Đề án Thực trạng về những nhân tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta: Những yếu kém và giải pháp khắc phục

Kinh tế thị trường (KTTT) là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ phát triển nhất định của văn minh nhân loại. Từ trước tới nay nó tồn tại và phát triển chủ yếu dưới chủ nghĩa tư bản (CNTB), là nhân tố quyết định sự tồn taị và phát triển của CNTB. CNTB đã biết lợi dụng tối đa ưu thế của kinh tế thị trường để phục vụ cho mục đích phát triển tiềm năng kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận. Ngày nay, kinh tế thị trường TBCN đã đạt đến giai đoạn phát triển khá cao và phồn thịnh trong các nước tư bản phát triển. Vậy tại sao ở Việt Nam chúng ta lại không xây dựng một nên kinh tế thị trường TBCN mà lại đi theo con đường phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN? Thực tế đã chứng minh kinh tế thị trường TBCN không phải là vạn năng. Bên cạnh mặt tích cực nó còn có mặt trái, có khuyết tật từ trong bản chất do chế độ sở hữu tư nhân TBCN chi phối. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất (LLSX), mâu thuẫn của CNTB càng bộc lộ sâu sắc, không giải quyết được các vấn đề xã hội (XH) làm tăng thêm tính bất công và bất ổn của xã hội, đào sâu thêm hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo, làm tăng thêm mâu thuẫn giữa các nước giầu và nước nghèo. Việt Nam – một đất nước vừa bước qua hai cuộc chiến tranh tàn khốc, cơ sở vật chất bị tàn phá nặng nề cộng với diểm xuất phát là một nước nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu con đường mà chúng ta lựa chọn là con đường quá độ lên XHCN bỏ qua giai đoạn TBCN. Bởi nếu chúng ta tiến theo con đường TBCN cũng chính là chúng ta quay lại với chính cái chúng ta đã xoá bỏ. Và chỉ có xã hội XHCN mới đem lại cho toàn dân tộc sự ấm lo, hạnh phúc. Nhưng với điểm xuất phát thấp chúng ta gặp rất nhiều khó khăn trên con đường tiến tớiỗĩa hội XHCN. Nhận thức đúng đắn vấn đề này, Đảng và nhà nước ta đang ra sức xây dưng một nền tảng cơ sở vật chât vững mạnh cho CNXH, hoà nhập cùng với xu thé của nhân loại. Chúng ta quyết định xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thực chất đây là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nuớc theo định hướng XHCN. Việt Nam luôn là miếng mồi ngon đối với các nước đế quốc, xung quanh chúng ta luôn có những thế lực thù địch đe doạ chống phá nền móng XHCN. Vì vậy một mặt gia sức phát triển kinh tế mặt khác phải luôn giữ vững lập trường XHCN.

