Đề án Tình hình thực hiện Bảo Hiểm YT cho người nghèo ở Việt Nam hiện nay

Bảo hiểm y tế toàn dân là chủ trương đúng đắn của Đảng và nhà nước, việc tổ chức và triển khai tốt BHYT sẽ làm tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế cho tất cả các thành viên trong cộng đồng, tuy nhiên để tiến tới BHYT toàn dân không phải là một việc đơn giản. Bởi vì thu nhập của người dân còn thấp, lại chưa có thói quen dự phòng rủi ro, mặt khác ngân sách nhà nước có hạn, việc huy động người dân tham gia chương trình BHYT toàn dân ngay trong một vài năm tới rất khó khăn do đó cần phải có một lộ trình thích hợp. Kinh tế phát triển làm khoảng cách giàu nghèo càng gia tăng, dẫn tới tình trạng thiếu công bằng trong chăm sóc sức khoẻ cho người dân, đề góp phần khắc phục tình trạng đó nhà nuớc ta đã có nhiều hình thức khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo và đã được áp dụng ở nhiều địa phương. Hình thức phát thẻ BHYT cho người nghèo là hình thức có nhiều ưu điểm nhất. Tuy nhiên hiện nay có một số lượng lớn người nghèo chưa được nhà nuớc mua BHYT, do đó khi đi KCB phải đóng viện phí, các chi phí liên quan… gặp rất nhiều khó. Với thực trạng như vậy em chọn đề tài “Tình hình thực hiện BHYT cho người nghèo ở Việt Nam hiện nay ”, để tìm hiểu rõ hơn về thực trạng KCB cho người nghèo và từ đó nêu ra một số kiến nghị góp phần giúp người nghèo có khả năng tiếp cận với các dịch vụ y tế hiệu quả hơn. Nội dung đề tài gồm: 1. Giới thiệu chung về BHYT 2. Khái quát về BHYT ở Việt Nam 3. Tình hình thực hiện BHYT cho người nghèo ở Việt Nam 4. Kiến nghị để thực hiện BHYT cho người nghèo hiệu quả hơn.

doc27 trang | Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 4478 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Tình hình thực hiện Bảo Hiểm YT cho người nghèo ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Bảo hiểm y tế toàn dân là chủ trương đúng đắn của Đảng và nhà nước, việc tổ chức và triển khai tốt BHYT sẽ làm tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế cho tất cả các thành viên trong cộng đồng, tuy nhiên để tiến tới BHYT toàn dân không phải là một việc đơn giản. Bởi vì thu nhập của người dân còn thấp, lại chưa có thói quen dự phòng rủi ro, mặt khác ngân sách nhà nước có hạn, việc huy động người dân tham gia chương trình BHYT toàn dân ngay trong một vài năm tới rất khó khăn do đó cần phải có một lộ trình thích hợp. Kinh tế phát triển làm khoảng cách giàu nghèo càng gia tăng, dẫn tới tình trạng thiếu công bằng trong chăm sóc sức khoẻ cho người dân, đề góp phần khắc phục tình trạng đó nhà nuớc ta đã có nhiều hình thức khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo và đã được áp dụng ở nhiều địa phương. Hình thức phát thẻ BHYT cho người nghèo là hình thức có nhiều ưu điểm nhất. Tuy nhiên hiện nay có một số lượng lớn người nghèo chưa được nhà nuớc mua BHYT, do đó khi đi KCB phải đóng viện phí, các chi phí liên quan… gặp rất nhiều khó. Với thực trạng như vậy em chọn đề tài “Tình hình thực hiện BHYT cho người nghèo ở Việt Nam hiện nay ”, để tìm hiểu rõ hơn về thực trạng KCB cho người nghèo và từ đó nêu ra một số kiến nghị góp phần giúp người nghèo có khả năng tiếp cận với các dịch vụ y tế hiệu quả hơn. Nội dung đề tài gồm: 1. Giới thiệu chung về BHYT 2. Khái quát về BHYT ở Việt Nam 3. Tình hình thực hiện BHYT cho người nghèo ở Việt Nam 4. Kiến nghị để thực hiện BHYT cho người nghèo hiệu quả hơn. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thị Chính đã giúp đỡ em trong quá trình thực hiện đề tài. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng chắc chắn sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết. Rất mong có sự đóng góp, trao đổi của thầy cô và các bạn để để tài hoàn thiện hơn. 1. Giới thiệu chung về Bảo hiểm y tế (BHYT) 1.1 Sự cần thiết và tác dụng của BHYT Sự cần thiết của BHYT Trong cuộc sống cái gì là quí nhất? Đó chính là sức khỏe, có sức khỏe là có tất cả, sức khỏe tốt con người mới có thể sống tốt, làm việc xây dựng cuộc sống cho mình và cống hiến cho gia đình và xã hội. Tuy nhiên, trong đời sống những rủi ro bất ngờ về sức khỏe như ốm đau bệnh tật luôn có thể xảy ra, tác động lớn đến cuộc sống con người rất nhiều về cả tinh thần và vật chất. Đau ốm đã làm cho thu nhập của cá nhân và gia đình giảm đáng kể, gây khó khăn trong sinh hoạt. Để khắc phục những khó khăn về tài chính mà những rủi ro về sức khỏe gây nên, con người đã sử dụng những biện pháp như dự phòng tích lũy, bán tài sản, kêu gọi sự giúp đỡ của người thân... Nhưng những biện pháp này không thể kéo dài và ổn định. Do đó BHYT ra đời – Là công cụ đối phó với hậu quả của các rủi ro về sức khỏe gây ra, giúp đỡ người lao động và gia đình ổn định đời sống đảm bảo an toàn xã hội. Thực tế đã chứng minh sự ra đời và phát triển BHYT trong đời sống xã hội là một tất yếu khách quan. 1.1.2 Tác dụng của BHYT Ngày nay cuộc sống phát triển, nhu cầu bảo vệ sức khỏe càng cao, điều kiện nền kinh tế thị trường không cho phép nhà nước bao cấp chi phí khám chữa bệnh, như vậy BHYT ra đời có một tác dụng to lớn cho người tham gia BH la góp phần ổn định tài chính trước những tổn thất do rủi ro gây ra. Thực chất của hoạt động BHYT hiện nay là quá trình phân phối lại tài chính của những người tham gia khi không may gặp rủi ro bệnh tật. Phân phối trong BHYT là phân phối không đồng đều, không bằng nhau tức là không phải ai tham gia cũng được hưởng với số tiền bằng nhau ma phụ thuộc vào tình trạng bệnh tật, phân phối BHYT không mang tính bồi hoàn tức là dù có tham gia đóng nhưng không ốm đau thì không được hưởng. Đặc biệt là hoạt động BHYT còn gắn kết được các thành viên trong làng xã, trong xã hội cùng vì lợi ích của từng thành viên và cộng đồng, vì sự phồn vinh của đất nước, thể hiện tính tương trợ, tính xã hội và tính nhân văn sâu sắc của chính sách BHYT trước rủi ro của mỗi thành viên. Như vậy BHYT ra đời góp phần thực hiện công bằng trong khám chữa bệnh và điều trị; giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước, mà còn nâng cao tính cộng đồng, gắn bó mọi thành viên trong xã hội. Nếu thực hiện tốt, BHYT sẽ góp huy tối đa quy luật số đông bù số ít trong hoạt động BH. 1.2 Đối tượng và phạm vi BHYT Để thực hiện BHYT đúng với mục đích và thể hiện rõ tính nhân văn của BHYT, cần phải xác định đúng đối tượng