Kinh tế ngày càng phát triển thì những vấn đề xã hội cũng ngày một phức
tạp hơn. Cùng với sự phát triển không ngừng của các lĩnh vực như văn hóa, công
nghệ khoa học kĩ thuật thì ngành luật ở Việt Nam cũng không ngừng hoàn
thiện để phục vụ cuộc sống. Các điều luật không chỉ gói gọn trong khuôn khổ
chật hẹp tàn dư chế độ cũ với những e ngại về ảnh hưởng đến những vấn đề nhạy
cảm mà đã hoàn toàn thay đổi, hay nói cách khác chúng ta đã dám đối mặt với
những yêu cầu mà cuộc sống đề ra chứ không còn e dè trong bế tắc nữa. Một
trong những biểu hiện cụ thể nhất là quyền nhân thân, quyền con người đã được
quan tâm một cách sâu sắc. Đặc biệt là các quyền như hiến bộ phận cơ thể, hiến
bộ phận cơ thể hay hiến xác sau khi chết, quyền nhận bộ phận cơ thể, quyền xác
định lại giới tính lần đầu tiên xuất hiện trong Bộ luật dân sự nước ta năm 2005.
Khi mà nhu cầu được cấy ghép bộ phận cơ thể luôn ở mức cao, tỉ lệ cho chỉ bằng
phần một phận rất nhỏ nhu cầu thì những những qui định của pháp luật về vấn
đề này càng đáng quan tâm hơn và cần có những nghiên cứu mang tính chất tổng
quát.
17 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3878 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Bài tập lớn môn Luật Dân sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài tập lớn học kỳ môn Luật Dân sự I
Nguy n Th Kim Cúc – 351823 – Lớp N02 1
Đề tài: “Bài tập lớn môn Luật Dân sự”
Bài tập lớn học kỳ môn Luật Dân sự I
Nguy n Th Kim Cúc – 351823 – Lớp N02 2
LỜI MỞ ĐẦU:
Kinh tế ngày càng phát triển thì những vấn đề xã hội cũng ngày một phức
tạp hơn. Cùng với sự phát triển không ngừng của các lĩnh vực như văn hóa, công
nghệ khoa học kĩ thuật…thì ngành luật ở Việt Nam cũng không ngừng hoàn
thiện để phục vụ cuộc sống. Các điều luật không chỉ gói gọn trong khuôn khổ
chật hẹp tàn dư chế độ cũ với những e ngại về ảnh hưởng đến những vấn đề nhạy
cảm mà đã hoàn toàn thay đổi, hay nói cách khác chúng ta đã dám đối mặt với
những yêu cầu mà cuộc sống đề ra chứ không còn e dè trong bế tắc nữa. Một
trong những biểu hiện cụ thể nhất là quyền nhân thân, quyền con người đã được
quan tâm một cách sâu sắc. Đặc biệt là các quyền như hiến bộ phận cơ thể, hiến
bộ phận cơ thể hay hiến xác sau khi chết, quyền nhận bộ phận cơ thể, quyền xác
định lại giới tính…lần đầu tiên xuất hiện trong Bộ luật dân sự nước ta năm 2005.
Khi mà nhu cầu được cấy ghép bộ phận cơ thể luôn ở mức cao, tỉ lệ cho chỉ bằng
phần một phận rất nhỏ nhu cầu thì những những qui định của pháp luật về vấn
đề này càng đáng quan tâm hơn và cần có những nghiên cứu mang tính chất tổng
quát.