doc30 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2064 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng về những nhân tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta: Những yếu kém và giải pháp khắc phục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. LỜI NÓI ĐẦU Kinh tế thị trường (KTTT) là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ phát triển nhất định của văn minh nhân loại. Từ trước tới nay nó tồn tại và phát triển chủ yếu dưới chủ nghĩa tư bản (CNTB), là nhân tố quyết định sự tồn taị và phát triển của CNTB. CNTB đã biết lợi dụng tối đa ưu thế của kinh tế thị trường để phục vụ cho mục đích phát triển tiềm năng kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận. Ngày nay, kinh tế thị trường TBCN đã đạt đến giai đoạn phát triển khá cao và phồn thịnh trong các nước tư bản phát triển. Vậy tại sao ở Việt Nam chúng ta lại không xây dựng một nên kinh tế thị trường TBCN mà lại đi theo con đường phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN? Thực tế đã chứng minh kinh tế thị trường TBCN không phải là vạn năng. Bên cạnh mặt tích cực nó còn có mặt trái, có khuyết tật từ trong bản chất do chế độ sở hữu tư nhân TBCN chi phối. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất (LLSX), mâu thuẫn của CNTB càng bộc lộ sâu sắc, không giải quyết được các vấn đề xã hội (XH) làm tăng thêm tính bất công và bất ổn của xã hội, đào sâu thêm hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo, làm tăng thêm mâu thuẫn giữa các nước giầu và nước nghèo. Việt Nam – một đất nước vừa bước qua hai cuộc chiến tranh tàn khốc, cơ sở vật chất bị tàn phá nặng nề cộng với diểm xuất phát là một nước nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu con đường mà chúng ta lựa chọn là con đường quá độ lên XHCN bỏ qua giai đoạn TBCN. Bởi nếu chúng ta tiến theo con đường TBCN cũng chính là chúng ta quay lại với chính cái chúng ta đã xoá bỏ. Và chỉ có xã hội XHCN mới đem lại cho toàn dân tộc sự ấm lo, hạnh phúc. Nhưng với điểm xuất phát thấp chúng ta gặp rất nhiều khó khăn trên con đường tiến tớiỗĩa hội XHCN. Nhận thức đúng đắn vấn đề này, Đảng và nhà nước ta đang ra sức xây dưng một nền tảng cơ sở vật chât vững mạnh cho CNXH, hoà nhập cùng với xu thé của nhân loại. Chúng ta quyết định xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thực chất đây là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nuớc theo định hướng XHCN. Việt Nam luôn là miếng mồi ngon đối với các nước đế quốc, xung quanh chúng ta luôn có những thế lực thù địch đe doạ chống phá nền móng XHCN. Vì vậy một mặt gia sức phát triển kinh tế mặt khác phải luôn giữ vững lập trường XHCN. Vậy những nhân tố nào đảm bảo giữ vững định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Đó là Đảng cộng sản (ĐCS), là thành phần kinh tế nhà nước… cộng với sự đoàn kết hợp tác của toàn dân. Tất cả những yếu tố đó sẽ đưa Việt Nam hoàn tất con đường quá độ tiến tới một xã hội ấm no đầy đủ như chính chúng ta mong muốn. B. NỘI DUNG I. Tính tất yếu về nhân tố đảm bảo tính định hướng XHCN. Tại đại hội IX của ĐCS (tháng 4/2001) đã đưa ra khái niệm “Kinh tế thị trường định hướng XHCN”. Đại hội khẳng định: “Phát triển Kinh tế thị trường định hướng XHCN là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam”(1). Đây là kết quả sau những năm tháng tìm tòi tổng kết thực tiễn và là bước phát triển mới về tư duy lý luận của ĐCS Việt Nam. 1. Khái quát về kinh tế thị trường ở Việt Nam. Nói đến kinh tế thị trường định hướng XHCN có nghĩa là nền kinh tế của chúng ta không phải là kinh tế bao cấp quản lý theo kiểu tập trung quan liêu bao cấp như trước đây, nhưng đó cũng không phải là nền kinh tế thị trường tự do theo cách của các nước tư bản, tức là không phải kinh tế thị trường TBCN và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường XHCN. Bởi vì chúng ta đang ở trong giai đoạn quá độ lên CNXH, còn có sự đan xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, vừa có, vừa chưa có đầy đủ yếu tố XHCN. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam một mặt vừa có những tính chất chung của nền kinh tế thị trường. Một là: các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự quyết trong sản xuất, kinh doanh. Hai là: giá cả do thị trường quyết định, hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ và nó có tác dụng làm cơ sở cho việc phân phối các nguồn lực kinh tế vào trong các ngành, các lĩnh vực của nên kinh tế. Ba là: nền kinh tế vận động theo những quy luật vốn có của kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung -cầu, quy luật cạnh tranh… sự tác động của các quy luật đó hình thành cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế. Bốn là: nếu là nền kinh tế thị trường hiện đại thì còn có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước thông qua pháp luật kinh tế, kế hoạch hoá, các chính sách kinh tế…. Mặt khác, kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam dựa trên cơ sở và được dẫn dắt chi phối bởi nguyên tắc và bản chất của CNXH. Do đó kinh tế thị trường định hướng XHCN có những đặc trưng bản chất dưới đây: (1) Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội,2001, trang 88. a. Về mục tiêu phát triển kinh tế thị trường. Mục tiêu hàng đầu của phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là giải phóng sức sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để thực hiện công nghiệp hoá (CNH), hiện đại hoá (HĐH), xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, nâng cao tính hiệu quả kinh tế- xã hội, cải thiện từng bước đời sống của nhân dân. Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới tiến bộ và công bằng, khuyến khich làm giàu hợp pháp gắn liền với xoá đói giảm nghèo. b. Nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Trong nền kinh tế nước ta tồn tại ba loại hình sở hữu cơ bản là: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân (gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ và sở hữu tư nhân tư bản). Từ ba loại hình sở hữu cơ bản đó hinh thành nhiều thành phần kinh tế, nhiều tổ chức sản xuất kinh doanh. Các thành phần kinh tế đó là: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tể cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, tư bản nhà nước, kinh tế có vốn của nước ngoài, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế đó tồn tại một cách khách quan và là những bộ phận cần thiết của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Vì vậy phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần là một tất yếu đối với nước ta. Chỉ có như vậy chúng ta mới khai thác được mọi nguồn lực kinh tế, nâng cao hiệu quả kinh tế, phát huy được tiềm năng của các thành phần kinh tế vào sự phát triển chung của kinh tế đất nước nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân. Do đó không chỉ củng cố và phát triển các thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu (là thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể) mà còn phải khuyến khích các thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư hữu để hình thành nên nền kinh tế thị trường rộng lớn bao gồm các đơn vị kinh tế thuộc chế độ tư hữu, công hữu các hình thức hợp tác liên doanh trong nước và ngoài nước… Các đơn vị kinh tế thuộc mọi thành phần đều bình đẳng với nhau trước pháp luật, vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau để cùng phát triển. Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần ở nước ta, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, việc xác lập vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là vấn đề có tính nguyên tắc và là sự khác biệt có tính chất bản chất của kinh tế thị trường định hướng XHCN với kinh tế thị trường TBCN. Tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở nước ta đã quy định kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Bởi lẽ mỗi xã hội đều có cơ cấu kinh tế tương ứng với nó, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới - XHCN ở nước ta. Mỗi thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH có bản chất kinh tế- xã hội riêng, chịu sự tác động của các quy luật kinh tế riêng, nên bên cạnh sự thống nhất của các thành phần kinh tế, còn có sự khác biệt và những