Lao động di cư là một trong những vấn đề xã hội nổi cộm, thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia trên thế giới trong bối cảnh kinh tế - xã hội hiện nay. Giống như các quốc gia khác, di cư ở Việt Nam là một hiện tượng mang tính quy luật, một cấu thành tất yếu của sự phát triển. Đồng thời di cư lao động còn là một đòi hỏi khách quan trong điều kiện kinh tế thị trường, là biểu hiện rõ nét nhất trong sự phát triển không đồng đều giữa các khu vực, vùng miền lãnh thổ. Dưới tác động của toàn cầu hóa, những chênh lệch về mức sống, khác biệt trong thu nhập, cơ hội việc làm, nhu cầu dịch vụ xã hội và sức ép sinh kế đang ngày càng trở thành những áp lực cơ bản tạo nên các dòng di chuyển lao động trong và ngoài nước. Tại nhiều địa phương các hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động hay ra thành thị kiếm việc làm, không phân biệt giới tính, tuổi tác. Họ không chỉ vì những nhu cầu cơ bản như ăn, mặc, ở mà còn vì nhu cầu rất quan trọng khác, đó là phát triển (tiếp cận các điều kiện giáo dục, thành tựu khoa học, giải trí, hưởng thụ văn hóa ). Tuy có nhiều lý do khác nhau, song tất cả đều mong muốn cải thiện đời sống cho bản thân và gia đình (Đặng Nguyên Anh, 2005)
Một trong những hình thức di cư phổ biến là xuất khẩu lao động của Việt Nam tăng nhanh từ cuối thập niên 1990 và chủ yếu sang các nước Đông Á. Gần đây, thị trường xuất khẩu lao động mở rộng sang Trung Đông, Tây Âu và Mỹ. Từ năm 2001, bình quân mỗi năm có 70.000 lao động được đưa đi ra nước ngoài, (Trần Văn Thọ, 2006). Theo thống kê của Cục Quản lý Lao động ngoài nước, trong năm 2011 vừa qua, Việt Nam gửi khoảng 88.298 lao động tới gần 40 nước và vùng lãnh thổ (GSO,2011). Trong năm 2012, phấn đấu sẽ đưa 90.000 người đi xuất khẩu lao động. Phần đông công nhân Việt được xuất khẩu sang các thị trường Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan và Malaysia.
Trên thực tế, xu hướng xuất khẩu lao động đã tạo ra những ảnh hưởng lớn về kinh tế, xã hội, văn hóa, đặc biệt là đời sống khu vực nông thôn, đồng thời nó còn là một chiến lược “đa dạng hóa và làm giảm rủi ro cho kinh tế hộ gia đình” (Massey:1994). Nghiên cứu của UNDP (1998) tiến hành khảo sát tình hình xuất khẩu lao động đã cho kết quả việc xuất khẩu lao động đã giúp cho việc giảm ở nông thôn, mang lại những biến chuyển về mặt đời sống xã hội như: thu nhập, cơ hội việc làm, nhà ở y tế, sức khỏe 90% người di cư có gia đình gửi tiền về trong năm, gần 84% hộ gia đình khẳng định thu nhập cao hơn trước khi di cư. Nhiều nghiên cứu cho thấy xuất khẩu lao động góp phần tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo. Vậy mức sống của các hộ gia đình khu vực nông thôn thay đổi như thế nào? Mức sống của hộ gia đình có người xuất khẩu lao động khác gì so với hộ gia đình không có người xuất khẩu lao động?
