Đề án Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước ở nước ta

Đầu thế kỉ XX, V.I Lênin đã chỉ rõ “ Chủ nghĩa tư bản độc quyền chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước là khuynh hướng tất yếu”. Cơ sở cho sự chuyển biến này chính là sự dung hợp giữa tư bản độc quyền với Nhà nước. Trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, nhiều chủ thể tham gia vào quá trình sản xuất do đó sự tương quan lợi ích giữa nhà tư bản và người lao động là cơ bản và chủ yếu để thực hiện bản chất xã hội của phương thức tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong lòng chủ nghĩa tư bản vẫn chứa đựng những xung đột lợi ích gay gắt, đòi hỏi Nhà nước phải trực tiếp tham gia vào quá trình phân phối lợi ích. Chính vì vậy, vai trò của Nhà nước chuyển từ các yếu tố bên ngoài, yếu tố tạo môi trường, thành yếu tố bên trong của quá trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa và trở thành một trong các yếu tố quan trọng nhất quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Ở Việt Nam hiện nay, trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa, sự điều tiết nền kinh tế của Nhà nước càng có vai trò quan trọng. Nhà nước quản lý kinh tế bằng pháp luật chính sách và các công cụ khác nhằm mục đích phát huy vai trò tích cực, hạn chế các mặt tiêu cực của kinh tế thị trường. Với những vấn đề cơ bản nêu trên, em sẽ phân tích chi tiết hơn trong từng phần cụ thể của đề án. Nội dung chính của đề án bao gồm:  Bản chất và những biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước  Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước ở nước ta hiện nay

doc18 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 12073 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề án Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước ở nước ta, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC  Trang   LỜI MỞ ĐẦU  1   I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC  2   1. Nguyên nhân hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước.  2   2. Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước  3   3. Những biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước.  5   4. Những biểu hiện mới của chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước hiện nay  8   II. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC TA  10   1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu lực quyền Nhà nước ở nước ta quản lý vĩ mô của Nhà nước Việt Nam  10   2. Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu lực quản lý vĩ mô của Nhà nước Việt Nam  12   KẾT LUẬN  15   TÀI LIỆU THAM KHẢO    LỜI MỞ ĐẦU ********** Đầu thế kỉ XX, V.I Lênin đã chỉ rõ “ Chủ nghĩa tư bản độc quyền chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước là khuynh hướng tất yếu”. Cơ sở cho sự chuyển biến này chính là sự dung hợp giữa tư bản độc quyền với Nhà nước. Trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, nhiều chủ thể tham gia vào quá trình sản xuất do đó sự tương quan lợi ích giữa nhà tư bản và người lao động là cơ bản và chủ yếu để thực hiện bản chất xã hội của phương thức tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong lòng chủ nghĩa tư bản vẫn chứa đựng những xung đột lợi ích gay gắt, đòi hỏi Nhà nước phải trực tiếp tham gia vào quá trình phân phối lợi ích. Chính vì vậy, vai trò của Nhà nước chuyển từ các yếu tố bên ngoài, yếu tố tạo môi trường, thành yếu tố bên trong của quá trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa và trở thành một trong các yếu tố quan trọng nhất quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Ở Việt Nam hiện nay, trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa, sự điều tiết nền kinh tế của Nhà nước càng có vai trò quan trọng. Nhà nước quản lý kinh tế bằng pháp luật chính sách và