và phạm vi trách nhiệm của BHYT. 1.2.1 Đối tượng BHYT BHYT nói riêng cũng như bảo hiểm sức khỏe nói chung là dịch vụ bảo hiểm rất phổ biến trên thế giới và được đông đảo mọi người tham gia. Bất kỳ ai có nhu cầu bảo hiểm sức khỏe đều có thể tham gia. Như vậy đối tượng tham gia BHYT là mọi người dân có nhu cầu bảo hiểm cho sức khỏe của mình hoặc cũng có thể là một người đại diện cho tập thể, một cơ quan, tổ chức… đứng ra kí kết hợp đồng BHYT cho tập thể đơn vị, cơ quan. BHYT có hai nhóm đối tượng tham gia đó là bắt buộc và tự nguyện. HÌnh thức bắt buộc áp dụng cho các đối tượng là người lao động hưởng lương, còn hình thức tư nguyện áp dụng cho tất cả thành viên trong xã hội có nhu cầu. Hoạt động y tế thường bao gồm: Phòng bệnh, chữa bệnh và phục hồi chức năng. Nhưng đối tượng của BHYT đều là sức khỏe của người được bảo hiểm , tức là người đuợc bảo hiểm gặp các rủi ro vể sức khỏe thì sẽ được các cơ quan BHYT xem xét bồi thường. 1.2.2 Phạm vi BHYT BHYT là một chính sách xã hội do nhà nước tổ chức, thực hiện nhằm huy động đóng góp của các cá nhân, tập thể để thanh toán chi phí y tế cho người tham gia bảo hiểm. Vì hoạt động trên nguyên tắc cân bằng thu chi nên tuy mọi người trong xã hội đều có quyền tham gia BHYT nhưng thực tế BHYT không chấp nhận bảo hiểm cho những người mắc bệnh nan y nếu không có thỏa thuận gì thêm. Những người đã tham gia BHYT khi gặp rủi ro về sức khỏe (như bị ốm đau, bệnh tật…) đều được thanh toán chi phí khám chữa bệnh với nhiều mức độ khác nhau tại các cở sở y tế. Tuy nhiên trong các trường hợp cố tình tự hủy hoại bản thân, vi phạm pháp luật hoặc một số trường hợp loại trừ theo quy định của pháp luật BHYT thì không được BHYT chịu trách nhiệm. Hoạt động BHYT có hai hình thức bắt buộc và tự nguyện nên có thể có các quy định khác nhau về phạm vi BHYT cho hai nhóm đối tượng này, thông thường phạm vi BHYT của nhóm tự nguyện linh hoạt hơn nhóm bắt buộc, do họ được quyền lựa chọn phạm vi BHYT theo nhu cầu. Hình thức và phương thức BHYT BHYT là một trong chín chế độ BHXH- một chính sách xã hội do đó phụ thuộc vào điều kiện phát triển kinh tế xã hội của đất nước, mà nhà nước đó có thể có các hình thức và phương thức thực hiên BHYT khác nhau. 1.3.1 Hình thức BHYT Hiện nay phổ biến trên thế giới có hai hình thức tham gia BHYT; đó là BHYT tự nguyện và BHYT bắt buộc. BHYT bắt buộc là loại hình BHYT áp dụng cho cho một số đối tượng, được quy định trong các văn bản pháp luật về BH. Dù muốn hay không thì những đối tượng này đều phải tham gia BHYT, và số còn lại nếu muốn tham gia BHYT có thể tham gia BHYT tự nguyện, cũng có thể là các đối tượng đã tham gia BHYT bắt buộc vẫn có thể tham gia BHYT tự nguyện. Trong thực tế, có một bộ phận BHYT mang tính chất xã hội- tức là mang đặc trưng của BHXH, còn một bộ phận khác cũng liên quan đến chăm sóc sức khỏe nhưng mang tính chất kinh doanh- như BH tai nạn lao động , BH học sinh sinh viên 24/24… -BHTM. hai loại hình này mặc dù có mục đích giống nhau nhưng nhìn chung có những đặc trưng khác nhau cơ bản như sau: BẢNG SO SÁNH BHYT THUỘC BHXH VÀ BHYT THUỘC BHTM tiêu thức  BHYT thuộc BHXH  BHYT kinh doanh   đối tượng