Bài tập lớn học kỳ môn Luật Dân sự I
Nguy n Th Kim Cúc – 351823 – Lớp N02 3
NỘI DUNG:
1.Thực trạng quyền cho và nhận bộ phận cơ thể ở Việt Nam:
1.1.Thực trạng pháp luật:
BLDS 1995 quy định trên tinh thần "Công dân được làm những gì phù hợp
với quy định pháp luật", còn BLDS 2005 thì quy định theo hướng "Công dân
được làm những gì pháp luật không cấm". Theo ông Đinh Trung Tụng, thứ
trưởng Bộ tư pháp: “BLDS 2005 thể hiện theo nguyên tắc các chủ thể QHDS
được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm và không trái với đạo đức xã
hội. Quy định như thế tạo thuận lợi cho các chủ thể khi tham gia vào các giao
dịch dân sự, kinh tế và các QHDS theo nghĩa rộng, có môi trường thoáng hơn,
người ta có thể làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm”, về vấn đề những
điểm khác biệt nổi bật trong Bộ luật dân sự 2005 so với Bộ luật dân sự năm 1995
Thứ trưởng nói: “Đây là sự bổ sung những quyền dân sự cơ bản của công dân
mới được quy định trong BLDS 2005. Trong BLDS 2005, các quyền nhân thân
của cá nhân có bổ sung hai quyền rất quan trọng là quyền được hiến bộ phận cơ
thể người, hiến xác, quyền được xác định lại giới tính. Đây là hai quyền dân sự
cơ bản mới, được quy định cụ thể trong BLDS 2005, nhưng cũng quy định có
tính nguyên tắc thôi. Đây là quyền của công dân, mọi người được hiến, được
nhận bộ phận cơ thể người vì mục đích chữa bệnh hoặc nghiên cứu khoa học.
Nghiêm cấm các hành vi nhằm mục đích kinh doanh, thương mại. Quyền xác
định lại giới tính cũng xác định cá nhân có quyền xác định lại giới tính trong
Bài tập lớn học kỳ môn Luật Dân sự I
Nguy n Th Kim Cúc – 351823 – Lớp N02 4
trường hợp có dị tật bẩm sinh hoặc giới tính chưa được định hình rõ”. Có thể
thấy rằng qui định về quyền hiến và nhận bộ phận cơ thể người là một quyền
mới, xuất phát trừ nhu cầu của xã hội và điều kiện khoa học công nghệ phát triển
nhanh chống hiện nay.
Điều 33. Quyền hiến bộ phận cơ thể
Cá nhân có quyền được hiến bộ phận cơ thể của mình vì mục đích chữa bệnh
cho người khác hoặc nghiên cứu khoa học
Điều 35. Quyền nhận bộ phận cơ thể người
Cá nhân có quyền nhận bộ phận cơ thể của người khác để chữa bệnh cho
mình.
Nghiêm cấm việc nhận, sử dụng bộ phân của người khác nhằm mục đích
thương mại
Như vậy ngay từ điều luật mang tính khái quát như điều 33 và 35, ta cũng
nhận thấy rằng việc hiến hoặc nhận là quyền của cá nhân, cá nhân có quyền được
hiến và nhận bộ phân cơ thể, và cũng thể hiện rõ mục đích của việc hiến bộ phận
cơ thể đó là vì chữa bệnh và nghiên cứu khoa học. Quyền hiến bộ phận cơ thể là
tiền đề để có quyền nhận bộ phận cơ thể. Quyền hiến bộ phận cơ thể là một
quyền nằm trong hệ thống quyền nhân thân cơ bản vì thế nó có đầy đủ đặc điểm
của một quyền nhân thân, đó là đặc điểm tính cá nhân tuyệt đối, không xác định
bằng tiền, quyền nhân thân không xác lập dựa vào các sự kiện pháp lí mà chúng
được xác định trực tiếp bằng qui định của pháp luật, là một loại quyền tuyệt đối.
Bài tập lớn học kỳ môn Luật Dân sự I
Nguy n Th Kim Cúc – 351823 – Lớp N02 5
Để có những qui định cụ thể về vấn đề này ngày 29 tháng 11 năm 2006 Quốc
hội khóa XI, kì họp thứ 10 đã thông qua Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể
người và hiến lấy xác số 75/2006/QH11.
Về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng:
Luật này quy định về hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy
xác; tổ chức, hoạt động của ngân hàng mô và Trung tâm điều phối quốc gia về
ghép bộ phận cơ thể người.
