Thật khó có thể thống kê được trong vòng 1 năm, có bao nhiêu vụ giao thương giữa Việt Nam và Nhật Bản. Cũng thật khó có thể đo lường một cách định lượng về ảnh hưởng của văn hóa tới những hoạt động đó. Nhưng chúng ta không thể phủ nhận vai trò to lớn của văn hóa dân tộc tới hoạt động ngoại thương nói chung, hoạt động ngoại thương Việt Nam – Nhật Bản nói riêng.
Để có thể thành công hơn nữa tại thị trường Nhật Bản, doanh nhân Việt Nam cần chú ý tới những đặc điểm văn hóa, đặc biệt là văn hóa ứng xử và tính cách người Nhật, từ đó, có những biện pháp cụ thể để khắc phục sự khác biệt giữa văn hóa hai nước.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp Việt Nam cũng cần xây dựng kế hoạch phát triển lâu dài đối với thị trường Nhật Bản, chú trọng cải tiến chất lượng, mẫu mã và xây dựng một thương hiệu mạnh, có uy tín. Có như vậy, Việt Nam mới có thể khai thác triệt để những thuận lợi trong quan hệ ngoại thương và từ những ưu đãi mà hiệp định AJCEP đã mang lại.
48 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4152 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ảnh hưởng của văn hóa nhật bản tới hoạt động xuất khẩu Việt Nam - Nhật Bản thời gian qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ VĂN HÓA VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HÓA ĐẾN HOẠT ĐỘNG NGOẠI THƯƠNG
Khái niệm văn hóa
Định nghĩa văn hóa
Theo các nghiên cứu của các nhà nhân loại học Mỹ là Alfred Kroeber và Clyde Kluckhohn thống kê vào năm 1952, trên thế giới có tới 164 định nghĩa khác nhau về văn hóa trong các công trình nổi tiếng thế giới.
Theo nghĩa ban sơ từ tiếng Hán, Văn hóa là những nét xăm mình qua đó người khác nhìn vào để nhận biết và phân biệt mình với người khác, biểu thị sự quy nhập vào thần linh và các lực lượng bí ấn của thiên nhiên, chiếm lĩnh quyền lực siêu nhiên. Theo ngôn ngữ của phương Tây, từ “Culture” – Văn hóa có nguồn gốc từ các dạng của động từ Latin colere là colo, colui, cultus với hai nghĩa: (1) giữ gìn, chăm sóc, tạo dựng trong trồng trọt; (2) cầu cúng.
Vào năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: Văn hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin.
Vậy tóm lại, Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của con người.
Đặc trưng của văn hóa
Văn hóa có bốn đặc trưng cơ bản sau:
Tính hệ thống: Mọi hiện tượng, sự kiện thuộc một nền văn hóa đều có liên quan mật thiết với nhau, chứ không thể coi văn hóa như một phép cộng đơn thuần của những tri thức bộ phận.
Tính giá trị: Văn hóa chứa cái đẹp, chứa các giá trị, là thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con người. Dựa vào văn hóa, người ta có thể đánh giá trình độ văn minh của một cộng đồng người, một đất nước và một thời đại.
Tính nhân sinh: Văn hóa là một hiện tượng xã hội, là sản phẩm hoạt động thực tiễn của con người. Theo đó, văn hóa đối lập với tự nhiên - văn hóa là cái nhân tạo, tuy vậy, nó là cái tự nhiên đã được biến đổi dưới tác động của con người.
Tính lịch sử: Văn hóa bao giờ cũng hình thành trong một quá trình và được tích lũy qua nhiều thế hệ. Tính lịch sử tạo cho văn hóa một bề dày, một chiều sâu, buộc văn hóa thường xuyên tự điều chỉnh, phân loại và phân bố lại các giá trị.
Các thành tố chính của văn hóa
Ngôn ngữ
Theo giáo trình ngôn ngữ đại cương của Trần Xuân Hạo, NXB Giáo dục 2005 thì “Ngôn ngữ là một hệ thống dấu hiệu nhiều tầng được người bản ngữ chấp nhận, ghi nhớ, hiểu và sử dụng trong khi giao tiếp với cộng đồng”.