58 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3342 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ảnh hưởng của xuất khẩu lao động đến mức sống các hộ gia đình ở thôn Ngọc Lâm, xã Tân Kỳ, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài Luận
Đề Tài:
Ảnh hưởng của xuất khẩu lao động
đến mức sống các hộ gia đình ở thôn Ngọc Lâm, xã Tân Kỳ,
huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ, HỘP
Bảng 1. Tuổi và trình độ học vấn của những người đi xuất khẩu lao động: 13
Hộp 1. Trình độ học vấn và thời gian làm việc 14
Bảng 2. Tình trạng kết hôn và giới tính của những người đi xuất khẩu lao động. 14
Bảng 3. Nước đi xuất khẩu lao động. 15
Hộp 2. Tiền lương nhận được ở từng nước là khác nhau 15
Bảng 4. Mức độ đồng ý của gia đình cho người thân đi xuất khẩu lao động 16
Hộp 3. Đi xuất khẩu lao động vì đời sống còn nhiều khó khăn 16
Hình 1. Tiền gửi về của hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động. 17
Hộp 4. Gửi tiền về từ 3 – 4 lần/ năm 18
Hình 2. Mức độ thường xuyên gửi tiền về: 18
Hộp 5. Gửi tiền qua người thân 18
Hộp 6. Mức độ đóng góp tùy thuộc vào đặc trưng của cá nhân, gia đình 19
Bảng 6. Đánh giá thu nhập ổn định của hộ gia đình thôn Ngọc Lâm 20
Hình 3. Đánh giá thu nhập của các hộ gia đình thôn Ngọc Lâm 20
Bảng 7. Nghề nghiệp của những hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động. 22
Bảng 8. Đầu tư tái sản xuất của hộ gia đình thôn Ngọc Lâm 23
Hộp 7. Nguồn lao động địa phương thay đổi 25
Hộp 8. Tiền gửi về chi cho giáo dục, trả nợ, kiến thiết nhà cửa, mua sắm vật dụng… 26
Bảng 9. Điều kiện nhà ở, tiện nghi sinh hoạt của các hộ gia đình 26
Hình 4. Mức độ thường xuyên đi khám sức khỏe của các hộ gia đình thôn Ngọc Lâm, Tân Kỳ, Tứ Kỳ, Hải Dương. 28
Bảng 10. Du lịch, giải trí của các hộ gia đình 29
Bảng 11. Xếp hạng về sự thay đổi trong mức sống của các hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động 29
Hộp 9. Thay đổi lớn về kiến thiết nhà cửa 30
Hộp 10. Mối quan hệ gia đình thay đổi 30
Bảng 12. Mức độ hài lòng của các hộ gia đình với mức sống hiện tại 31
Hộp 11. Con cái thiếu sự quan tâm chăm sóc của cha mẹ 32
I. GIỚI THIỆU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Lao động di cư là một trong những vấn đề xã hội nổi cộm, thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia trên thế giới trong bối cảnh kinh tế - xã hội hiện nay. Giống như các quốc gia khác, di cư ở Việt Nam là một hiện tượng mang tính quy luật, một cấu thành tất yếu của sự phát triển. Đồng thời di cư lao động còn là một đòi hỏi khách quan trong điều kiện kinh tế thị trường, là biểu hiện rõ nét nhất trong sự phát triển không đồng đều giữa các khu vực, vùng miền lãnh thổ. Dưới tác động của toàn cầu hóa, những chênh lệch về mức sống, khác biệt trong thu nhập, cơ hội việc làm, nhu cầu dịch vụ xã hội và sức ép sinh kế đang ngày càng trở thành những áp lực cơ bản tạo nên các dòng di chuyển lao động trong và ngoài nước. Tại nhiều địa phương các hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động hay ra thành thị kiếm việc làm, không phân biệt giới tính, tuổi tác. Họ không chỉ vì những nhu cầu cơ bản như ăn, mặc, ở mà còn vì nhu cầu rất quan trọng khác, đó là phát triển (tiếp cận các điều kiện giáo dục, thành tựu khoa học, giải trí, hưởng thụ văn hóa…). Tuy có nhiều lý do khác nhau, song tất cả đều mong muốn cải thiện đời sống cho bản thân và gia đình (Đặng Nguyên Anh, 2005)
Một trong những hình thức di cư phổ biến là xuất khẩu lao động của Việt Nam tăng nhanh từ cuối thập niên 1990 và chủ yếu sang các nước Đông Á. Gần đây, thị trường xuất khẩu lao động mở rộng sang Trung Đông, Tây Âu và Mỹ. Từ năm 2001, bình quân mỗi năm có 70.000 lao động được đưa đi ra nước ngoài, (Trần Văn Thọ, 2006). Theo thống kê của Cục Quản lý Lao động ngoài nước, trong năm 2011 vừa qua, Việt Nam gửi khoảng 88.298 lao động tới gần 40 nước và vùng lãnh thổ (GSO,2011). Trong năm 2012, phấn đấu sẽ đưa 90.000 người đi xuất khẩu lao động. Phần đông công nhân Việt được xuất khẩu sang các thị trường Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan và Malaysia.