Luật này áp dụng đối với tổ chức, cá nhân Việt Nam, người Việt Nam định cư
ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài có liên quan đến hiến, lấy, ghép mô,
bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác tại Việt Nam.
Về các nguyên tắc trong việc hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và
hiến, lấy xác
Tự nguyện đối với người hiến, người được ghép.
Đây là nguyên tắc cơ bản nhất trong quyền hiến và nhân bộ phận cơ thể
con người. Là một quyền nằm trong hệ thống quyền nhân thân của công dân,
chính vì thế nó có đầy đủ các đặc điểm của một quyền nhân thân cơ bản. Tự
nguyên là bảm thân tự quyết định không bị ép buộc từ bất cứ cá nhân tổ chức
nào. Nó thể hiện quyền năng của chủ thể, hay nói cách khác là nó thể hiện ý chí
của chủ thể, hơn nữa quyền hiến bộ phận cơ thể luôn gắn liền với một chủ thể
nhất định và không thể dịch chuyển cho những chủ thể khác, theo đó quyền hiến
bộ phận cơ thể là quyền của một cá nhân, cá nhân đó có quyền được thể hiện ý
chí của mình, quyền này không thể để cho người nào khác quyết định thay. Luật
Bài tập lớn học kỳ môn Luật Dân sự I
Nguy n Th Kim Cúc – 351823 – Lớp N02 6
này của Việt Nam nằm trong hệ thống chủ động đồng ý, khác với các nước Pháp,
Tây Ban Nha, Nauy…lại thuộc hệ thống suy đoán đồng ý, tuy nó đều dựa trên
nguyên lí tôn trọng quyền chủ thể nhưng trên thực tế các nước nằm trong hệ
thống suy đôán đồng ý thường có tỉ lệ hiến bộ phận cơ thể cao hơn rất nhiều so
với những nước trong hệ thống chủ động đồng ý.
Vì mục đích nhân đạo, chữa bệnh, giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa
học.
Đây là mục đích có ý nghĩa to lớn nhất trong quyền hiến bộ phận cơ thể.
Như đã biết khi nói đến quyền người ta thường nghĩ tới quyền lợi của chủ thể, là
quyền năng mà chủ thể có thể dựa vào đó thể hiện lọi ích của mình, tuy nhiên
với quyền hiến bộ phận cơ thể này nó lại vì mục đích cộng đồng nhiều hơn là
của chủ thể, lợi ích của chủ thể là một phần rất nhỏ so với đóng góp mà xã hội
nhận được. Đó cũng chính là điểm khác biệt căn bản giữa quyền hiến bộ phận cơ
thể với các quyền nhân thân khác, nó hướng tới lọi ích của cả cộng đồng. Đa
phần các nước trên thế giới đều quy định rõ sử dụng cho mục đích chữa bệnh và
nghiên cứu khoa học... Cũng giống như Pháp, Tynidi, mục đích hiến mô, bộ
phận cơ thể người ở Ma rốc cũng chỉ được thực hiện trong một số mục đích nhất
định như hiến vì mục đích chữa bệnh hoặc nghiên cứu khoa học, do các cơ sở
được cấp phép đảm nhiệm. Ở Việt Nam pháp luật hiện hành quy định ngoài mục
đích hiến mô, bộ phận cơ thể được hiến và sử dụng vào mục đích chữa bệnh và
nghiên cứu khoa học thì hiến mô, bộ phận cơ thể còn được sử dụng vào mục đích
giảng dạy. (Xem thêm Khoản 2, Điều 4, Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể
và hiến, lấy xác năm 2006).
