Đề tài Bài tập - Biện pháp rèn luyện kỹ năng đặt vấn đề vào bài học

Soạn giáo án là một khâu rất quan trọng và không thể thiếu khi một người giáo viên muốn hoàn thành tốt tiết dạy. Giáo án là một kim chỉ nam đối giáo viên, để theo đó mà đi đúng hướng, đúng đối tượng để truyền đạt nội dung bài học tới học sinh. Đặc biệt là đối với môn sinh học, một môn đòi hỏi cả vừa lý thuyết, vừa thực hành, vì vậy là một sinh viên sư phạm sinh học thì chúng ta phải không ngừng nỗ lực tìm tòi, nghiên cứu các biện pháp và tài liệu nhằm hoàn thiện kỹ năng soạn bài sinh học. Với kỹ năng soạn giáo án đòi hỏi người soạn vận dụng được những tri thức thu nhận được trong một lĩnh vực chuyên môn mà cụ thể ở đây là kiến thức sinh học để ứng dụng vào việc soạn bài học nhằm đạt được mục tiêu giáo dục đã đề ra, trong đó bài tập giúp người học hiểu rõ những kỹ năng ấy, biết phân tích và vận dụng những kỹ năng ấy vào công việc soạn bài. Khi đã có kỹ năng trong soạn giáo án thì điều đó là chưa đủ bởi vấn đề còn ở cách diễn đạt, vận dụng trong bài tập và biết tóm tắt một cách khái quát. Chỉ thông qua việc giải các bài tập rèn luyện kỹ năng soạn bài sinh học dưới các hình thức khác nhau mới tạo điều kiện cho sinh viên vận dụng kiến thức đã học để giải quyết các tình huống cụ thể thì khi đó kiến thức đó mới trở nên sâu sắc và hoàn thiện.Vì vậy có thể nói bài tập rèn luyện kỹ năng soạn bài sinh học là một biện pháp rất tốt để rèn luyện kỹ năng soạn bài học nói chung và soạn bài sinh học nói riêng, trong đó kỹ năng đặt vấn đề vào bài cũng là một kỹ năng cần rèn luyện. Vì những lý do trên mà tôi mạnh dạn chọn đề tài “Bài tập - Biện pháp rèn luyện kỹ năng đặt vấn đề vào bài học” nhằm nâng cao kỹ năng đặt vấn đề vào bài và một phần nào đó nâng cao kỹ năng soạn bài sinh học

doc37 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2770 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bài tập - Biện pháp rèn luyện kỹ năng đặt vấn đề vào bài học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành được bài tiểu luận này với đề tài “Bài tập - Biện pháp rèn luyện kỹ năng đặt vấn đề vào bài học”, bên cạnh sự nổ lực của bản thân đã vận dụng những kiến thức tiếp thu được ở trường, tìm tòi học hỏi cũng như thu thập thông tin, tài liệu có liên quan đến đề tài, em luôn nhận được sự giúp đỡ, hướng dẫn tận tình của các thầy cô cùng với những lời động viên khuyến khích từ phía gia đình, bạn bè trong những lúc em gặp khó khăn. Em xin gửi lời cảm ơn đến Ban chủ nhiệm khoa Sinh trường ĐHSP Huế. Em xin chân thành cảm ơn Cô Trịnh Đông Thư, người đã hướng dẫn em làm bài tiểu luận này, cô đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và là nguồn động lực quan trọng để em hoàn thành bài tiểu luận này. Em xin cảm ơn cô. Xin cảm ơn các bạn học học phần “Rèn luyện kỹ năng soạn bài sinh học” đã hỗ trợ mình hoàn thành bài tiểu luận này. Với thời gian và khả năng còn hạn chế, bài tiểu luận này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận được sự góp ý chân tình từ các thầy cô và các bạn. Huế, tháng 12 năm 2013 Sinh viên thực hiện Lê Khánh Vũ Phần I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1.Lý do chọn đề tài Soạn giáo