Trên thực tế, xu hướng xuất khẩu lao động đã tạo ra những ảnh hưởng lớn về kinh tế, xã hội, văn hóa, đặc biệt là đời sống khu vực nông thôn, đồng thời nó còn là một chiến lược “đa dạng hóa và làm giảm rủi ro cho kinh tế hộ gia đình” (Massey:1994). Nghiên cứu của UNDP (1998) tiến hành khảo sát tình hình xuất khẩu lao động đã cho kết quả việc xuất khẩu lao động đã giúp cho việc giảm ở nông thôn, mang lại những biến chuyển về mặt đời sống xã hội như: thu nhập, cơ hội việc làm, nhà ở y tế, sức khỏe… 90% người di cư có gia đình gửi tiền về trong năm, gần 84% hộ gia đình khẳng định thu nhập cao hơn trước khi di cư... Nhiều nghiên cứu cho thấy xuất khẩu lao động góp phần tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo. Vậy mức sống của các hộ gia đình khu vực nông thôn thay đổi như thế nào? Mức sống của hộ gia đình có người xuất khẩu lao động khác gì so với hộ gia đình không có người xuất khẩu lao động?
Xã Tân Kỳ, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương có tới 70% người dân sống chủ yếu bằng nghề nông (trồng lúa và chăn nuôi), ngoài ra còn có các nghề phụ như: xay sát, cho thuê máy móc nông nghiệp, nghề mộc, nề, làm nghề phụ…nhưng nhìn chung hoạt động ngoài nông nghiệp chiếm không đáng kể. Theo báo cáo tình hình phát triển kinh tế xã hội của xã qua các năm 2010, 2011 thì có nhiều nguyên nhân dẫn đến đói nghèo nhưng chủ yếu là do kinh tế còn thấp kém, điều kiện sản xuất hạn chế, chất lượng cuộc sống thấp do: thiếu lao động, thiếu đất, thiếu vốn sản xuất, gia đình đông con… Một trong những biện pháp cải thiện tình trạng khó khăn hiện nay là xuất khẩu lao động. Kể từ năm 2004 cho đến nay, xu hướng người dân đi xuất khẩu lao động tăng mạnh về số lượng. Theo thống kê trong năm 2011, trong toàn xã có 131 lao động làm việc ở nước ngoài, tăng khoảng 20% so với năm 2010.
Hơn thế nữa, các nghiên cứu trước đã cho thấy những đóng góp của việc xuất khẩu lao động ở nông thôn, tuy nhiên các tác giả phần nhiều đặt mối quan tâm vào nơi đến, những vấn đề xã hội như: tội phạm, dân số, môi trường…hay như xem xét thực trạng, nguyên nhân của xuất khẩu lao động (Mạnh Minh, 2011). Hiện tại chưa có nhiều nghiên cứu chỉ ra sự ảnh hưởng của xuất khẩu lao động đến mức sống các hộ gia đình mà chủ yếu chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu sự biến đổi thu nhập, việc làm của các hộ gia đình ở khu vực nông thôn. Chính từ thực tế trên, chúng tôi xin chọn đề tài nghiên cứu: “Ảnh hưởng của xuất khẩu lao động đến mức sống các hộ gia đình ở thôn Ngọc Lâm, xã Tân Kỳ, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương”.
Qua đề tài nghiên cứu này, chúng tôi muốn tìm hiểu những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của xuất khẩu lao động đến mức sống các hộ gia đình ở khu vực nông thôn. Từ đó đưa ra một số biện pháp nhằm hạn chế và hoá giải các tác động tiêu cực của hiện tượng xã hội này.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu chung của đề tài là nghiên cứu sự ảnh hưởng của việc xuất khẩu lao động tới mức sống các hộ gia đình tại xã Tân Kỳ - huyện Tứ Kỳ -Tỉnh Hải Dương. Thông qua đề tài chúng tôi mong muốn góp phần hệ thống hóa lý luận về tác động của xuất khẩu lao động đến mức sống các hộ gia đình ở nông thôn; tìm hiểu và đánh giá thực trạng xuất khẩu lao động tác động tới sự biến đổi mức sống các hộ gia đình để từ đó so sánh mức sống của các hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động với những hộ không có người đi xuất khẩu lao động tại xã Tân Kỳ - huyện Tứ Kỳ - tỉnh Hải Dương. Trên cơ sở đó đưa ra khuyến nghị để giảm thiểu những tác động tiêu cực của xuất khẩu lao động tới mức sống các hộ gia đình ở nông thôn. Theo đó, đề tài có các nhiệm vụ sau:
