi cho phù hợp với đặc điểm của nền nông nghiệp nước ta. Trong giai đoạn hiện nay nhu cầu vốn cho xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp,nông thôn yêu cầu nhiều vốn trung và dài hạn. Các đường dẫn vốn cho nông nghiệp, nông thôn bao gồm: Ngân sách nhà nước nguồn vốn đầu tư quan trọng vào nông nghiệp, nông thôn : Vốn ngân sách được sử dụng để xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng thuỷ lợi, đường giao thông nông thôn... Vốn ngân sách cũng là nguồn vốn chủ yếu để triển khai các chương trình kinh tế xã hội quan trọng như chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng, hay mới đây là chương trình 135 của chính
Luận văn liên quan