các công cụ khác nhằm mục đích phát huy vai trò tích cực, hạn chế các mặt tiêu cực của kinh tế thị trường. Với những vấn đề cơ bản nêu trên, em sẽ phân tích chi tiết hơn trong từng phần cụ thể của đề án. Nội dung chính của đề án bao gồm: Bản chất và những biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước ở nước ta hiện nay Do thời gian và kiến thức còn hạn chế nên bản đề án của em vẫn còn thiếu sót. Rất mong được sự chỉ bảo thêm của thầy.Em xin chân thành cảm ơn. I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC 1. Nguyên nhân hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước. Đầu thế kỉ XX, Lênin đã chỉ rõ "Chủ nghĩa tư bản độc quyền chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước là khuynh hướng tất yếu. Nhưng chỉ đến những năm 50 của thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước mới trở thành một thực thể rõ ràng và là một đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Sự hình thành của chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước do những nguyên nhân chủ yếu sau: Chủ nghĩa tư bản Nhà nước ra đời trước hết là do quá trình phát triển cao hơn nữa của tích tụ và tập trung sản xuất. Tích tụ và tập trung sản xuất cao sinh ra những cơ cấu kinh tế to lớn đòi hỏi sự điều tiết xã hội đối với sản xuất và phân phối. Sự xã hội hoá sản xuất cao dẫn đến một yêu cầu khách quan là Nhà nước phải đại diện cho toàn xã hội để quản lí nền sản xuất xã hội. Lực lượng sản xuất xã hội hoá càng cao càng mâu thuẫn gay gắt với hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Để làm dịu bớt mâu thuẫn đó, tư bản độc quyền cố tạo ra một hình thức mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, đó chính là chủ nghĩa tư ban độc quyền Nhà nước. Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật hiện đại đã làm biến đổi căn bản cơ cấu của nền kinh tế. Để cải tạo cơ cấu kinh tế đòi hỏi một khoản vốn lớn mà không một tổ chức độc quyền tư nhân nào có thể đảm bảo được, vì vậy cần có sự giúp đỡ của nhà nước, dẫn đến sự can thiệp sâu rộng của Nhà nước vào kinh tế. Mặt khác sự xuất hiện của một số ngành mà các tố chức độc quyền tư nhân không muốn đầu tư vào do vốn lớn mà lợi nhuận thấp như : năng lượng, giao thông vận tải, giáo dục, nghiên cứu khoa học..., Nhà nước phải đứng ra kinh doanh các ngành đó để tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế một cách đồng đều. Một trong những hậu quả của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật dẫn đến sự xã hội hoá cao trong sản xuất là làm cho nền kinh tế của các nước tư bản ngày càng không ổn định, khủng hoảng kinh tế diễn ra thường xuyên. Mặt khác sự ra đời và phát triển của hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới và sự phát triển của phong trào giải phóng dân tộc tại các nước thuộc địa đã thu hẹp thị trường của chủ nghĩa tư bản , đặt chủ nghĩa tư bản trước một thách thức sống còn hoặc điều chỉnh để tồn tại hoặc sụp đổ hoàn toàn. Sự thống trị của tư bản độc quyền làm cho mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản - vô sản và nhân dân lao động ngày càng sâu sắc. Để làm dịu bớt mâu thuẫn đó, Nhà nước phải can thiệp vào đời sống kinh tế xã hội bằng cách thực hiện các chính sách kinh tế xã hội như : chính sách trợ cấp thất nghiệp, diều tiết thu nhập, mở rộng phúc lợi xã hội.... Trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế thế giới hiện nay, sự bành trướng của các tố chức độc quyền vấp phải những hàng rào quốc gia dân tộc và xung đột về lợi ích trên thị trường thế giới, vì vậy Nhà nước có vai trò đứng ra giả quyết các mối quan hệ kinh tế thế giới. Như vậy, tất cả những tình hình kinh tế chính trị xã hội nêu trên đã thúc đẩy Nhà nước can thiệp ngày càng sâu vào kinh tế, làm cho chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước hình thành phát triển và trở thành phổ biến trong tất cả các nước tư bản. 2. Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước Chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước là nấc thang phát triển mới của chủ nghĩa tư bản độc quyền(chủ nghĩa đế quốc) Nó là sự thống nhất của ba quá trình gắn bó chặt chẽ với nhau : tăng sức mạnh của các tổ chức độc quyền; tăng vai trò can thiệp của Nhà nước vào kinh tế, kết hợp sức mạnh của tổ chức độc quyền tư nhân với sức mạnh của Nhà nước trong một cơ chế thống nhất và bộ máy Nhà nước phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền. Trong cơ cấu của chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước, Nhà nước trở thành một tập thể tư bản khổng lồ, can thiệp trực tiếp vào kinh tế. Nhà nước được sinh ra trên một cơ sở kinh tế nhất định đồng thời nó cũng tác động ngược trở lại đối với cơ sở kinh tế đó, tuy nhiên ở mỗi một chế độ xã hội khác nhau thì vai trò kinh tế của Nhà nước bộc lộ khác nhau và phù hợp với xã hội đó.Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, Nhà nước đóng vai trò là người bảo vệ tài sản cho giai cấp tư sản và duy trì những điều kiện chung bên ngoài của sản xuất, còn bản thân quá trình sản xuất do các quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản quết định. Nhưng khi tiến đến chủ nghĩa tư bản độc quyền, Nhà nước dần can thiệp sâu vào kinh tế, tham gia trực tiếp vào điều tiết sản xuất từ đầu vào, khâu trung gian cho đến phân phối. Chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước là một mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội trong đó sự kết hợp hay dung hợp sức mạnh của tổ chức độc quyền với Nhà nước tư sản là yếu tố quan trọng. Để có thể điều chỉnh nền kinh tế, các tổ chức độc quyền đã kết hợp với bộ máy Nhà nước tư sản thành một tổ chức vừa có sức mạnh về kinh tế, vừa có sức mạnh về chính trị, chi phối tất cả các hoạt dộng của đời sống kinh tế xã hội. Nhà nước can thiệp sâu vào kinh tế dẫn đến sự phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền. Nhà nước là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng nên về sâu sa nó phụ thuộc vào cơ sở kinh tế. Tuy nhiên có thể coi sự dung hợp này đã tạo ra một thể chế và thết chế thống nhất nhằm điều tiết sự vận động của nền kinh tế, phục vụ lợi ích của tư bản độc quyền. Như vậy chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước là bước phát triển của chủ nghĩa tư bản, không phải là một chính sách tạm thời trong một giai đoạn độc quyền của chủ nghĩa tư bản. Quan hệ sở hữu tư bản chủ nghĩa đã có sự cải biến mới. Sở hữu tư nhân được thay thế bằng sở hữu hỗn hợp giữa tư bản tư nhân và Nhà nước. Trong xã hội tư bản, Nhà nước tư sản xuất hiện như một chủ sở hữu tư bản, đứng ra quản lý xã hội, điều tiết bằng luật pháp dưới bộ máy quyền lực to lớn. Đây đựơc coi là hình thức mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Hình thưc vận động này nhằm duy trì sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản, làm cho chủ nghĩa tư bản thích nghi với điều kiện lịch sử mới. 3. Những biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước. 3.1 Sự kết hợp về nhân sự giữa tổ chức độc quyền và bộ máy Nhà nước tư sản Sự kết hợp về nhân sự được thực hiện thông qua các đảng phái tư sản. Đây chính là cơ sở xã hội để thực hiện sự thống trị và trực tiếp xây dựng đội ngũ công chức cho bộ máy Nhà nước. Bên cạnh đó còn có các hội chủ xí nghiệp đóng vai trò là lực lượng chính trị, kinh tế to lớn, là chỗ dựa cho chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước. Các hội chủ này hoạt động thông qua các đảng phái, cung cấp kinh phí cho các đảng, quyết định mặt nhân sự, tham gia vào việc thành lập, tư vấn tham mưu các hoạt động. Các đại biểu của các tổ chức độc quyền đựơc tham gia vào bộ máy Nhà nước, các quan chức Nhà nước được coi như những người đỡ đầu cho các hoạt động của các tổ chức độc quyền. Như vậy sự can thiệp trực tiếp đã hướng các hoạt động của Nhà nước tư sản nhằm phục vụ lợi ích của tư bản độc quyền. Sự thâm nhập lẫn nhau này đã tạo ra những biểu hiện mới trong mối quan hệ giữa Nhà nước tư sản và tổ chức độc quyền. 