1. Hệ thống hóa những vấn đề liên quan tới xuất khẩu lao động ảnh hưởng đến mức sống hộ gia đình.
2. Mô tả thực trạng xuất khẩu lao động ảnh hưởng đến mức sống hộ gia đình.
3. Phân tích, đánh giá sự ảnh hưởng di cư lao động đến mức sống của các hộ gia đình.
1.3. Phương pháp nghiên cứu, chọn điểm, khung phân tích
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp thu thập thông tin, phương pháp quan sát, phương pháp phỏng vấn sâu…
Phương pháp thu thập thông tin
Thu thập thông tin thứ cấp:
Xây dựng tổng quan các tài liệu liên quan đến việc ảnh hưởng của xuất khẩu lao động đến mức sống các hộ gia đình. Đồng thời tiến hành thu thập các tài liệu, số liệu thứ cấp từ Ủy ban nhân dân xã Tân kỳ về tình hình đi xuất khẩu lao động như: Báo cáo tổng kết thường kỳ về số hộ có người đi xuất khẩu lao động, thu nhập và mức sống của các hộ gia đình trong thôn, báo cáo thi đua khen thưởng về xếp loại gia đình văn hóa...
Thu thập thông tin sơ cấp:
Chúng tôi sử dụng phương pháp quan sát nhằm thu thập thông tin sơ cấp và tiến hành quan sát mức sống các hộ gia đình qua điều kiện, trang thiết bị sinh hoạt, hoạt động lao động – sản xuất... Bên cạnh đó, quan sát thực tế về tình hình xuất khẩu lao động tại xã Tân kỳ diễn ra như thế nào, có nhiều hay không, hiệu quả đạt được ra sao và làm thay đổi mức sống của các hộ gia đình tại xã đó như thế nào? (tiếp cận các chủ hộ và qua các cán bộ thôn xã: ban tuyên truyền, cán bộ dân số, cán bộ hội phụ nữ thôn xã...). Một phương pháp quan trọng nữa là đánh giá nhanh nông thôn có sự tham gia (PRA) tại địa điểm nghiên cứu nhằm thu thập thông tin về mức sống gia đình nhìn từ phía người dân. Liệt kê những yếu tố/tiêu chí biến đổi trong mức sống của các hộ gia đình (có người đi xuất khẩu lao động và không có người đi). Sử dụng công cụ Ranking để xếp hạng các yếu tố thay đổi của mức sống hộ gia đình. Ngoài ra, đề tài sử dụng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi tiến hành điều tra 30 phiếu, mọi đơn vị tổng thể đều có được sự lựa chọn như nhau nhằm thu thập các thông tin mang tính định lượng và định tính. Điều tra bảng hỏi kết hợp với phương pháp chọn mẫu thì được dựa trên cơ sở một số tiêu chí như: hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động để chọn ra 20 hộ, 10 hộ gia đình không có người đi xuất khẩu lao động tham gia vào quá trình nghiên cứu bằng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản… Sở dĩ lựa chọn phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản để đảm bảo tính chính xác, khách quan vì mọi đơn vị tổng thể đều có được sự lựa chọn như nhau. Tuy nhiên, để thu thập được thông tin qua bảng hỏi, trước hết nhóm chủ động liên hệ với cán bộ địa phương để lập danh sách và giới thiệu tới các hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động (hộ gia đình có người đang đi xuất khẩu lao động) và hộ gia đình không có người đi xuất khẩu lao động. Sau đó chọn ngẫu nhiên 30 hộ trong danh sách để tiến hành điều tra bảng hỏi (bảng hỏi chủ yếu sử dụng để thu nhập những thông tin mang tính định lượng và lượng hóa những thông tin định tính có được từ thông tin thu thập trước) và phỏng vấn sâu. Ngoài ra phương pháp phỏng vấn sâu được thực hiện nhằm thu thập các thông tin liên quan đến nguyên nhân của việc người dân địa phương đi xuất khẩu lao động, đồng thời tìm hiểu một số ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của xuất khẩu lao động tới mức sống các hộ gia đình. Chúng tôi tiến hành trong 5 hộ gia đình, 2 đại diện cơ quan: cán bộ hội phụ nữ/trưởng thôn/ cán bộ hội nông dân, 3 đại diện hộ gia đình) để nắm tình hình xuất khẩu lao động ảnh hưởng như thế nào đến mức sống của các hộ gia đình theo các chỉ tiêu cụ thể. Ngoài ra, để thu thập một số thông tin mang tính khái quát và khách quan nhóm nghiên cứu sử dụng phỏng vấn nhóm. Đặc biệt tập trung tiến hành thảo luận 2 nhóm (gồm hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động và hộ gia đình không có người đi xuất khẩu lao động) nhằm tìm ra sự khác biệt trong việc đánh giá sự ảnh hưởng của xuất khẩu lao động đến mức sống các hộ gia đình. Các nhóm thảo luận được thiết kế từ 5-6 người để đảm bảo tính khái quát, tin cậy của thông tin.