tham gia  người lao động là công hưởng lương…  những người có nhu cầu   hình thức thự hiện  bắt buộc  tự nguyện   cơ quan quản lý  cơ quan BHT do nhà nước tổ chức quản lý  các công ty BH kinh doanh nhà nước, tư nhân, công ty cổ phần.   tính chất BH  tính nhân đạo, tính cộng đồng…  hạch toán kinh tế, cân nhắc thu chi và làm nghĩa vụ đối với nhà nước.   nguồn quỹ BHYT  người sử dụng lao động, người lao động đóng góp theo tỷ lệ % quỹ lương có sự hỗ trợ của ngân sách.  người tham gia BH nộp phí BH theo các mức thỏa thuận.   phương thức và mức thanh toán tiền BHYT  chủ yếu chuyển thẳng cho cơ sở y tế đảm nhận KCB theo qui định. Mức thanh toán theo QĐthông thường.  trả cho người được hoặc bệnh viện đã ký hợp đồng với công ty BH. Mức chi trả theo mức đã ký trong hợp đồng.   1.3.2 Phương thức BHYT Trên thế giới có nhiều phương thức BHYT, tuy nhiên căn cứ vào mức độ thanh toán chi phí KCB cho người có thẻ BHYT, BHYT có các phương thức sau: + BHYT trọn gói: Là phương thức BHYT mà cơ quan BHYT sẽ chịu trách nhiệm về mọi chi phí y tế thuộc phạm vi BHYT cho người được BHYT. + BHYT trọn gói, trừ các đại phẩu thuật: Là phương thức BHYT mà cơ quan BHYH chịu trách nhiệm về mọi chi phí y tế thuộc phạm vi BHYT cho người được BHYT, trừ các cuộc đại phẩu thuật (theo quy định của cơ quan y tế). + BHYT thông thường : Là phương thức BHYT trong đó trách nhiệm của cơ quan BHYT được giới hạn tương xứng với trách nhiệm và nghĩa vụ của ngươì được BHYT. Quỹ BHYT và mục đích sử dụng quỹ BHYT 1.4.1 Quỹ BHYT Một tổ chức muốn tồn tại và thực hiện được các mục tiêu của mình đều cần phải có tài chính. BHYT cũng vậy để thực hiện các mục đích nhân đạo của mình, BHYT phải có một quỹ tài chính: đó là Quỹ BHYT, Quỹ BHYT là qũy tiền tệ được hình thành từ nguồn thu phí bảo hiểm và các nguồn thu hợp pháp khác, Quỹ tồn tại độc lập có quy mô phụ thuộc vào số lượng thành viên đóng góp và mức đóng góp của các thành viên. Với mục đích nhân đạo của BHYT, không có mục đích kinh doanh nên mức đóng của người sử dụng lao động đóng 50%-66% mức phí, còn người lao động đóng 34%- 50% mức phí BH. Mức phí BH đóng phụ thuộc vao nhiều yếu tố như xác suất bệnh, chi phí y tế, độ tuổi tham gia BHYT… ngoài ra có nhiều mức phí khác nhau cho những người có khả năng tài chính khác nhau trong việc nộp phí lựa chọn … Phí BHYT thường được tính trên cơ sở các số liệu thống kê về chi phí y tế và số người tham gia BHYT thực tế trong thời gian liền kề trước đó. *Quỹ BHYT được hình thành từ các nguồn sau: + Tiền thu BHYT do người sử dụng lao động và người tham gia BHYT đóng. + Các khoản nhà nước đóng BHYT cho đối tượng theo quy định và các khoản hỗ trợ khác của nhà nước (nếu có). + Tiền sinh lời do các biện pháp hợp pháp nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHYT. + Các khoản thu từ nguồn tài trợ, viện trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. + Các khoản thu hợp pháp khác. Mục đích sử dụng quỹ Có một quỹ tài chính độc lập được đóng góp từ nhiều nguồn, việc sử dụng quỹ như thể nào để bảo đảm được nguyên tắc cân đối thu chi, và phải làm thế nào để huy động và xử dụng hiệu quả nguồn