án là một khâu rất quan trọng và không thể thiếu khi một người giáo viên muốn hoàn thành tốt tiết dạy. Giáo án là một kim chỉ nam đối giáo viên, để theo đó mà đi đúng hướng, đúng đối tượng để truyền đạt nội dung bài học tới học sinh. Đặc biệt là đối với môn sinh học, một môn đòi hỏi cả vừa lý thuyết, vừa thực hành, vì vậy là một sinh viên sư phạm sinh học thì chúng ta phải không ngừng nỗ lực tìm tòi, nghiên cứu các biện pháp và tài liệu nhằm hoàn thiện kỹ năng soạn bài sinh học. Với kỹ năng soạn giáo án đòi hỏi người soạn vận dụng được những tri thức thu nhận được trong một lĩnh vực chuyên môn mà cụ thể ở đây là kiến thức sinh học để ứng dụng vào việc soạn bài học nhằm đạt được mục tiêu giáo dục đã đề ra, trong đó bài tập giúp người học hiểu rõ những kỹ năng ấy, biết phân tích và vận dụng những kỹ năng ấy vào công việc soạn bài. Khi đã có kỹ năng trong soạn giáo án thì điều đó là chưa đủ bởi vấn đề còn ở cách diễn đạt, vận dụng trong bài tập và biết tóm tắt một cách khái quát. Chỉ thông qua việc giải các bài tập rèn luyện kỹ năng soạn bài sinh học dưới các hình thức khác nhau mới tạo điều kiện cho sinh viên vận dụng kiến thức đã học để giải quyết các tình huống cụ thể thì khi đó kiến thức đó mới trở nên sâu sắc và hoàn thiện.Vì vậy có thể nói bài tập rèn luyện kỹ năng soạn bài sinh học là một biện pháp rất tốt để rèn luyện kỹ năng soạn bài học nói chung và soạn bài sinh học nói riêng, trong đó kỹ năng đặt vấn đề vào bài cũng là một kỹ năng cần rèn luyện. Vì những lý do trên mà tôi mạnh dạn chọn đề tài “Bài tập - Biện pháp rèn luyện kỹ năng đặt vấn đề vào bài học” nhằm nâng cao kỹ năng đặt vấn đề vào bài và một phần nào đó nâng cao kỹ năng soạn bài sinh học của bản thân và của sinh viên sư phạm sinh học nói chung. 2.Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc sử dụng bài tập nhằm nâng cao kỹ năng soạn bài sinh học. 3.Đối tượng nghiên cứu - Hệ thống bài tập thường rèn luyện kỹ năng. - Các biện pháp giải các bài tập rèn luyện kỹ năng. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tìm hiểu vai trò của bài tập trong rèn luyện kỹ năng đặt vấn đề vào bài. - Hình thành những kỹ năng cơ bản trong soạn bài sinh học. - Nghiên cứu và tìm các biện pháp giải bài tập về các kỹ năng soạn bài sinh học. - Đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao kỹ năng soạn bài sinh học cho bản thân nói riêng và sinh viên sư phạm sinh học nói chung. 5. Phương pháp nghiên cứu - Sưu tầm các tài liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu cả về lý luận lẫn thực tiễn để có những thông tin chính xác nhất. - Nghiên cứu nội dung các bài sinh học lớp 10, lớp 11 và lớp 12 để giải các bài tập. - Truy cập internet để lấy thêm tư liệu bổ sung ngoài những tài liệu trên để có thêm sự mở rộng vấn đề. - Thăm dò thêm ý kiến bạn bè và các phương tiện truyền thông khác. 6. Cấu trúc tiểu luận. Phần I: Mở đầu. Phần II: Nội dung. Chương 1: Cơ sở lý luận của bài tập trong rèn luyện kỹ năng đặt vấn đề vào bài. Chương 2: Sử dụng bài tập để rèn luyện kỹ năng đặt vấn đề vào bài. Phần III: Kết luận và đề nghị. Tài liệu tham khảo. Phần II: NỘI DUNG Chương 1: Cơ sở lý luận của bài tập trong rèn luyện kỹ năng