Chọn điểm nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tập trung tìm hiểu tình hình xuất khẩu lao động ảnh hưởng đến mức sống hộ gia đình tại thôn Ngọc Lâm, xã Tân Kỳ, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. Sở dĩ chúng tôi chọn địa bàn này là trong những năm gần đây, xu hướng người dân đi xuất khẩu lao động có chiều hướng gia tăng , thêm vào đó thôn Ngọc Lâm là thôn điển hình của xã Tân Kỳ có sự chuyển biến nhanh về mức sống các hộ gia đình, luôn đạt được nhiều thành tích trong hoạt động phát triển kinh tế - xã hội. Đề tài được tiến hành nghiên cứu trong khoảng thời gian từ ngày 19 tháng 3 năm 2012 đến 30 tháng 4 năm 2012; giới hạn nội dung là nghiên cứu ảnh hưởng của xuất khẩu lao động đến mức sống hộ gia đình tại thôn Ngọc Lâm, xã Tân Kỳ, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. Từ đó làm căn cứ đánh giá đúng thực trạng về mức sống các hộ gia đình ở khu vực nông thôn.
Khung phân tích:
Ảnh hưởng của xuất khẩu lao động đến mức sống các gia đình tại thôn Ngọc Lâm, xã Tân Kỳ, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương được phân tích thông qua việc so sánh hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động và hộ gia đình không có người đi xuất khẩu lao động; so sánh trước và sau khi tiến hành đi xuất khẩu lao động (lấy mốc từ năm 2004 – thời điểm người dân đi xuất khẩu lao động nhiều nhất).
Hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động
Trước khi đi xuất khẩu LĐ
Ảnh hưởng của XKLĐ tới mức sống các hộ GĐ
Sau khi đi xuất khẩu LĐ
Hộ gia đình không có người đi xuất khẩu LĐ
Để thực hiện đề tài này chúng tôi lựa chọn cách tiếp cận có sự tham gia, cụ thể như sau bao gồm: Chủ thể nghiên cứu, khách thể nghiên cứu. Chủ thể nghiên cứu là nhóm nghiên cứu trong đó có người thu thập, điều tra, phân tích và tổng hợp báo cáo kết quả. Ngoài ra, khách thể nghiên cứu là người dân xã Tân kỳ, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. Thực hiện cách tiếp cận từ dưới lên thông qua phân tích vi mô: lấy hộ gia đình (vợ và chồng) là đơn vị phân tích nhằm xác định ảnh hưởng của xuất khẩu lao động tới mức sống hộ gia đình nghiên cứu tiếp cận mức sống hộ gia đình theo thời gian: Trước và sau khi đi xuất khẩu lao động, những hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động và không có người đi xuất khẩu lao động.
II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Một số lý thuyết kinh điển về di dân
Di dân là một vấn đề không phải của riêng một nước nào mà còn xuất hiện ở nhiều quốc gia trên thế giới. Vì vậy mà đã có một số quan điểm của các nhà xã hội học đề cập đến di dân.