3.2 Sự hình thành và phát triển sở hữu Nhà nước Sở hữu độc quyền Nhà nước là sở hữu tập thể của giai cấp tư bản độc quyền có nhiệm vụ ủng hộ và phục vụ lợi ích của tư bản độc quyền nhằm duy trì sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Sở hữu Nhà nước bao gồm động sản, bất động sản cần thiết cho hoạt động của bộ máy Nhà nước và hệ thống các doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp nhà nước được hình thành dưới các hình thức sau: Xây dựng các doanh nghiệp nhà nước bằng vốn của ngân sách Quốc hữu hoá các doanh nghiệp tư nhân bằng cách mua lại Mua cổ phiếu của các doanh nghiệp tư nhân Mở rộng các doanh nghiệp Nhà nước bằng vốn tích luỹ của chúng Các doanh nghiệp nhà nước thực hiện những nhiệm vụ sau: Tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế tư bản tư nhân bằng các hình thức như Nhà nước đứng ra kinh doanh các ngành cũ thua lỗ, những ngành công nghệ mới đòi hỏi nhiều vốn, nghiên cứu và triển khai khoa học công nghệ Giải phóng tư bản của các tổ chức độc quyền tư nhân từ những ngành ít lãi để chuyển sang những ngành có lợi nhuận cao hơn Làm chỗ dựa cho sự điều tiết kinh tế tư bản chủ nghĩa theo những chương trình nhất định. 3.3 Sự hình thành thị trường Nhà nước Nhà nước chủ động mở rộng thị trường trong nước đã giúp tư bản tư nhân khắc phục được một phần khó khăn trong thời kì khủng hoảng thừa, góp phần bảo đảm cho quá trình tái sản xuất được diễn ra bình thường. Đồng thời, các tổ chức độc quyền tư nhân vừa tiêu thụ được hàng hoá, vừa bảo đảm lợi nhuận ổn định, khắc phục được tình trạng thiếu nhiên liệu, nguyên liệu chiến lược. 3.4 Sự điều tiết kinh tế của Nhà nước tư sản Cơ chế kinh tế của Chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước là sự kết hợp của 3 yếu tố: cơ chế thị trường, sự điều chỉnh của độc quyền tư nhân và sự điều tiết kinh tế của Nhà nước tư sản. ự kết hợp này nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của từng cơ chế, hay nói cách khác, đó là cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước nhằm phục vụ chủ nghĩa tư bản độc quyền. Hệ thống điều tiết của Nhà nước tư sản là tổng thể những thiết chế và thể chế kinh tế của Nhà nước. Nó được tổ chức chặt chẽ với một hệ thống chính sách công cụ có khả năng điều tiết sự vận động của toàn bộ nền kinh tế. Sự điều tiết này được thực hiện dưới nhiều hình thức như hướng dẫn, kiểm soát, uôn nắn lệch lạc bằng các công cụ kinh tế và các công cụ pháp lí, bằng các giải pháp chiến lược dài hạn như lập các chương trình kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, chống khủng hoảng lạm phát....Đặc biệt các chính sách kinh tế của Nhà nước là biểu hiện quan trọng nhất của chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước. Tuỳ thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của từng nước, trong từng thời kì, việc áp dụng các chính sách sao cho phù hợp là khác nhau. 3.5 Sự can thiệp của Nhà nước vào các quan hệ kinh tế đối ngoại Nhà nước đứng ra điều chỉnh ngoại thương như quy định nhập khẩu, khuyến khích xuất khẩu, kí hiệp định thương mại song phương và đa phương, điều chỉnh quan hệ tín dụng quốc tế. Đồng thời Nhà nước đẩy mạnh xuất khẩu tư bản, tạo điều kiện cho xuất khẩu tư bản tư nhân, thực hiện nhất thể hoá kinh tế và chính trị. 4. Những biểu hiện mới của chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước hiện nay Trải qua quá trình hình thành và phát triển, cho đến ngày nay, chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước đã có