Bài tập lớn học kỳ môn Luật Dân sự I
Nguy n Th Kim Cúc – 351823 – Lớp N02 7
Không nhằm mục đích thương mại
Trong cơ thể con người có những bộ phận có thể tài sinh, nhưng cũng có
những bộ phận không thể tái sinh được, hơn nữa số người hiến quá ít so với nhu
cầu được ghép, theo qui luật cung cầu giá trị vật chất của bộ phận cơ thể là rất
cao. Chính vì thế để bộ phận cơ thể con người không biến thành món hàng hóa,
khéo theo đó là hàng loạt những hệ quả xã hội thì nguyên tắc quan trọng không
kém là không được dùng bộ phận cơ thể người trong mọi trường hợp vì mục đích
thương mại. GS Sadek Beloucif, thành viên Ủy ban Tư vấn đạo đức quốc gia CH
Pháp tỏ ra đồng tình với quy định trên và chia sẻ: "Có quốc gia đã định giá đến
30.000 USD một quả thận, 100.000 USD một mảnh gan giành cho ghép. Tuy
nhiên, không thể thương mại hóa việc cho - nhận tạng. Bởi như vậy, sẽ tăng
thêm hố sâu ngăn cách giàu nghèo. Người nghèo sẽ chết vì không thể có những
khoản tiền lớn cho mua tạng ghép".
Giữ bí mật về các thông tin có liên quan đến người hiến, người
được ghép, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp
luật có quy định khác.
Nguyên tắc này được các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam hết sức
coi trọng. Thứ nhất nhằm tránh sự mua bán ngầm giữa người hiến và người
nhận, thứ hai tránh các quyền và nghĩa vụ dân sự, nghĩa vụ gia đình phát sinh
(trường hợp hiến tinh trùng, trứng, phôi), thứ ba nó khiến cho người nhận không
bị ám ảnh về bộ phận của người khác mà mình đang giữ khi hai người có cuộc
sống rất khác biêt. Tuy nhiên trường hợp những người có quan hệ huyết thống
lấy nhau không phải là không có, do vậy nguyên tắc vô danh cũng gây bất lợi.
Bài tập lớn học kỳ môn Luật Dân sự I
Nguy n Th Kim Cúc – 351823 – Lớp N02 8
Về điều kiện hiến bộ phận cơ thể
Độ tuổi:
Pháp luật Việt Nam hiện hành quy định cá nhân phải từ đủ 18 tuổi trở lên mới có
quyền hiến mô, bộ phận cơ thể khi còn sống và sau khi chết (Điều 5 Luật Hiến,
lấy ghép mô, bộ phận cơ thể và hiến, lấy xác năm 2006). Qua đó có thể thấy
pháp luật Việt Nam quy định về độ tuổi hiến sau khi chết của cá nhân muộn hơn
so với ở Pháp (pháp luật Việt Nam quy định đủ 18 tuổi trở lên mới được hiến
hoặc đăng ký hiến sau khi chết, còn pháp luật Pháp quy định là 13 tuổi). Sở dĩ có
quy định như vậy bởi các nhà làm luật nước ta quan niệm rằng ở tuổi đó, người
hiến mới phát triển đầy đủ về tâm, sinh lý cũng như về mặt pháp lý họ là người
có đầy đủ năng lực hành vi dân sự có thể bằng hành vi của mình tham gia xác lập
các quyền và nghĩa vụ nhất định theo quy định của pháp luật. Nếu độ tuổi là một
dấu hiệu định lượng, là điều kiện cần để hiến mô, bộ phận cơ thể thì khả năng
nhận thức và điều khiển hành vi là dấu hiệu định tính để xác định xem cá nhân
đã hoàn thiện về mặt tâm lý, về khả năng nhận thức hay chưa.
Sức khỏe:
Việc hiến bộ phận cơ thể là vì mục đích chữa bệnh nên sự bảo đảm an toàn
cho người nhận là hết sức quan trọng. Ở Việt Nam, Luật hiến, lấy ghép mô, bộ
phận cơ thể và hiến, lấy xác năm 2006 chỉ quy định chung chung người hiến và
người nhận đều phải làm những thủ tục để kiểm tra sức khỏe, nhưng Luật không
quy định kiểm tra sức khỏe bao gồm những gì, nhưng nghiên cứu các quy định
cụ thể trong Quyết định số 43/2006/QĐ-BYT ngày 29 tháng 12 năm 2006 của
Bộ trưởng Bộ Y tế năm 2006 về việc ban hành quy trình kỹ thuật ghép thận từ
Bài tập lớn học kỳ môn Luật Dân sự I
Nguy n Th Kim Cúc – 351823 – Lớp N02 9
người cho sống và quy trình kỹ thuật ghép gan từ người cho sống có quy định
điều kiện để người hiến được tuyển sử dụng là không bị ung thư, xơ gan, nhiễm
HIV dương tính,... điều đó cho thấy những quy định cụ thể về sức khỏe với
người hiến thận hoặc gan ở Việt Nam được quy định cụ thể trong các văn bản
dưới luật và có thể thấy các quy định về vấn đề này là tương đối chặt chẽ nhằm
đảm bảo sức khỏe cho cả người hiến và người nhận.