Theo luận điểm kinh điển, dân số tại các quốc gia phát triển ít có sự di động do quá trình di cư diễn ra mạnh mẽ trên nền tảng của một xã hội công nghiệp hiện đại (Zelinski, 1971).
Trong nghiên cứu về “Các nguồn gốc xã hội và kinh tế của nhập cư” D-Massey đi đến kết luận rằng, di cư là một chiến lược “đa dạng hóa và giảm rủi ro cho thu nhập hộ gia đình” (Massey, 1994)
Nghiên cứu của UNDP (1998) cũng cho thấy những người di cư có sự đóng góp nhất định cho kinh tế hộ gia đình. Tuy nhiên nghiên cứu này chỉ cho thấy mức độ đóng góp chủ yếu tập trung vào những hộ trung bình, những hộ nghèo, hộ khá và giàu thì hầu như thu nhập không tăng mấy. Nghiên cứu không lý giải vì sao mà chỉ dừng lại ở việc mô tả sự khác biệt của mức đóng góp giữa các nhóm hộ có người di cư.
Một lý thuyết nghiên cứu nổi tiếng trong việc nghiên cứu về di cư đó là lý thuyết của Lee: Lee (1966) lập luận rằng quyết định di cư được dựa trên 4 nhóm dân tố, một là các nhân tố gắn bó với nơi ở gốc, hai là các yếu tố gắn với nơi sẽ đến, ba là các trở ngại di cư, và bốn là các nhân tố thuộc về người di cư. Mỗi một địa điểm, nơi gốc và nơi đến đều có những ưu điểm và hạn chế trên nhiều lĩnh vực như thu nhập, việc làm, nhà ở, phúc lợi xã hội, giáo dục, chăm sóc sức khỏe, thậm chí là khí hậu…sẽ được người định cư cân nhắc. Thông thường, các điều kiện kinh tế khó khăn ở nơi gốc là nhân tố “đẩy” chủ yếu của việc xuất cư, trong khi cải thiện điều kiện kinh tế của nơi đến là nhân tố “hút” quan trọng nhất của việc nhập cư. Việc đưa ra quyết định định cư còn được tính toán dựa trên các chi phí vật chất và tinh thần, mà khoảng cách địa lí là một vấn đề quan trọng nhất vì điều này không chỉ tăng chi phí vận chuyển mà còn tăng các chi phí vô hình do phải đối mặt với môi trường xa lạ, khó hội nhập. Cuối cùng việc di cư phụ thuộc vào những phẩm chất cá nhân của từng người, điều này nhà nghiên cứu thường gọi là tính chọn lọc di cư (migration selectivity). Lý thuyết của Lee là rất có ích cho việc nghiên cứu nhân tố vĩ mô và cả vi mô của di cư (Lê Thanh Sang, 2008). Ngoài ra, Lee còn phân tích một số các yếu tố khác ảnh hưởng đến việc di dân. Đó là nhận thức, sự thông minh, hiểu biết của người di cư qua kinh nghiệm bản thân hay qua các kênh thông tin đại chúng, qua bạn bè, họ hàng… Đây là điều mà các lý thuyết trước đó ít đề cập tới.
Lí thuyết phân tích mạng lưới xã hội (Social Network Analysis Theory) là một cách tiếp cận nhằm phân tích các vấn đề về mạng lưới xã hội. Khái niệm cơ bản trong hệ thống xã hội (social system), nếu cấu trúc xã hội (social structure) thường được xem như là cột dọc thì mạng lưới xã hội là các kèo ngang. Ronald Burt với lý thuyết lỗ hổng cấu trúc (structure holes) đã đưa ra ví dụ điển hình là trong mối quan hệ ba người (A quan hệ với B, B quan hệ với C, nhưng A không quan hệ với C). Ở mối quan hệ này, B là kẻ nắm được lỗ hổng cấu trúc giữa A và C và tạo khả năng thu lợi, tạo vốn xã hội (social capital) thông qua vai trò điều phối, kết nối cho các tác nhân còn lại. Nan Lin – lí thuyết về di động xã hội, các cá nhân tìm kiếm lợi nhuận trong mạng lưới xã hội thông qua sự di động xã hội. Miller McPherson, Lynn Smith-Lovin và James M.Cook – lí thuyết đồng dạng. Các cá nhân giống nhau thường xảy ra khả năng liên kết cao hơn so với các cá nhân khác nhau. Nhà xã hội học Mỹ James Cook nhấn mạnh: “Mạng xã hội là một hình ảnh thống nhất và được đơn giản hoá trong lĩnh vực xã hội học đầy phức tạp và phân tán. Đó là sự mô tả cụ thể về cấu trúc xã hội trừu tượng, có khả năng hiện hữu hoá những nguồn lực xã hội không nhìn thấy. Mặc dù các mạng xã hội đều đơn giản chỉ được thực hiện bằng các nút và dây nối, chúng vẫn đủ linh động để mô tả các quan hệ của quyền lực và sự tương tác cung cấp một nền tảng vi mô của xã hội học”.