Sự xuất hiện của ngôn ngữ đã biến nhân loại mông muội trở thành những xã hội văn minh với sự phát triển toàn diện cả về tinh thần và vật chất. Ngày nay, trong quá trình hội nhập quốc tế, sự ảnh hưởng và thâm nhập lẫn nhau trong các phạm vi kinh tế, chuyển giao công nghệ và kĩ thuật, văn hóa và ngôn ngữ đã tạo ra bức tranh hết sức phong phú và phức tạp. Ngôn ngữ trên mọi phương diện có vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển của một quốc gia. Thậm chí đôi khi ngôn ngữ là nhân tố quyết định đảm bảo sự ổn định và tiến bộ của một quốc gia bằng cách giữ vai trò tác nhân giao tiếp, thống nhất dân tộc, pháp luật, quản lí Nhà nước, chính trị và v.v.
Cùng với quá trình phát triển và giao thương giữa các nền kinh tế trên thế giới, ngôn ngữ giữ vai trò quan trọng trong việc nâng cao khả năng giao tiếp giữa các quốc gia và là chất xúc tác quan trọng cho việc phát triển các quan hệ ngoại giao và kinh tế.
Đời sống tinh thần
Giá trị và quan điểm
Các giá trị và quan điểm đều là những yếu tố cần được nhắc đến khi nói tới văn hóa, bởi chúng có mối liên hệ rất lớn đến con người. Những ý tưởng, niềm tin và nghi thức mà con người gắn bó về mặt tình cảm là những giá trị. Giá trị bao gồm những thứ như sự trung thực, sự chân thành, tự do và tính trách nhiệm. Giá trị cũng là điều quy định cái gì là đúng, cái gì là sai. Hệ thống giá trị được hình thành qua quá trình giao tiếp, được duy trì và ủng hộ bởi một nhóm người nhất định. Những giá trị ấy ảnh hưởng đến cách tư duy của con người trong một nền văn hóa, và từ đó nó có tác động đến giao tiếp, đến cách thức làm việc của con người.
Quan điểm là sự thể hiện giá trị tích cực hoặc tiêu cực, là những cảm xúc và khuynh hướng của các cá nhân đối với những sự vật hay khái niệm. Quan điểm có ảnh hưởng đến giá trị. Có thể nói, quan điểm định hướng cho sự hình thành giá trị. Ví dụ, người Mỹ quan niệm trong cuộc sống cần có hưởng thụ, do đó họ coi trọng các giá trị vật chất cũng như đề cao sự sở hữu vật chất.
Văn học và nghệ thuật
Văn hóa - văn học, nghệ thuật luôn là nền tảng tinh thần đảm bảo sự phát triển bền vững của xã hội. Tư duy văn học, nghệ thuật là tư duy được thể hiện và thực hiện trong quá trình sáng tạo và thụ cảm nghệ thuật. Sáng tạo và thụ cảm nghệ thuật là hình thái đặc trưng và là hình thái cao nhất của hoạt động thẩm mỹ; trong sáng tạo và thụ cảm bao hàm cả đánh giá giá trị. Do đó, nói đến vai trò của tư duy nghệ thuật đối với lối sống là nói đến vai trò của nó đối với lối sống cả ở người nghệ sĩ, lẫn ở công chúng, tức lối sống của con người nói chung trong những điều kiện xã hội, lịch sử nhất định.
Là hình thái kết tinh và là hình thái cao nhất của tư duy thẩm mỹ, tư duy nghệ thuật có một vai trò độc đáo không thể thay thế đối với lối sống con người. Bên cạnh ngôn ngữ, thì văn học và nghệ thuật chính là sự phản ánh mức độ phát triển văn hóa của một quốc gia. Văn học nghệ thuật giúp hình thành, phản ánh và miêu tả chi tiết đời sống tinh thần của người dân một nước.
Phong tục tập quán và thói quen
Phong tục tập quán và thói quen được hình thành qua một quá trình lâu dài của đời sống xã hội, quy định cách thức con người ứng xử phù hợp với một nền văn hóa nhất định.
Trước hết chúng ta xét đến nghi thức. Nghi thức là những cách thức đúng đắn trong cư xử, nói năng và ăn mặc trong một nền văn hóa. Chẳng hạn như, trong nền văn hóa A-rập từ vùng Trung Đông cho đến miền Tây Bắc nước Mỹ, một người sẽ không chìa tay ra chào người lớn tuổi hơn nếu như người lớn hơn đó không giơ tay ra chào trước.
Khi những thói quen và cách ứng xử trong những hoàn cảnh cụ thể được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thì chúng trở thành phong tục tập quán. Chúng khác nghi thức ở chỗ chúng xác định những thói quen hoặc cách ứng xử phù hợp trong những tình huống cụ thể. Ví dụ như người Nhật có truyền thống mở những bữa tiệc đặc biệt cho những cô gái và chàng trai bước sang tuổi 20.