Thủ tục đăng kí hiến và nhận bộ phận cơ thể:
Được qui định rất rõ ràng tại điều 12 Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể
người và hiến lấy xác số 75/2006/QH1( bên cạnh đó tại điều 13 có qui định về
thủ tục thay đổi, hủy bỏ đơn đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể ở người sống).
Mẫu đơn, có thể tham khảo Quyết định số 07/2008QĐ-BYT ngày 14/2/2008 của
Bộ Y tế về việc ban hành các mẫu đơn tự nguyện hiến, hủy đăng ký hiến mô, bộ
phận cơ thể ở người sống, sau khi chết và hiến xác; các mẫu thẻ đăng ký hiến
mô, bộ phận cơ thể người sau khi chết và hiến xác.
Quyền lợi của chủ thể hiến bộ phận cơ thể:
Qui định tại điều 17 Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến
lấy xác năm 2006. Theo đó người đã hiến mô được chăm sóc, phục hồi sức khoẻ
miễn phí ngay sau khi thực hiện việc hiến mô tại cơ sở y tế; được chăm sóc,
phục hồi sức khoẻ miễn phí ngay sau khi thực hiện việc hiến bộ phận cơ thể
người tại cơ sở y tế và được khám sức khỏe định kỳ miễn phí; được cấp thẻ bảo
hiểm y tế miễn phí; được ưu tiên ghép mô, bộ phận cơ thể người khi có chỉ định
ghép của cơ sở y tế; được tặng Kỷ niệm chương vì sức khỏe nhân dân theo quy
định của Bộ trưởng Bộ Y tế.
Bài tập lớn học kỳ môn Luật Dân sự I
Nguy n Th Kim Cúc – 351823 – Lớp N02 10
Ngoài ra điều kiện của các cơ sở y tế trong việc lấy và ghép cũng được qui định
rất cụ thể trong luật này.
1.2.Thực trạng xã hội:
Nhu cầu về ghép mô bộ phận cơ thể người ở Việt Nam
Ở Việt Nam trong những năm qua, nhu cầu được ghép mô và nhu cầu có xác
để phục vụ việc nghiên cứu khoa học, giảng dạy là rất lớn và ngày một gia tăng.
Cả nước có khoảng 5.000 – 6.000 người suy thận mạn cần được ghép thận.
Riêng Hà Nội đã có gần 1.500 người được chỉ định ghép gan. Do không có
nguồn của người hiến nên cho đến nay đã có hàng trăm người phải sang Trung
Quốc, Singapore và một số nước khác để ghép thận, ghép gan. Còn ở trong nước
chỉ có khoảng 300 ca được ghép thành công, trong đó chủ yếu là ghép thận
chiếm tỷ lệ cao nhất sau đó đến ghép tế bào máu (ghép tủy) và ghép gan. Tất cả
các ca ghép này đều lấy thận, gan của người sống là cha, mẹ, anh, chị, em trong
gia đình, cùng huyết thống, có các chỉ số sinh học tương đương. Trong khi đó,
trên thế giới các nguồn lấy mô, bộ phận cơ thể người để ghép đều có nguồn từ
người cho sống cùng huyết thống và từ người cho sống không cùng huyết thống.
Đó là những người bị chết não hay bệnh nhân đã ngừng tim.