mâu thuẫn khiến cho nền kinh tế thị trường ở nước ta có khả năng phát triển theo những phương hướng khác nhau. Chẳng hạn như các thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư hữu tuy có vai trò quan trọng trong việc phát triển sản xuất giải quyết việc làm nhưng vì dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, nên chúng không tránh khỏi tính tự phát chạy theo lợi nhuận đơn thuần nảy sinh những hiện tượng tiêu cực làm tổn hại lợi ích chung của xã hội. Vì vậy kinh tế nhà nước phải được xây dựng và phát triển có hiệu quả để thực hiện tốt vai trò chủ đạo của mình đồng thời nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản lý vĩ mô kinh tế – xã hội để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN. c. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập, trong đó lấy phân phối theo lao động là chủ yếu. Mỗi chế độ xã hội có chế độ phân phối tương ứng với nó. Chế độ phân phối do quan hệ sản xuất thống trị trước hết là quan hệ sở hữu quyết định…. Quan hệ phân phối, các hình thức thu nhập là hình thức thể hiện về mặt kinh tế của quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (LLSX). Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhiều chế độ sở hữu cùng tồn tại: sở hữu toàn dân, tập thể, cá nhân và các hình thức sở hữu do kết quả của sự xâm nhập giữa chúng. Mỗi chế độ sở hữu có nguyên tắc phân phối tương ứng với nó, vì thế trong thời kỳ quá độ tồn tại cơ cấu đa dạng về hình thức phân phối thu nhập sau đây: phân phối theo lao động, phân phối theo vốn hoặc tài sản đóng góp, phân phối theo giá trị sức lao động, phân phối thông qua các quỹ phúc lợi tập thể và xã hội. Về nguyên tắc phân phối, đại hội IX của Đảng đã khẳng định: "Kinh tế thị trường định hướng XHCN thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào trong sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội “(1). Việc khẳng định nguyên tắc phân phối này rõ ràng là kết quả của sự kế thừa bổ xung và phát triển những nguyên tắc đã được lần lượt đề ra qua các đại hội VI, VII, VIII của Đảng trước đó. Có thể xem đây là nguyên tắc phân phối phù hợp với thực tế của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Nước ta xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, chúng ta lấy kinh tế thị trường là phương tiện để đạt được mục tiêu cơ bản xây dựng XHCN, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, dân chủ, con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột có cuộc sống ấm lo hạnh phúc có điều kiện phát triển toàn diện. Vì vậy, mỗi bước tăng trưởng kinh tế ở nước ta phải gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội. Việc phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu đó. d. Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước XHCN. Tại đại hội VII của Đảng đã xác định: "Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN”(3). Và được đại hội IX phát triển thành chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng vận động theo yêu cầu của những quy luật vốn có của kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, cạnh tranh… giá cả do thị trường quyết định, thị trường có vai trò quyết định đối với việc phân phối các nguồn lực kinh tế vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Trong điều kiện hiện nay, hầu hết tất cả các nền kinh tế của các nước trên thế giới đều có sự quản lý của nhà nước để sửa chữa một mức độ nào đó “những thất bại của thị trường”. Tức là cơ chế vận hành nền kinh tế của tất cả các nước đều là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Nhưng điều khác biệt trong cơ chế vận hành nền kinh tế của nước ta là ở chỗ nhà nước quản lý nền kinh tế không phải là nhà nước tư bản mà là nhà nước (1) Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội, 2001,trang 86. XHCN của dân, do dân và vì dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Sự quản lý của nhà nước XHCN nhằm "sửa chữa những thất bại" của thị trường thực hiện các mục tiêu xã hội nhân đạo mà bản thân cơ chế thị trường không thể làm được đảm bảo cho nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng XHCN. Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN theo nguyên tắc kế hoạch với thị trường. Thị trường là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế, nó tồn tại khách quan tự vân động theo những quy luật vốn có của nó. Còn kế hoạch hoá là hình thức thể hiện của tính kế hoạch, nó là sản phẩm chủ quan của chủ thể quản lý. Kế hoạch và cơ chế thị trường là hai phương tiện khác nhau để phát triển và điều tiết nền kinh. Kế hoạch là sự điều chỉnh có ý thức của chủ thể quản lý đối với nền kinh tế còn cơ chế thị trường sự tự điều tiết của bản thân nền kinh tế. Kế hoạch và thị trường cần được kết hợp với nhau trong cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Kế hoạch có ưu điểm là tập trung được các nguồn lực cho mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội đảm bảo cân bằng tổng thể, gắn mục tiêu phát triển kinh tế với phát triển xã hội ngay từ đầu. Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, kế hoạch hoá khó bao quát được hết tất cả các yêu cầu đa dạng và luôn biến đổi của đời sống kinh tế đồng thời sự điều chỉnh của kế hoạch không được nhanh nhậy. Trong khi sự điều tiết của cơ chế thị trường lại nhanh nhậy, nó kích thích tính năng động sáng tạo của các chủ thể kinh tế đáp ứng nhu cầu đa dạng của đời sống văn hoá. Song khuyết điểm cơ bản của cơ chế thị trường là tính tự phát nên có thể đưa đến sự mất cân đối gây tổn hại cho nền kinh tế. Vì thế cần có sự kết hợp kế hoạch với thị trường trong cơ chế vận hành nền kinh tế. Thị trường là căn cứ để kiểm tra các kế hoạch phát triển kinh tế. Những mục tiêu và biện pháp mà kế hoạch đưa ra muốn được thực hiện có hiệu quả phải xuất phát từ yêu cầu của thị trường. Mặt khác, muốn cho thị trường hoạt động phù hợp với định hướng XHCN thì nó phải được hướng dẫn và điều tiết bởi kế hoạch. Sự kết hợp kế hoạch với thị trường được thể hiện ở cả tầm vi mô lẫn vĩ mô. Ở tầm vi mô thị trường là căn cứ xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh. Thông qua sự biến động của quan hệ cung- cầu và giá cả thị trường, các doanh nghiệp lựa chọn được phương án sản xuất, sản xuất ra sản phẩm gì? sản xuất cái gì và cho ai? Cũng nhờ đó mà các doanh nghiệp lựa chon được cơ cấu sản xuất cơ cấu đầu tư cho mình. Ở tâm vĩ mô, mặc dù thị trường không phải là căn cứ duy nhất có tính quyết định nhưng kế hoạch nhà nước cũng không thể thoát ly được tình hình bất động của thị trường. Thoát ly thị trường kế hoạch hoá vĩ mô trở thành duy ý chí. Kế hoạch hoá vĩ mô nhằm đảm bảo cân đối lớn tổng thể của kinh tế như tổng cung tổng cầu sản xuất- tiêu dùng, hàng hoa- tiền tệ. Kế hoạch hoá vĩ mô có thể tác động đến cung cầu để uốn nắn những lệch lạc của sự phát triển do sự tác động tự phát của thị trường gây ra thông qua đó mà hướng hoạt động của thị trường theo hướng của kế hoạch. 2. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng là nền kinh tế mở, hội nhập. “Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta không chỉ khác kiểu với nền kinh tế thị trường TBCN thế giới mà còn khác về trình độ phát triển, nền kinh tế thị trường nước ta còn sơ khai, giản đơn, trong khi nền kinh tế thị trường thế giới đã ở trình độ phát triển cao, hiện đại”(1). Do có sự tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật- công nghệ đang diễn ra quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự phát triển của mỗi quốc gia trong sự phụ thuộc lẫn nhau. Vì vậy, mở cửa kinh tế hội nhập vào kinh tế thế giới là yếu tố tất yếu đối với nước ta. Chỉ có như vậy mới thu hút được vốn, khoa học công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước để khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta nhằm phát huy nội lực tranh thủ ngoại lực để xây dựng và phát triển kinh tế thị trường hiện đại theo kiểu rút ngắn. Chúng ta cần nhanh chóng hội nhập nền kinh tế thị trường nước ta vào nền kinh tế thị trường thế giới bởi vì càng hội nhập nhanh chóng bao nhiêu thì chúng ta càng sớm có chủ nghĩa xã hội bấy nhiêu. Thực hiện mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá và đa dạng hoá các hình thức đối ngoại, gắn tư tưởng trong