Tôn giáo
Tôn giáo là bất cứ hệ thống tín ngưỡng và phong tục nào có chức năng đề cập đến những câu hỏi căn bản về đặc tính loài người, đạo đức, sự chết và sự tồn tại của thần thánh (nếu có). Định nghĩa rộng ngày bao gồm mọi hệ thống tín ngưỡng, kể cả những hệ thống không tin tưởng vào thần thánh nào, những hệ thống đơn thần, những hệ thống đa thần và những hệ thống không đề cập đến vấn đề này vì không có chứng cớ.
Tôn giáo là một phổ quát văn hóa nên nó đóng vai trò quan trọng trong xã hội loài người. tôn giáo có các giá trị, tiêu chuẩn của nó, vì thế những người có cùng một tôn giáo gắn bó với nhau hơn nhờ những giá trị và tiêu chuẩn chung ấy. Và tôn giáo có chức năng tích hợp xã hội và đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống tinh thần của xã hội loài người
Đời sống vật chất
Đời sống vật chất của con người là một phần của nền văn hóa, cụ thể hơn, đó là một phần trong văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên. Đời sống vật chất bao gồm những gì đáp ứng nhu cầu thể chất và sinh lý của con người, từ ăn uống, mặc, ở, sinh hoạt, đi lại cho đến tiêu dùng.
Đời sống vật chất của con người còn bao hàm ý nghĩa thích nghi với môi trường tự nhiên. Việc ăn uống, mặc, ở, đi lại của con người chịu ảnh hưởng từ địa lý, khí hậu, môi trường, v.v. Những yếu tố này cũng có ảnh hưởng đến thói quen tiêu dùng của con người trong mỗi nền văn hóa.
Tất cả những công nghệ được sử dụng trong một nền văn hóa để sản xuất ra hàng hóa và cung cấp dịch vụ được gọi là văn hóa vật chất. Sự thay đổi trong văn hóa vật chất dẫn tới nhiều thay đổi trong những khía cạnh khác của văn hóa con người. Chẳng hạn, việc ra đời các phương tiện liên lạc hiện đại phục vụ cuộc sống và công việc như máy điện thoại, máy fax, thư điện tử đã tạo nên những thay đổi trong cách thức tiếp xúc, trò chuyện, trao đổi công việc của con người.
Vai trò của văn hóa trong hoạt động kinh doanh và ngoại thương
Ảnh hưởng tới tư duy và phong cách làm việc
Ảnh hưởng tới hoạt động của não bộ: Theo những nghiên cứu mới nhất về não bộ dựa trên công nghệ cao do giáo sư John Gabrieli và Trey Hedden thuộc Viện nghiên cứu não bộ McGovern - Học viện công nghệ Massachussets (MIT); Sarah Ketay và Arthur Aron - Đại học Stony Brook, New York; Hazel Rose Markus - Đại học Stanford khẳng định rằng: “văn hóa không chỉ tác động tới ngôn ngữ, phong tục mà còn ảnh hưởng tới cách mà con người cảm nhận về thế giới xung quanh ở mức độ cơ bản nhất - thí dụ như những điều con người quan sát và tìm kiếm trên đường phố, hoặc thậm chí đơn giản chỉ là cách nhận biết một đoạn thẳng nằm trong hình vuông.
Văn hóa ảnh hưởng tới cách bạn tư duy và giải thích hiện tượng xung quanh: "Văn hóa không thay đổi cách bạn quan niệm, đúng hơn văn hóa điều khiển cách bạn tư duy và giải thích thế giới xung quanh".
Các nhà nghiên cứu cũng cho biết, ở những cá nhân gần gũi về văn hóa xuất hiện những hiệu ứng lớn hơn, họ ưa thích những câu hỏi và giá trị trong những quan hệ xã hội. Thí dụ như một cá nhân có chịu trách nhiệm hay không về những thất bại của một thành viên trong gia đình, phản ánh sự can dự của yếu tố văn hóa. Trong cả hai nhóm, não bộ hoạt động mạnh mẽ hơn khi ghi nhận những kích thích phù hợp với văn hóa.