đặt vấn đề vào bài. 1.1.Khái niệm về bài tập. 1.1.1.Bài tập là gì? Theo từ điển tiếng Việt, bài tập là bài ra để luyện tập, vận dụng kiến thức đã học. Theo từ điển tiếng Anh, bài tập (exercise) được hiểu là một vấn đề khó yêu cầu cần được giải quyết. Theo từ điển tiếng Pháp, bài tập (exercice) là vấn đề, câu hỏi giáo khoa chứa đựng mâu thuẫn cần giải quyết. Các định nghĩa nêu trên về bài tập, tuy ngôn ngữ diễn đạt có khác nhau nhưng đều có chung dấu hiệu bản chất là một yêu cầu cho một chủ thể nào đó phải thực hiện bằng hoạt động tư duy, hoạt động chân tay hoặc gồm cả hai hoạt động đó. Trong dạy học, người học được giáo viên giao cho các bài thực hành, các câu hỏi, các bài toán,… Như vậy bài toán, câu hỏi, bài thực hành,… theo các dấu hiệu nêu trên chúng tôi xếp vào phạm trù bài tập. Như vậy bài tập, bài toán, hay câu hỏi là động lực, là công cụ để con người tư duy. Là động lực vì bài toán, câu hỏi (những yếu tố có chức trong bài tập) khi được trở thành một mâu thuẩn chủ quan (mâu thuẩn khách quan được chủ thể ý thức được) sẽ xuất hiện, kích thích gây động cơ tìm lời giải. Là công cụ vì trong bài tập khi đã chứa đựng câu hỏi, bài toán hay chứa yếu tố xuất hiện bài toán, câu hỏi thì tự nó bao gồm cả điều chủ thể đã biết và điều chủ thể chưa biết trong mối quan hệ logic. Mối quan hệ đó là công cụ định hướng, tìm tòi của chủ thể nhận thức. Như vậy bài tập để rèn luyện kỹ năng được xem như là một nhiệm vụ cụ thể giao cho người học giải quyết để giúp cho người học trao dồi kỹ năng. Khái niệm bài tập được định nghĩa khác nhau tùy theo việc lựa chọn dấu hiệu bản chất tương thích với mục đích sử dụng, hình thức diễn đạt, cấu trúc logic giữa các yếu tố cấu thành bài tập. Nếu bài tập được xét như một hình thức thuộc phạm trù logic thì khi đó nó có mối quan hệ giống, loài với bài toán, vấn đề. Nếu bài tập được hiểu như một công việc được giao cho mỗi chủ thể thực hiện thì câu hỏi, bài toán, bài luyện tập đều được hiểu đồng nhất với bài tập. Và bài tập được chúng tôi thiết kế, sử dụng bao gồm cả hai cách hiểu trên. Chúng tôi thiết kế những bài toán mà trước khi thực hiện hành động kỹ năng sinh viên phải phân tích tình huống hành động để xác định hành động cấu thành kỹ năng đó. Lúc đó một sản phẩm trung gian xuất hiện như một trạng thái tâm lí ở sinh viên là câu hỏi có vấn đề. Đó là loại bài tập thuộc cách hiểu thứ nhất. Loại bài tập khác chỉ là những lệnh yêu cầu thực hiện hành độngtập dượt kỹ năng. Đó là bài tập thuộc cách hiểu thứ hai. 1.1.2. Phân loại hệ thống bài tập. Hệ thống bài tập hiện nay rất đa dạng và phong phú, đặc biệt đối với các môn khoa học tự nhiên. Có khá nhiều cách phân loại về bài tập dựa trên nhiều cơ sở khác nhau. Tuy nhiên việc phân loại phải dựa vào những tiêu chí nhất định. Đối với hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng, các tiêu chí để phân loại phải thỏa mãn các yêu cầu sao cho vừa phản ánh dấu hiệu đặc trưng mang bản chất nhận thức luận của bài tập, lại vừa phản ánh nội dung của kỹ năng soạn bài mà nó có thể được dùng để rèn luyện. Có như vậy bài tập mới có khả năng thực hiện hai chức năng có tác động tương hỗ là: chức năng kích thích tự học, tích cực, sáng