quỹ, nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng dịch vụ y tế ngày càng cao và sự gia tăng của chi phí y tế. Với mục đích sử dụng quỹ là để thanh toán chi phí khám, chữa bệnh, phục hồi chức năng cho người tham gia BHYT theo phạm vi quyền lợi mà người tham gia BHYT được hưởng và các khoản chi phí khác theo quy định. Sau khi hình thành, quỹ BHYT được sử dụng như sau : + Chi thanh toán chi phí y tế chi người được BHYT – Đây là khoản chi thườn xuyên, lớn nhất của quỹ BHY + Chi dự trữ, dự phòng dao động lớn – Khoản chi này thường được tồn tích lại trong thời gian dài nhằm đảm bảo cho quyền lợi của người tham gia BHYT. + Chi đề phòng, hạn chế tổn thất : khoản chi này được chi ra với mục đích làm giảm thiểu tổn thất nếu rủi ro xảy ra – đay là khoản giảm chi thanh toán chi phí BHYT cho người được BHYT. + Chi quản lý : Các khoản chi quản lý hành chính nhằm đảm bảo cho hoạt động của bộ máy BHYT diễn ra bình thường. Nếu cơ quan quản lý BHYT là cơ quan không thuộc nhà nước mà là đơn vị kinh doanh thì phải đóng thuế. Mức chi và tỉ lệ các khoản chi này phụ thuộc vào quyết định của cơ quan chủ quản- BHYT, và thay đổi theo từng điều kiện cụ thể . Do có hai hình thức BHYT là tự nguyện và bắt buộc nên hình thức tổ chức và quản lý quỹ là khác nhau. 2. Khái quát về BHYT ở Việt Nam 2.1 Sự ra đời và phát triển của BHYT ở Việt Nam Sự phát triển của BHYT gắn liền với định hướng, quan điểm của Đảng qua các nghị quyết, văn kiện quan trọng mà khởi đầu là Đại hội VI năm 1986. Thực hiện chủ trương đổi mới trong lĩnh vực y tế, Nghị quyết đã đề ra phương châm: “ Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Đây là chủ trương mới xóa bỏ bao cấp trong KCB, huy động nguồn lực trong cộng đồng cùng nhà nước chăm lo bảo vệ sức khỏe cho nhân dân. Trước mhững vấn đề cấp bách đặt ra đối với sự nghiệp chăm sóc sức khỏe cho nhân dân thời kì đổi mới, xóa bỏ bao cấp. BHYT ra đời theo NGhị định 299-HĐBT, có hiệu lực từ ngày 1/10/92 của Hội đồng bộ trưởng, chính thức đi vào hoạt động và thực hiện theo điều lệ BHT ban hành kèm theo NĐ này, và sau đó sửa đổi để tự hoàn thiện theo NĐ 58/CP năm 1998. Trước những vấn đề đặt ra trong công tác bảo vệ chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới, ngày 23/2/2005 Bộ chính trị -ban chấp hành TW khóa IX ra nghị quyết 46NQ-TW với nhận định: BHYT được hình thành và bước đầu phát huy tác dụng” , Nghị quyết nêu rõ định hướng: “Phát triển BHYT toàn dân, nhằm từng bước đạt công bằng trong chăm sóc sức khỏe, thực hiện chia se giữa người nghèo với người giau, người khỏe với người ốm, người trong độ tuổi lao động với trẻ em và người già”. Ngày 18/4/2005 chính phủ ban hành nghị quyết số 05 /2005 /NQ-CP về đẩy mạnh xã hội hóa các họat động giáo dục, y tế ,văn hó, thể dục thể thao tiếp tục thực hiện nhất quán tư tưởng , quan điểm phát triển BHYT :” thực hiện BHYT toàn dân vào năm 2010” . Hiện nay chủ trương thực hiện BHYT toàn dân đang được Quốc hội thảo luận và tìm các giải pháp thich hợp để có một khung pháp lý hợp lý đẩy nhanh tiến trính BHYT toàn dân. Hiện nay ở Việt Nam có 2 hình thức BHYT; đó là BHYT tự nguyện và BHYT bắt buộc, cả hai hình thức đều được thực