"Mọi người sử dụng cùng một cơ chế chú ý cho nhiều hoạt động nhận thức phức tạp nhưng họ được dạy bảo để sử dụng nó trong những cách khác nhau, đó chính là nhiệm vụ của văn hóa". Gabrieli nói: "Thật hấp dẫn khi xem xét cách mà não bộ phản hồi những hình vẽ đơn giản, một trong những hướng có thể tiên đoán, đó là cách mà cá nhân suy nghĩ về những mối quan hệ tự chủ hay phụ thuộc trong xã hội". Nhóm các nhà nghiên cứu được dẫn dắt bởi Trey Hedden và John Gabrieli tại Học viện công nghệ Massachusetts, đã chỉ ra rằng hoạt động não bộ của con người bị ảnh hưởng sâu sắc bởi tập quán vốn ăn sâu trong ý thức.
Vì thế, những suy nghĩ và hành động của con người phụ thuộc phần lớn vào nền văn hóa giáo dục và đào tạo nên họ. Nền văn hóa ảnh hưởng đó có thể là văn hóa gia đình, xã hội, nền giáo dục quốc gia và cả nền văn hóa vật chất sẵn có… của mỗi quốc gia.
Ảnh hưởng tới kinh doanh và tiêu dùng
Như đã phân tích ở trên, văn hóa ảnh hưởng sâu sắc tới cách tư duy và làm việc của con người, vì thế nó ảnh hưởng trực tiếp tới các hoạt động kinh doanh và tiêu dùng của xã hội.
Ảnh hưởng của văn hóa tới kinh doanh
Quá trình kinh doanh, mua sắm của một doanh nghiệp được miêu tả như sau:
Hình 1.3.2.1.1: quy trình mua sắm của tổ chức
Nguồn: Internet
Văn hóa ảnh hưởng sâu sắc tới mọi thành tố của quy trình này từ việc xác định nhu cầu, tìm kiếm bạn hàng cho tới quyết định của doanh nghiệp từ cả hai phía người mua và người bán.
Ảnh hưởng của văn hóa tới tìm kiếm đối tác kinh doanh. Ví dụ như khi tìm kiếm đối tác kinh doanh tại Mỹ, chúng ta cần quan tâm tới suy nghĩ độc lập của họ, luôn quan tâm tới chi tiết hơn là quan sát tổng thể. Từ đó có thể phán đoán các phương pháp tiếp cận thông tin của người Mỹ là sử dụng các phương tiện kỹ thuật số: máy tính, điện thoại thông minh. Các thông tin của họ phần lớn được tiếp nhận từ mạng Internet. Do vậy, nếu muốn xuất khẩu đồ gỗ sang thị trường này, các doanh nghiệp Việt Nam cần phát triển thương mại điện tử, đăng ký truy cập tại các trang web B2B, các cổng thông tin thương mại toàn cầu
Văn hóa ảnh hưởng tới cách người ta xử lý thông tin, đặc biệt trong kinh doanh, nó ảnh hưởng tới cách đối tác của bạn đánh giá khả năng cạnh tranh, uy tín, thương hiệu cũng như nhận xét về những giá trị đạo đức kinh doanh của công ty bạn. Lấy ví dụ tại Nhật Bản, do tiến hành công nghiệp sớm và nhanh chóng nên đã để lại nhiều hậu quả về môi trường tại nước này. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, đời sống nhân dân được cải thiện, vì thế mà người dân Nhật và các đối tác Nhật Bản quan tâm nhiều tới khía cạnh môi trường của sản phẩm. Hầu hết các công ty sản xuất công nghiệp (ví dụ như linh kiện điện tử) của Nhật đều được yêu cầu đạt tiêu chuẩn ISO 14001 - là tiêu chuẩn quốc tế về hệ thống quản lý môi trường. Mặt khác, các sản phẩm được nhập khẩu vào thị trường Nhật Bản phải trải qua các kiểm định ngặt nghèo về các tiêu chuẩn này. Văn hóa ảnh hưởng tới hệ thống phân phối hàng hóa trên thị trường nói riêng và hoạt động marketing quốc tế nói chung. Tại Việt Nam khi mà nền kinh tế nhỏ lẻ, manh mún, quan hệ làng xã vẫn được duy trì thì hệ thống phân phối chủ yếu tới tay người tiêu dùng là hệ thống bán lẻ. Vì thế nếu các doanh nghiệp muốn tiếp cận thị trường bán lẻ này họ phải đẩy mạnh hoạt động quảng bá và thay đổi chính sách lợi nhuận, hoa hồng cho các đại lý bán lẻ này. Ngoài việc tác động tới hình thức của hệ thống phân phối, văn hóa còn ảnh hưởng nhiều tới thời gian, lợi nhuận phân phối và vị thế của người sản xuất – nhà phân phối trên thị trường.