tạo của người học và chức năng rèn luyện một loại kỹ năng dạy học nhất định. Do bài học có các kiểu khác nhau: bài học nghiên cứu tài liệu mới, bài học hoàn thiện tri thức, và bài học kiểm tra đánh giá, nếu các kỹ năng soạn mỗi kiểu bài cũng khác nhau và từ đó hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng phụ thuộc và chịu sự chi phối của hệ thống kỹ năng cần rèn luyện. Trong số các kỹ năng có nhiều kỹ năng phải thực hiện ở tất cả các kiểu bài học, lại có những kỹ năng chỉ thực hiện ở một hay vài kiểu nhất định. Nên khó để có một cách phân loại phản ánh được hết các dấu hiệu phân biệt giữa các loại. Từ hệ thống kỹ năng, chúng tôi phân ra ba loại bài tập theo ba nhóm kỹ năng, bao gồm các nhóm bài tập sau: Các bài tập rèn luyện kỹ năng phân tích nội dung bài học. Các bài tập rèn luyện kỹ năng xác định phương pháp dạy học. Các bài tập rèn luyện kỹ năng ra bài kiểm tra và lập đáp án. Từ đó tên gọi của từng bài tập cụ thể sẽ là tên gọi của kỹ năng tương ứng. Với mỗi bài tập rèn luyện kỹ năng thực hiện các kiểu bài học thì tên gọi có thể gắn thêm đuôi phản ánh kiểu bài tương ứng. 1.1.3.Cách giải bài tập, bài toán. Theo G. Polya, bài tập được thực hiên theo bốn bước sau đây: 1. Hiểu rõ bài tập 2. Xây dựng một chương trình với ba bước nhỏ a.Tìm sự liên hệ giữa các dữ kiện với cái chưa biết b.Có thể phải xét đến các bài toán phụ c.Xây dựng chương trình và cách giải 3.Thực hiện chương trình dự kiến 4. Khảo sát lời giải đã tìm được Vận dụng tư tưởng của G. Polya về phương pháp giải bài toán để ứng dụng vào trong dạy học bộ môn như là những gợi ý để giúp cho sinh viên có định hướng để tìm ra lời giải một cách có hiệu quả. Và khi sinh viên ra trường tiếp nối công việc đào tạo thì chính họ sẻ rèn luyện lại những kỹ năng đó cho học sinh của mình. 1.2.Yêu cầu chung của bài tập. Phù hợp với trình độ người học. Bài tập được xây dựng trên cơ sở những tình huống xảy ra trong dạy học hoặc cũng có thể là các tình huống được tạo ra bằng sự gia công sư phạm của người dạy. Bài tập đặt ra phải tập dượt được các hành động cấu thành kỹ năng. Bài tập ngoài việc hướng vào rèn luyện kỹ năng thì cần phải định hướng cho sinh viên biết cách rèn luyện lại chính kỹ năng đó cho học sinh. Bài tập phải mã hóa một nhiệm vụ cụ thể mà giáo viên đã định trước để sao cho khi hoàn thành bài tập thì nhiệm vụ đó cũng được giải quyết. Nội hàm của bài tập phải chú trọng đến việc rèn luyện các kỹ năng cần thực hiện khi soạn bài. Trình tự của các bài tập đưa ra phải tuân theo trình tự logic cấu trúc với các hoạt động mà giáo viên thực hiện khi phân tích một bài học. 1.2.1.Bài tập rèn luyện kỹ năng đặt vấn đề vào bài. Bài tập đặt ra phải tập dượt được các hành động cấu thành kỹ năng trên. Hiệu quả tập dượt của bài tập phụ thuộc nhiều vào khả năng kích thích tìm tòi của sinh viên và tập dượt được nhiều hành động cấu thành kỹ năng và do đó sẽ trực tiếp nâng cao kỹ năng soạn giáo án cho sinh viên. Điều đó cũng có nghĩa là bài tập phải được gia công sư phạm từ những tình huống thường diễn ra trong thực tiễn dạy học. 1.2.2.Bài tập rèn luyện kỹ năng lựa chọn ví dụ để dạy học. Bài tập phải rèn luyện được những hành động cấu thành kỹ năng nêu trên. Bài tập yêu cầu sinh viên vừa tìm ví dụ, sử dụng ví dụ, vừa phải tổ chức cho học sinh tìm ví dụ trong quá trình thực hiện bài học. Bài tập rèn luyện sinh viên kỹ năng sử dụng ví dụ phải có tỷ trọng đáng kể vì họ phải biết sử dụng trong các tình huống sư phạm khác nhau (minh họa, vận dụng kiến thức, logic hoạt động nhận thức) 1.3.Vai trò của bài tập Việc giảng dạy sinh học trong nhà trường không chỉ giúp sinh viên hiểu được một cách sâu sắc và đầy đủ những kiến thức quy định trong chương trình mà còn giúp vận dụng những kiến thức đó để giải quyết những nhiệm vụ của học tập và những vấn đề mà thực tiễn đã đặt ra. Muốn đạt được diều đó, phải thường xuyên rèn luyện cho sinh viên những kỹ năng, kỹ xảo vận dụng kiến thức vào cuộc sống hằng ngày. Kỹ năng vận dụng kiến thức trong bài tập và trong thực tiễn đời sống chính là thước đo mức độ sâu sắc và vững vàng của những kiến thức mà sinh viên đã thu nhận được. Bài tập rèn luyện kỹ năng soạn bài sinh học với chức năng là một phương pháp dạy học có một vị trí đặc biệt trong dạy sinh viên học ở trường Sư phạm. Trước hết, rèn luyện kỹ năng soạn bài sinh học là một môn học giúp sinh viên nắm được các kỹ năng cần thiết trong soạn bài và bài tập rèn luyện kỹ năng soạn bài sinh học giúp sinh viên hiểu rõ những kỹ năng ấy, biết phân tích và vận dụng những kỹ năng ấy vào thực tiễn. Trong nhiều trường hợp mặt dù người giáo viên có trình bày tài liệu một cách mạch lạc, hợp logic, phát biểu định luật chính xác, làm thí nghiệm đúng yêu cầu, qui tắc và có kết quả chính xác thì đó chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ để sinh viên hiểu và nắm sâu sắc kiến thức. Chỉ thông qua việc giải các bài tập rèn luyện kỹ năng soạn bài sinh học dưới hình thức này hay hình thức khác nhằm tạo điều kiện cho sinh viên vận dụng kiến thức đã học để giải quyết các tình huống cụ thể thì kiến thức đó mới trở nên sâu sắc và hoàn thiện. Trong quá trình giải quyết các tình huống cụ thể do các bài tập rèn luyện kỹ năng soạn bài sinh học đặt ra, sinh viên phải sử dụng các thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa , trừu tượng hóa…để giải quyết vấn đề, do đó tư duy của sinh viên có điều kiện để phát triển. Vì vậy có thể nói bài tập rèn luyện kỹ năng soạn bài sinh học là một phương tiện rất tốt để phát triển tư duy, óc tưởng tượng, khả năng độc lập trong suy nghĩ và hành động, tính kiên trì trong việc khắc phục những khó khăn trong cuộc sống của sinh viên. Bài tập rèn luyện kỹ năng soạn bài sinh học là cơ hội để giáo viên đề cập đến những kiến thức mà trong giờ học lý thuyết chưa có điều kiện để đề cập qua đó nhằm bổ sung kiến thức cho sinh viên. 1.4.Quá trình hình thành kỹ năng. 1.4.1. Sự hình thành kỹ năng. Thực tế của việc hình thành kỹ năng là hình thành cho học sinh nắm vững một hệ thống phức tạp các thao tác nhằm biến đổi và sáng tỏ những thông tin chứa đựng trong bài tập, trong nhiệm vụ và đối chiếu chúng với những hành động cụ thể. Vì vậy khi hình thành kỹ năng cần phải: Giúp học sinh tìm tòi để nhận ra các yếu tố đã cho, yếu tố phải tìm và mối quan hệ giữa chúng. Giúp học sinh hình thành một mô hình khái quát để giải quyết các bài tập, các đối tượng cùng loại. Xác lập được mối liên quan giữa bài tập mô hình khái quát và kiến thức tương ứng. 1.4.2.Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành kỹ năng. Việc hình thành kỹ năng phụ thuộc vào khả năng nhận dạng kiểu nhiệm vụ, bài tập, tức là tìm kiếm phát hiện những thuộc tính và quan hệ vốn có trong nhiệm vụ hay bài tập để thực hiện một mục đích nhất định. Cụ thể kỹ năng chịu tác động bởi những nhân tố sau: Nội dung của bài tập hay nhiệm vụ đặt ra được trừu tượng hóa sẵn sàng hay bị che phủ bởi những yếu tố phụ làm lệch hướng tư duy có ảnh hưởng đến sự hình thành kỹ năng. Tâm thế và thói quen cũng ảnh hưởng đến sự hình thành kỹ năng. Vì thế tạo ra tâm thế thuận lợi trong học tập sẽ giúp cho học sinh dễ dàng trong việc hình thành kỹ năng. Có khả năng khái quát hóa đối tượng một cách cụ thể. 1.4.3.Quy trình rèn luyện kỹ năng. Theo Geoffrey (1998) quy trình chung để hình thành kỹ năng gồm 8 bước như sau: Giải thích (Explation) Giáo viên giúp cho học sinh hiểu và ý thức được một số vấn đề đó là: Tại sao phải hình thành kỹ năng đó? Vị trí của kỹ năng đó trong hoạt động nghề nghiệp tương lai? Kỹ năng đó liên quan đến những kiến thức lý thuyết nào đã học? Có thể kiểm tra thăm dò xem học sinh đã biết chút gì về kỹ năng sắp học hay chưa? Làm chi tiết (Doing-Detail) Học sinh được xem trình diễn mẫu một cách chi tiết, chính xác để có một mô hình bắt chước làm theo. Mẫu nào có thể do giáo viên trình diễn hoặc học sinh được xem băng hình. Cần tạo cơ hội cho học sinh nắm bắt những chi tiết mấu chốt của kỹ năng như cho băng hình quay chậm hoặc dừng lại và giáo viên đặt câu hỏi gợi mở để học sinh phát hiện ra những chi tiết quan trọng nhất. Sử dụng kinh nghiệm mới học (Use) Học sinh tự làm theo mẫu đã được xem. Kiểm tra và hiệu chỉnh (Check and correct) Tốt nhất là tạo cơ hội để học sinh tự kiểm tra, phát hiện những chổ sai lầm của chính mình và biết cần hiệu chỉnh những chổ nào. Để tránh học sinh lặp lại những chỗ sai lầm thành thói quen khó sửa, giáo viên cần giám sát, giúp đỡ nếu học sinh không tự phát hiện được, nhất là đối với những kỹ năng phức tạp, cao cấp. Hỗ trợ trí nhớ (Aide Mesmoire) Học sinh cần có những phương tiện giúp đỡ việc ghi nhớ những điểm then chốt, ví dụ phiếu ghi nhớ tóm tắt, tờ rơi ghi sơ đồ các thao tác, băng ghi âm, ghi hình. Ôn tập và sử dụng lại (Review and Reuse) Đây là việc cần thiết để củng cố những kỹ năng đã học được. Đánh giá (Evaluation) Đây là khâu đánh giá do người đào tạo thực hiện, xem học sinh đã đạt yêu cầu hay chưa. Việc đánh giá có thể tiến hành một cách chính thức hoặc kín đáo nhưng phải phát hiện đúng những người đã đạt yêu cầu để có trách nhiệm đào tạo, bổ sung. Thắc mắc (?) Học sinh có nhu cầu làm rõ những điều họ chưa hiểu. Họ có thể nêu câu hỏi vào bất kỳ lúc nào trong quá trình học. Giáo viên nên tạo mọi cơ hội để học sinh có thể hỏi và kiểm tra các thao tác thực hành kỹ năng của học sinh cũng như trả lời thắc mắc của các em. Chương 2: Sử dụng bài tập để rèn luyện kỹ năng đặt vấn đề vào bài. 2.1.Thực hành kỹ năng đặt vấn đề vào bài 2.1.1.