nước với tư tưởng khu vực và thế giới, thực hiện những thông lệ trong quan hệ quốc tế nhưng vẫn giữ được độc lập, tự chủ và bảo vệ được lợi ích quốc gia, độc lập trong quan hệ kinh tế đối ngoại. (1) Tạp chí cộng sản số 20 (tháng 10 năm 2004) – trang 28 Trong thời gian tới cần tiếp tục mở rộng đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại có bước đi thích hợp hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới, phải đẩy mạnh xuất khẩu coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại, chủ động và tích cực thâm nhập thị trường thế giới chú trọng htị trường các trung tâm kinh tế thế giới, mở rộng thị phần trên các thị trường quên thuộc, tranh thủ mọi cơ hội để mở ra các thị trường mới cải thiện môi trường đầu tư và bằng nhiều hình thức thu hút vốn đầu tư của nước ngoài. 3. Phân biệt kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta với kinh tế thị trường TBCN. Từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay là một bước tiến dài trên con đường nhận thức về mô hình kinh tế mà Việt Nam hướng tới- mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nếu cách đây 16 năm trên bình diện lý luận về mô hình kinh tế vẫn còn phân biệt giữa kế hoạch là đăc trưng só một và quan hệ thị trường là đặc trưng số hai của cơ chế kinh tế mới thì hiện nay tư tưởng nhất quán là xây dựng nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Sự thành công về kinh tế của 16 năm qua cũng làm dịu đi những phản ứng của một số nhà lý luận kinh tế phương Tây về định hướng XHCN mà Việt Nam lựa chọn. Vậy giữa mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN mà Việt Nam lựa chọn có gì khác các mô hình kinh tế thị trường phổ biến trên thế giới hiện nay. Trước hết, về mặt lý luận chúng ta thừa nhận rằng hàng hoá, thị trường phải gắn liền với các phạm trù cung- cầu, giá cả, giá trị lợi nhuận, cạnh tranh… phản ánh các mối quan hệ chung của cơ chế thị trưòng, phản ánh tổng thể các quan hệ giữa con người với con người phát sinh trong quá trình sản xuất - phân phối - trao đổi và tiêu dùng. Hàng hoá là hàng hoá, giá cả là giá cả… chúng không nói lên đặc trưng gì về chính trị xã hội. Mặt khác chúng ta lại thấy rằng các thuật ngữ và pham trù trên đây luôn tồn tại gắn liền với một nền kinh tế hiện thực của mỗi dân tộc trên một vùng lãnh thổ cụ thể. Vì mỗi nước khác nhau có trình độ kinh tế, kết cấu xã hội, phong tục tập quán khác nhau nên cũng có mô hình kinh tế khác nhau, vừa phản ánh các quan hệ chung bản chất, vừa phản ánh các quan hệ đặc thù trong từng phương thức sản xuất và sự phát triển của các quan hệ kinh tế quốc tế. Tóm lại, không có một mô hình thị trường nào là bản sao của mô hình kinh tế thị trường khác và trong chừng mực nhất định khi nền kinh tế được điều khiển đến các mục tiêu mong muốn như: tăng trưởng bền vững, cân bằng và hiệu quả XHCN… Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt nam vừa mang những cái phổ biến của mô hình thị trường nói chung và các đặc thù của mô hình trong kinh tế thị trường định hướng XHCN nói riêng sau đây: Thứ nhất, nền kinh tế chịu tác động hàng ngày hàng giờ của các quy luật kinh tế khách quan như: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh… chứ không phải là những quy luật mang tính hình thức như trong mô hình kinh tế cũ. Thứ hai, cơ chế thị trường là cơ chế kinh tế tất yếu vì chỉ thông qua cơ chế thị trường mới liên kết được các nhà sản xuất riêng lẻ vào hoạt động kinh tế của quốc gia, cạnh tranh là yếu tố tất yếu để tồn tại của doanh nghiệp. Thứ ba, mỗi đơn vị kinh doanh là một chủ thể tự do, tự chủ kinh doanh theo pháp luật. Thứ tư, kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng trong việc làm sống động thị trường. Thư năm, trong nền kinh tế thị trường tiền tệ đóng vai trò quan trọng. Đồng tiền được phát huy đầy đủ các chức năng của mình (chức năng lưu thông, thước đo giá trị, phương tiện cất giữ, phương tiện thanh toán, tiền tệ thế giới) đồng tiền quốc gia từng bước hoà nhập vào đồng tiền thế giới. Thứ sáu, thị trường bao gồm thị trường hàng hoá dịch vụ và thị trường các yếu tố sản
Luận văn liên quan