Ví dụ như để thâm nhập thị trường sản xuất đồ gỗ châu Âu, chiến lược phân phối mà các doanh nghiệp Việt Nam cần phân phối theo một trong các hướng chính sau:
Phân phối qua đại lý
Phân phối qua các công ty thiết kế, chuyên ngành
Phân phối qua các hệ thống bán lẻ (là tổ chức hoặc các tổ chức phân phối không chuyên như siêu thị, bách hóa…
Hình 1.3.2.1.2: Kênh phân phối gỗ tại thị trường Châu Âu
Nguồn: www.cbi.nl
Ảnh hưởng của văn hóa tới tiêu dùng
Văn hóa rất có ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng, đến quyết định mua hàng của mỗi người.
Do vậy, hành vi tiêu dùng đã được xem là một nghiên cứu về đặc điểm của người tiêu dùng, về nhân khẩu học, tâm thần học và những biến chuyển của nhu cầu con người. Ngoài ra, đây còn được dùng để đánh giá mức độ ảnh hưởng của một nhóm người như gia đình, bạn bè và xã hội lên một cá thể. Do tất cả các khía cạnh của hành vi tiêu dùng đều được yếu tố văn hóa bao trùm, nên những người làm marketing cần phải xác định và thấu hiểu nhân tố này và tầm ảnh hưởng của nó lên marketing toàn cầu để đạt được thành công trong kinh doanh.
Tháp nhu cầu của Maslow
Khi nhắc đến hành vi tiêu người tiêu dùng, không thể không nhắc đến Tháp nhu cầu của Maslow (Maslow’s hierachy of needs). Maslow đã phân chia nhu cầu của con người theo 5 giai đoạn: Giai đoạn đầu tiên là các nhu cầu cơ bản con người như văn, uống, duy trì nòi giống…. để đảm bảo sự tồn tại của con người. Khi đã thỏa mãn nhu cầu cơ bản này, vấn đề con người quan tâm lúc này là sự an toàn, an ninh của chính bản thân. Kế đến là nhu cầu giao tiếp, những mối quan hệ và gắn bó trong xã hội. Nhu cầu tiếp tục tiến lên đến giai đaọn được nhận biết và tôn trọng, để cuối cùng nhu cầu cao nhất là nhu cầu được thể hiện chính mình. Hành vi người tiêu dùng sẽ thể hiện rất khác nhau qua các giai đoạn của tháp Maslow và văn hóa có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ ở 2 điểm sau:
Thứ nhất: Một điều cơ bản trong thuyết Maslow nhưng không hoàn toàn đúng ở tất cả các nền văn hóa là nhu cầu không nối tiếp nhu cầu theo một trật tự nhất định.
Thứ hai: Các nhu cầu có tính chất tương đồng sẽ được thỏa mãn bởi nhiều sản phẩm khác nhau hay loại hình tiêu thụ khác nhau.
Trong một phạm vi xã hội, hành vi tiêu dùng của cá nhân sẽ thể hiện cá tính riêng và sẽ xây dựng mối quan hệ xã hội dưới sự dẫn dắt của yếu tố văn hóa. Tôi chỉ lấy ví dụ thông qua chỉ số đo lường Hofsted ở các quốc gia đa văn hóa. Tại Indonesia, dân số thừa hưởng một di sản Malay quan trọng nhưng đã bị thay đổi thành hơn 300 nền văn hóa khác nhau trên lãnh thổ. Văn hóa khác biệt này bắt nguồn từ sự xung đột giữa các quốc gia, văn hóa, tín ngưỡng mà sản sinh ra các hành vi tiêu dùng khác nhau.
Sự tồn tại của văn hóa ảnh hưởng đến sở thích của từng cá nhân và đồng thời ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng. Văn hóa là một kinh nghiệm được chia sẽ bao gồm những hành vi đã được trải nghiệm và ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định của từng cá nhân trong xã hội. Việc tiêu dùng trở thành một tiến trình xã hội tích cực bắt nguồn từ các yếu tố văn hóa. Văn hóa ảnh hưởng đến sự lựa chọn sản phẩm của người tiêu dùng và đồng thời ảnh hưởng đến đức tin và thái độ của cá nhân.