sự phát triển mạnh mẽ, đi kèm theo đó là những biểu hiện mới. 4.1 Sự phát triển rộng khắp của củ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước Sau chiến tranh thế giới thứ II, Chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước có những biến đổi lớn nhưng quan trọng và nổi bật hơn cả là sự phát triển rộng khắp ở các nước tư bản. Điều này được biểu hiện: Tỉ trọng kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế của các nước tư bản tăng Sự kết hợp giữa kinh tế Nhà nước và kinh tế tư nhân tăng Vấn đề chi tiêu tài chính để điêù tiết quá trình tái sản xuất xã hội tăng Nguyên nhân chính là do sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất đi kèm với cạnh tranh trên thị trường đòi hỏi Nhà nước phải tham dự vào quá trình kinh tế xã hội. 4.2 Những biểu hiện mới trong sự điều tiết kinh tế của Nhà nước tư sản Vai trò điều chỉnh nền kinh tế của Nhà nước tư sản đã có mầm mống từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời. Sự can thiệp của Nhà nước vào quá trình sản xuất và lưu thông trong các thời kì có những đặc điểm khác nhau. Trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, sự điều tiết nền kinh tế thị trường của Nhà nước tư bản độc quyền đã trở thành hiện tượng thường xuyên, phổ biến và phát triển cao hơn ở các nước tư bản. Biểu hiện mới của sự điều tiết đựơc thể hiện: Mục tiêu của sự điều tiết kinh tế của Nhà nước tư bản độc quyền là nhằm khắc phục những khuyết tật của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, định hướng cho sự phát triển kinh tế xã hội, nhằm tăng trưởng kinh tế, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản Để điều tiết kinh tế, Nhà nước tư bản độc quyền đã tổ chức bộ máy điều tiết, cùng với đó là các công cụ, các chính sách và các đòn bảy kinh tế nhằm thực hiện những mục tiêu đã được hoạch định. Bên cạnh đó, cơ chế điều tiết của chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước là cơ chế thị trường tự do cạnh tranh với tính năng động của tư bản độc quyền tư nhân. Những điểm quan trọng nhất của cơ chế này là: Hạn chế sự quan liêu hoá Nhà nước bằng cách xem xét lại hệ thống luật kinh tế, đơn giản hoá các thủ tục hành chính, xây dựng đạo luật mới thích hợp với cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước Xác định lại sự trợ cấp của Nhà nước đối với một số ngành, một số xí nghiệp Thực hiện tư nhân hoá khu vực kinh tế Nhà nước nhằm tăng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và khắc phục sự hoạt động kém hiệu quả của các doanh nghiệp Nhà nước Nới lỏng sự điều tiết của Nhà nước, xác định lại thứ tự ưu tiên trong chính sách kinh tế, hướng chủ yếu vào sự tăng trưởng lâu dài, tiến bộ khoa học và công nghệ, chống lạm phát, khuyến khích kinh doanh Tăng cường sự phối hợp chính sách kinh tế giữa các nước trong những lĩnh vực có tầm quan trọng đối với sự ổn định tình hình kinh tế xã hội Nổi bật hơn cả trong những biểu hiện mới là việc thực hiện chính sách xã hội, các phương thúc điều tiết của Nhà nước trở nên linh hoạt, mềm dẻo hơn, phạm vi rộng hơn được thể hiện như sau: Nhà nước điều tiết bằng các chương trình và kế hoạch cụ thể Điều tiết cơ cấu kinh tế bằng quan hệ thị trường, duy trì các ngành nghề truyền thống, phát triển những ngành mũi nhọn với công nghệ cao Điều tiết tiến bộ khoa học và công nghệ bằng tăng chi ngân sách cho nghiên cứu và phát triển, tài trợ cho nghiên cứu ứng dụng của các công ty tư nhân Điều tiết thị trường lao động, khuyến khích phát triển donh nghiệp vừa và nhỏ để thu hút lao động Điều tiết thị trường tài chính, tiền tệ, chống lạm phát, điều tiết giá cả, các quan hệ kinh tế đối ngoại. II. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC TA 1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu lực quản lý vĩ mô của Nhà nước Việt Nam 1.1 Thực trạng quản lý vĩ mô ở Việt Nam Trong những năm vừa qua, việc quản lý vĩ mô của Nhà nước ở Việt Nam đã được quan tâm cụ thể tuy nhiên thực tiễn nước ta hiện nay lại cho thấy hiệu lực quản lý của Nhà nước với từng mặt cụ thể trong xã hội vẫn còn nhiều vấn đề bất cập. Về bộ máy hành chính Nhà nước, việc phân cấp thực hiện chức năng thẩm quyền trách nhiệm quản lý Nhà nước giữa các Bộ, ngành, Trung ương và chính quyền địa phương còn nhiều hạn chế, thiếu chế định cụ thể. Các mối quan hệ dọc ngang, trên dưới, xử lý công việc theo chức năng của mỗi cơ quan còn thiếu chặt chế, chưa thành quy chế, có nhiều chỗ không rõ ràng chức trách. Trên thực tế, việc phân cấp giữa các cơ quan còn chưa rõ ràng chính là nguyên nhân làm cho tiến độ triển khai các kế hoạch còn chậm và không hiệu quả. Khái quát những tồn tại, vướng mắc về chức năng, trách nhiệm quản lý ở một số lĩnh vực đang đặt ra hiện nay như sau: Chưa xác định được rõ nội dung, phạm vi quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực nông thôn của Bộ Nông Nghiệp với các Bộ ngành liên quan và chính quyền địa phương. Chưa rõ ràng và còn nhiều vướng mắc về mô hình tổ chức thanh tra giữa các cơ quan có liên quan với nhau Trong phân công, phân cấp còn có sự lẫn lộn và chồng chéo giữa các cơ quan quản lý Nhà nước dần đến can thiệp quá sâu vào các doanh nghiệp, nhưng đồng thời lại có tình trạng không có cơ quan nào chịu trách nhiệm trong quản lý của mình Về các công cụ quản lý Nhà nước, các chính sách và pháp luật được sử dụng nhằm tăng cường hiệu lực quản lý. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật ở nuớc ta hiện nay còn cồng kềnh, chưa sát thực, cần bổ sung nhiều điều luật cụ thể trong từng lĩnh vực. Về kinh tế, hiện tượng chính quyền trực tiếp đứng ra làm kinh tế vẫn phổ biến. Các doanh nghiệp Nhà nước bị can thiệp vào quyền tự chủ kinh doanh nên gây ra tình trạng đầu tư dàn trải, hiệu quả thấp. Trong những năm gần đây, tình trạng này không những không giảm đi mà còn có xu hướng tăng lên. Có thể nói rằng, vấn đề quản lý vĩ mô của Nhà nước ta bên cạnh những thành tựu đã đạt được còn nhiều mặt hạn chế, do đó cần phải có biện pháp đúng đắn nhằm ngày càng nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước trên cơ sở mục tiêu xây dựng một Nhà nước vững mạnh về kinh tế, dân chủ công bằng văn minh 1.2 Sự cần thiết phải nâng cao hiệu lực quản lý vĩ mô của Nhà nước Trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế thị trường địng hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò của Nhà nước ta không những không suy giảm mà còn cần được đổi mới một cách căn bản và tăng cường hơn. Nhà nước ta phải đổi mới tăng cường để không chỉ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đơn thuần như mọi Nhà nước khác mà vươn lên trở thành Nhà nước thiết kế xây dựng thể chế kinh tế và xã hội Với những thực trạng cho thấy ở trên, vấn đề hiệu lực quản lý Nhà nước luôn là vấn đề cần quan tâm trong mọi thời kì ở các nước nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Nước ta đang đẩy mạnh kinh tế thị trường. mở cửa hội nhập với các nước bên ngoài. Thực tế cho thấy, nền kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường đòi hỏi phải tăng cường vai trò quản lí của Nhà nước, bất luận là Nhà nước tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa, chúng ta xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và áp dụng cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng quan hệ quốc tế, không phân biệt chế độ chính trị, do đó càng đòi hỏi sự quản lý của Nhà nước và xem trọng mối quan hệ giữa cải cách bộ máy Nhà nước và cải cách kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quản lý Nhà nước về kinh tế là một yêu cầu khách quan và phải tuân thủ những nguyên tắc chung về quản lý Nhà nước. Bên cạnh đó, việc cải thiện lại bộ máy hà