hiện với mục đích góp phần ổn định kinh tế cho người tham gia khi không may gặp rủi ro ốm đau, bệnh tật từ đó khôi phục phát triển sản xuất và đời sống. Đối với BHYT bắt buộc thì đối tượng tham gia là chủ sử dụng lao động và người lao động ở các đợn vị hành chính sự nghiệp, tổ chức Đảng, đoàn thể… những tổ chức có hưởng lương, BHYT tự nguyện được áp dụng cho tất cả các đối tượng có nhu câu tham gia và có khả năng tham gia, kể cả những đối tượng đã tham gia BHYT bắt buộc nhưng muốn tham gia BHYT tự nguyện để được hưởng mức dịch vụ BHYT cao hơn người tham gia BHYT bắt buộc; người nước ngoài đến học tập và làm việc tại Việt Nam. 2.2 Quy định của nhà nước về BHYT hiện nay Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, đã có ba Nghị định về BHYT đó là NĐ 299/HĐBT ban hành về diều lệ BHYT chính thức khai sinh chính sách BHYT tại Việt Nam, tiếp theo chính phủ ban hành hai NĐ 58/CP và 63/CP. Ngày 16/5/2005, chính phủ ra nghị định số 63/CP ban hành Điều lệ BHYT mới thay cho Nghị định số 58/CP. NĐ 63 ra đời mở rộng quyền lợi của người tham gia BHYT bắt buộc, Mở rộng quyền lợi cho người tham gia kể cả thanh toán chi phí vận chuyển, các bệnh bẩm sinh và tai nạn giao thông. Bỏ chế độ cùng chi trả , mở rộng quyền hạn cho cơ quan BHXH trong việc tổ chức đại lý BHYT. Nghị định 63 ra đời đã đáp ứng được nhu cầu phát triển của chính sách BHYT để hướng tới mục tiêu BHYT toán dân. quyền lợi của người tham gia được bảo đảm toàn diện. Đối với BHYT tự nguyện: hiện nay đang được thực hiện trên cơ sơ NĐ 63/CP và được bổ sung thêm bởi các quy định của thông tư 06 /2007/TTLT-BYT-BTC ngày 30/3/2007 của bộ y tế và bộ tài chính. Có điều kiện triển khai như sau : 1.Đối với thành viên hộ gia đình: Triển khai theo địa bàn xã, phường, thị trấn khi có đủ điều kiện sau: - 100% thành viên trong hộ gia đình tham gia, trừ những người tham gia BHYT bắt buộc và trẻ em dưới 6 tuổi ) - Ít nhất 10% số hộ gia đình trong phạm vi địa bàn tham gia. 2.Đối với học sinh sinh viên triển khai theo nhà trường - Điều kiện ít nhất 10% số HSSV trong nhà trường tham gia. Trên đây là điều kiện đủ để thực hiện BHYT tự nguyện ở Việt Nam. Thông tư này đã tác động rất lớn đến số lượng tham gia BHYT tự nguyện, đặc biệt đối tượng là người nghèo, cận nghèo. 2.3. Thực trạng BHYT ở Việt nam Ra đời từ năm 1992 đến nay, chính sách bảo hiểm y tế đã khẳng định được tính đúng đắn trong việc lựa chọn tài chính để giảm bớt gánh nặng chi phí khám chữa bệnh, chia sẻ rủi ro trong cộng đồng, tạo điều kiện cho nhiều người được khám chữa bệnh hơn. Hơn 14 năm qua, BHYT đã góp phần to lớn trong việc thực hiện chăm sóc sức khỏe cho người dân. Trong qua trình hình thành và phát triển, BHYT Việt Nam không ngừng được bổ sung và hoàn thiện về nội dung cũng như cơ chế quản lý. Đã thể hiện sâu sắc tính nhân đạo, chia sẽ rủi ro trong cộng đồng, nhiều người bệnh nặng, chi phí cao đã được cộng đồng người tham gia giúp đỡ, nhiều người dân có đóng BHYT cả dời cũng không đủ để chi trả điều trị, người bệnh được sử dụng các kĩ thuật cao như chụp cắt lớp, điều trị ung thư, điều trị can thiệp tim mạch… đã được hưởng BHYT. Hiện nay cả nước có 36,78 