Những lý thuyết kể trên góp phần chỉ ra hiện tượng di cư là một quy luật tất yếu của quá trình phát triển, biến đổi xã hội. Chính vì lý do trên mà nó đã tác động lớn tới đời sống của người dân tại nhiều khu vực, quốc gia khác nhau trên thế giới. Đặc biệt là người dân khu vực tại nơi đến và đi.
2.2. Tác động của vấn đề di cư đến nông thôn
Ở tầm vĩ mô về di cư, theo lý thuyết của Ravenstein (1889) về qui luật di cư, ông cho rằng đa số di dân di chuyển ở phạm vi ngắn, một số sẽ di chuyển xa là di chuyển đến các thành phố lớn, thương mại, di cư diễn ra trong nhiều giai đoạn. Quá trình đô thị hóa thu hút dân số từ các vùng ngoại ô vào trung tâm. Khoảng trống vùng ngoại vi sẽ được lấp đầy cư dân vùng khác đến. Cư dân ở trung tâm nhỏ sẽ chuyển đến trung tâm lớn hơn. Cứ như vậy, quá trình di cư diễn ra theo nhiều giai đoạn kế tiếp theo hướng di chuyển về trung tâm đô thị lớn. Thông thường các trung tâm thương mại, công nghiệp lớn sẽ thu hút những vùng xung quanh và vùng xa hơn. Mỗi dòng di cư sẽ tạo ra dòng di cư ngược lại. Mức di cư nông thôn có xu hướng cao hơn mức di cư ở các đô thị. Di cư tăng lên theo trình độ phát triển kỹ thuật. Kinh tế là nhân tố quan trọng nhất di cư, mặc dù môi trường xã hội, luật lệ… có ảnh hưởng nhất định. Đây là lý thuyết vĩ mô cho cái nhìn tổng quát về các nguyên dân của di dân đến các trung tâm thương mại, công nghiệp, tạo tiền đề cho các nghiên cứu khác.
Di dân góp phần vào giải quyết tình trạng thiếu việc làm và thiếu lao động, dân di cư còn là những “cầu nối”, không những đóng góp cho sự phát triển của nơi đến mà còn cho cả nơi đi thông qua việc chuyển tiền, hàng hóa, phổ biến kiến thức và công nghệ cho những người ở quê. Các kết quả phân tích 2004 VMS cũng như một số nghiên cứu khác (GSO và UNFPA, 2005: 139) đã cho thấy rõ điều này. Kết quả nghiên cứu nhóm dân di chuyển tạm thời cũng cho thấy dân di cư tham gia nhiều vào mạng lưới xã hội và nhận được sự hỗ trợ cũng như đóng góp cho mạng lưới này ở cả đầu đi và đầu đến: trong số dân di cư sinh sống tại các nhà trọ, hơn 90% có người thân sống ở quê, 32% nhận được sự giúp đỡ ở nơi đến và 40% có giúp đỡ kinh tế cho những người thân sống ở quê (Viện xã hội học và đối tác, 1998). Với di dân quốc tế, lượng lao động xuất khẩu tăng nhanh và lượng kiều hối gửi về nước càng lớn. Trong năm 1996 và 1997, số tiền gửi về mỗi năm là 350 triệu đô la Mỹ thì trong năm 1999 con số này đã tăng lên 1 tỷ đô la Mỹ và năm 2003 là 1,5 tỷ đô la Mỹ (Trần Nguyên, 2004: trang 9).
Như vậy, các bằng chứng hiện có ở trên cho thấy di dân