Ảnh hưởng tới lợi thế cạnh tranh quốc gia
Khi nghiên cứu mối liên hệ giữa văn hóa và lợi thế cạnh tranh quốc gia, chúng ta cần loại bỏ yếu tố điều kiện tự nhiên bởi những ngành sản xuất vật chất dựa nhiều vào tài nguyên thiên nhiên (trừ ngành hóa chất và sản xuất giấy) không thể tạo ra những ngành kinh tế xương sống của quốc gia. Những yếu tố văn hóa được đề cập chính ở đây là con người và tư duy, trí tuệ của họ.
Trước tiên cần hiểu rõ, lợi thế cạnh tranh quốc gia là gì?
Một cách tổng quát, lợi thế cạnh tranh quốc gia được thể hiện ở năng suất lao động quốc gia đó trong một thời điểm nhất định. Mục tiêu chính yếu của một quốc gia là tạo ra mức sống ngày càng cao cho công dân mình. Tuy nhiên năng suất lao động lại bị ảnh hưởng bởi những yếu tố sau:
Giới hạn tâm sinh lý của người lao động
Giới hạn phục vụ của công nghệ, máy móc và các yếu tố khoa học kỹ thuật
Giới hạn trình độ quản lý, kinh nghiệm quản lý
Nói tóm lại, năng suất bị giới hạn bởi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất – vốn được xây dựng và phát triển theo tiến trình phát triển của nền văn hóa và lịch sử đất nước cũng như hình thái xã hội hiện tại.
Lợi thế cạnh tranh của một quốc gia, của một ngành phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố:
Đổi mới lợi thế cạnh tranh khi nhận thức được một cơ hội thị trường hoàn toàn mới. Đó là những phát minh, những phát hiện về lỗ hổng thị trường và tạo ra lợi thế dẫn đầu thị trường.
Lợi thế cạnh tranh quốc gia không chỉ phụ thuộc vào thương mại quốc tế mà còn phụ thuộc vào đầu tư quốc tế. Thương mại và đầu tư quốc tế tạo điều kiện chuyển giao công nghệ mới, hiện đại hoặc tạo điều kiện khai thác các nguồn lực sản xuất rẻ hơn, tạo ra lợi nhuận và năng suất vượt trội.
Để có thể duy trì mức độ cạnh tranh, các quốc gia, các hãng phải không ngừng nâng cấp lợi thế đó, chuyển sang loại hình tinh tế hơn, phức tạp hơn. Đây cũng là một loại hình đổi mới, đa dạng hóa sản phẩm trên cơ sở sản phẩm có sẵn.
Tốc độ và mức độ tăng năng lực cạnh tranh lại phụ thuộc khá nhiều vào nền văn hóa hiện tại của quốc gia đó:
Nguồn nhân lực chính là yếu tố quan trọng bậc nhất, quyết định tới tốc độ và nhịp độ tăng trưởng của năng lực sản xuất. Đây là yếu tố quyết định tới khả năng tiếp thu KH – KT mới cũng như tạo ra các phát minh, sáng kiến sản xuất…
Thể chế chính trị và xã hội. Ngoài nguồn lực con người thì thể chế chính trị và xã hội ảnh hưởng trực tiếp tới môi trường thuận lợi cho ngành sản xuất phát triển hay kìm hãm chúng.
Các trở lực khác như tôn giáo có thể ảnh hưởng tới sự ổn định chính trị, ổn định kinh tế và sản xuất.
Ảnh hưởng tới hoạt động ngoại thương
Theo lý thuyết quản trị kinh tế quốc tế, cơ sở để xuất hiện hoạt động ngoại thương giữa các quốc gia bao gồm:
Phản ứng chủ động do các nhân tố bên trong (vấn đề quản trị, hiệu quả kinh tế theo quy mô, hiệu quả kinh tế theo phạm vi, hiệu ứng kinh nghiệm) và bên ngoài (cơ hội sinh lợi, cơ hội gia tăng sản lượng, lợi thế của phân bố địa lý, kiểm soát đối thủ cạnh tranh).
Phản ứng thụ động do các nhân tố bên trong (tác động kéo, tồn kho quá mức, dưa thừa công suất và yêu cầu phân tán rủi ro), và bên ngoài (cấu trúc thị trường, sự kém hấp dẫn của môi trường nội địa, áp lực chính trị…)
Trong hoạt động ngoại thương, các doanh nhân và các công ty luôn vươn tới những thị trường mới, mong muốn đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng thuộc những nền văn hóa mới. Việc quan trọng đầu tiên mà họ phải làm là tìm hiểu nền văn hóa của địa phương nơi họ định thâm nhập hoặc định tiến hành kinh doanh. Việc tìm hiểu này không chỉ bao gồm những vấn đề liên quan