triệu người tham gia bảo hiểm y tế bắt buộc và 11,1 triệu người tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện. Mỗi năm khoảng 60 triệu người được khám chữa bệnh bằng thẻ bảo hiểm. Tuy vậy, đa số những đối tượng tự nguyện đều không mặn mà với bảo hiểm, tham gia không ổn định, chủ yếu là những người có nguy cơ đau ốm, bệnh tật, sức khoẻ yếu…, mức đóng của đối tượng bắt buộc lại thấp. Theo quy định hiện hành, mức đóng bảo hiểm y tế bắt buộc là 3% tiền lương và phụ cấp. Mức đóng của người nghèo là 80.000 đồng/người/năm…Mấy năm gần đây, mức đóng bảo hiểm tăng nhanh nhờ lộ trình điều chỉnh tiền lương. Nhưng, lại có sự chênh lệch rất lớn giữa khu vực bảo hiểm y tế bắt buộc và bảo hiểm y tế tự nguyện. Từ đó dẫn đến quỹ bảo hiểm y tế mất cân đối thu chi nghiêm trọng. Bình quân mức đóng của cả hai loại hình bắt buộc và tự nguyện đều chưa đáp ứng được nhu cầu chi phí y tế thực tế và không bảo đảm tính công bằng giữa các nhóm đối tượng tham gia bảo hiểm. Báo cáo của UB các vấn đề xã hội cho biết, việc mở rộng quyền lợi cho bệnh nhân BHYT và điều kiện tham gia BHYT tự nguyện từ năm 2005 là một trong những nguyên nhân khiến quỹ BHYT thâm hụt nghiêm trọng. Tần suất KCB tăng, số người có thẻ tăng vọt nhưng phần lớn là loại hình tự nguyên ( với tỉ lệ cao người già, người có sẵn bệnh) và người nghèo được nhà nước phát thẻ. Với hai đối tượng này mức đóng rất thấp nhưng số chi cho hị lại rất lớn. Chỉ trong hai năm, 2005-2006, Quỹ BHYT đã bội chi gần 2000 tỷ đồng , xấp xỉ số tiền tích lũy 12 năm thực hiện BHYT. Riêng trong năm 2006 đã bội chi 1620 tỷ đồn, trong đó 862 tỷ cho người nghèo, và một con số khác cho bệnh nhân BHYT tự nguyện. Chỉ chín tháng thực hiện qui định BHYTT hiện hành(thông tư 06), số người tham gia loại hình này đã tụt từ 3 triệu xuống còn 700.000 người, đặt ra câu hỏi có những bất cập gì trong chính sách BHYT? BHXH VN sẽ phải sử dụng 2.000 tỉ đồng tạm ứng từ Quỹ Bảo hiểm xã hội để thanh toán. Trung bình, trong 6 tháng đầu năm nay, cứ 100 người có thẻ BHYT tự nguyện thì có 280 lượt KCB ngoại trú và 22 lượt nội trú/năm. Như vậy, những thẻ BHYT tự nguyện được mua phần lớn bởi những người có nhu cầu khám chữa bệnh thật sự, thường xuyên. Nhu cầu đó là hoàn toàn chính đáng. Tuy nhiên, đó là bài học đắt giá cho việc thực hiện chính sách BH nói chung ở VN, bởi do công tác vận động kém, không thu hút được những người khoẻ mạnh tham gia, và phương hướng giải quyết thế nao để BHYT thật sự là chính sách xã hội đảm bao công bằng trong chăm sóc sức khỏe cho toàn dân, và hướng tới thực hiện BHYT toàn dân. 3. Tình hình thực hiện BHYT cho người nghèo ở Việt Nam hiện nay. 3.1 Cơ sở thực hiện BHYT cho người nghèo ở Việt Nam Hướng tới BHYT toàn dân, hướng tới đảm bảo công bằng trong khâu khám chữa bệnh , đảm bảo quyền lợi của mọi thành viên tham gia BHYT. Thực hiện BHYT ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều vấn đề cần quan tâm, đặc biệt khi sự phân hóa giàu nghèo này càng sâu sắc, số đối tượng người nghèo cần sự quan tâm chia sẽ của các thành viên trong xã hội, nâng cao chất lượng sống và tiếp cận với các dịch vụ tối thiếu trong cuộc sống, nhìn ch