Ý nghĩa của kỹ năng Đặt vấn đề vào bài có nhiều cách làm khác nhau, nhưng đều hướng tới mục đích quan trọng nhất là lôi cuốn người học vào hoạt động tìm tòi khoa học và giúp họ chuẩn bị một tâm thế sẳn sàng tiếp thu bài mới. 2.1.2.Yêu cầu của kỹ năng - Trước khi giảng bài mới, đặt vấn đề vào bài làm cho tiết học trở nên sinh động, hiệu quả và gây hứng thú cho học sinh. Muốn vậy nội dung vào bài phải vừa hướng vào nghiên cứu trọng tâm bài học, vừa kích thích tìm tòi cái mới đối với học sinh. - Đặt vấn đề vào bài có thể bằng nhiều hình thức khác nhau: + Đặt vấn đề trực tiếp bằng cách nêu lên vai trò quan trọng của bài học. + Đặt vấn đề bằng cách chuyển tiếp thông qua việc kế thừa kiến thức của bài trước hoặc cũng có thể bằng cách ra câu hỏi, bài tập cho học sinh để vừa kiểm tra kiến thức đã học vừa làm xuất hiện nhu cầu tìm cái mới có liên quan đến nội dung học đã học, + Đặt vấn đề bằng cách đưa ra tình huống có vấn đề. + Đặt vấn đề bằng một câu hỏi trắc nghiệm với nhiều phương án khác nhau và giải quyết nội dung bài học là tìm ra phương án đúng. - Nội dung phần đặt vấn đề không nên quá dài mất nhiều thời gian mà chỉ trình bày một cách cô đọng, súc tích. Các ý chính nên diễn đạt rõ ràng. Nếu vào bài bằng cách giới thiệu trực tiếp thì các ý phải là những móc xích liên quan với nhau đồng thời mang tính hệ thống và nên kế thừa được kiến thức của những bài học trước. - Nếu vào bài bằng một tình huống có vấn đề thì nội dung phải chứa đựng mâu thuẩn. Thật ra không phải bài nào cũng có thể đặt vấn đề bằng cách này mà còn phải tùy thuộc vào nội dung của từng bài để có cách làm phù hợp. 2.1.3.Các hoạt động cấu thành kỹ năng Xác định nội dung trọng tâm của bài Tìm những mối quan hệ giữa nội dung đó với kiến thức đã có ở học sinh và với những hiện tượng trong đời sống tự nhiên, xã hội. Trên cơ sở những mối quan hệ đó tạo ra tình huống nhận thức hoặc các yêu cầu cần nhận thức khi nghiên cứu nội dung bài học. Phát biểu tình huống đó bằng một vấn đề hoặc một nhiệm vụ nhận thức. 2.1.4.Bài tập rèn luyện kỹ năng Bài tập 1: Giả sử có một vài tính huống được đặt ra như sau: Quá trình trao đổi chất và năng lượng mang tính chọn lọc, có ý nghĩa là mỗi sinh vật thích nghi với một kiểu trao đổi chất nhất định. Vậy nhờ đâu mà con người có thể đồng hóa các loại thức ăn đa dạng một cách nhanh chóng như vậy? Tại sao ngoài sự thích nghi của bộ máy tiêu hóa, một số động vật chỉ tiêu hóa được cỏ, một số động vật ăn thịt và con người có thể tiêu hóa được các dạng thức ăn khác nhau? Tại sao để phân hủy cùng một khối lượng thức ăn như nhau thì ở bên ngoài môi trường phải mất rất nhiều thời gian hơn so với bên trong cơ thể? Trong sản xuất, muốn đưa nước được từ vùng thấp đến vùng cao người ta phải sử dụng động cơ (máy bơm). Đối với cây xanh, quá trình trên được thực hiện liên tục. Vậy động cơ nào để giúp cho cây xanh thực hiện được điều đó? Anh ( chị) hãy: Tìm các bài học trong chương trình sinh học phổ thông có thể sử dụng các tình huống trên làm phần đặt vấn đề vào bài mới. Đề xuất một cách đặt vấn đề khác cho các bài học trên. Trả lời: Các bài học trong chương trình có thể sử dụng các tình huống trên để đặt vấn đề cho bài mới: Tình huống 1: Bài 15 - Tiêu hóa (SH11 - NC), Bài 22 - Enzim và vai trò enzim trong chuyển hóa