Nhu cầu ghép giác mạc rất cao, theo số liệu điều tra năm 2007, tỷ lệ mù lòa
trong cả nước là 0,59% (trong đó có 5,6% mù do sẹo giác mạc và mù do đục giác
mạc chiếm tỷ lệ 8,9%, trong tổng số người mù do các nguyên nhân khác nhau)
ước tính sơ bộ tương đương với khoảng 27.800 người mù do các bệnh lý giác
Bài tập lớn học kỳ môn Luật Dân sự I
Nguy n Th Kim Cúc – 351823 – Lớp N02 11
mạc đòi hỏi cần có giác mạc để ghép, nhưng trên thực tế không có đủ nguồn của
người cho giác mạc.
Tuy nhiên, không chỉ Việt Nam mà trên thế giới, tình trạng thiếu mô, bộ phận
cơ thể người để ghép luôn tạo nên những sức ép lớn, theo số liệu của WHO (năm
2002) thì trên thế giới có 36.857 triệu người mù, trong đó 5,1% là mù lòa do
bệnh giác mạc và mỗi năm có khoảng 10 triệu người bị mù do hỏng giác mạc,
nhưng chỉ khoảng 120.000 người được ghép giác mạc. Riêng châu Á, ước tính
mỗi năm có khoảng 1 triệu bệnh nhân bị suy thận mạn giai đoạn cuối nhưng chỉ
có khoảng 60.000 bệnh nhân được ghép thận (50% từ người chết não và 50% từ
người cho sống).
Trước thực trạng đó, đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật đủ mạnh, đồng bộ để
tạo cơ sở cho việc hiến, tặng mô, bộ phận cơ thể người đáp ứng nhu cầu khẩn
thiết ngày nay, đồng thời tạo hành lang pháp lý cho cán bộ y tế khi tiến hành lấy,
ghép mô, bộ phận cơ thể người và đó cũng chính là lý do để Quốc hội đã thông
qua Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác và luật đã có
hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2007.
Thực trạng về vấn đề vi phạm các nguyên tắc hiến bộ phận cơ thể:
Chính vì giá trị rất lớn của bộ phận cơ thể người nên đã có không ít những
hành vi trái pháp luật xảy ra, vi phạm hầu hết các nguyên tắc hiến bộ phận cơ
thể. Nếu đi ngang qua các bệnh viện lớn có thể thấy rất nhiều người đứng ở cổng
ra vào, đó là những con người nghèo khổ, vì kế sinh nhai họ chấp nhận bán bộ
phận cơ thể của mình khi ai đó có nhu cầu mua, lợi dụng tâm lí đó nhiều cò mồi
đã thu được những món lời khá lớn. Trong thời gian gần đây trên Mạng
Bài tập lớn học kỳ môn Luật Dân sự I
Nguy n Th Kim Cúc – 351823 – Lớp N02 12
(Internet) thỉnh thoảng xuất hiện những lời rao bán thận cho biêt là người bán
đang trong cảnh khốn khó, cần tiền nhiều hoặc cần gấp. Có trường hợp để nuôi
người thân nằm bệnh viện như vợ nuôi chồng, mẹ nuôi con nằm bệnh viện đã lâu
đang cạn tiền thang thuốc. Có trường hợp là sinh viên ra tỉnh học không còn
được tài trợ vì gia đình đang khốn khó. Mua bán nội tạng, đến nay vẫn bị xem là
hành vi bất hợp pháp trên thế giới. Thế nhưng chuyện rao bán nội tạng hoặc nhờ
có mối lái trong việc bán nội tạng là điều vẫn xảy ra ở Việt Nam. Hoặc những
người không may sa vào lưới của bon buôn thịt bán người xuyên quốc gia thì
cũng rất dề bị bán nội tạng.
Mua bán nội tạng con người, bị lên án vì vấn đề đạo đức. Các nguyên tắc
bình đẳng, công bằng, và nhân phẩm con người bị cho là không đựơc tôn trọng
khi những người nghèo khổ phải hy sinh sức khỏe và đôi khi cả mạng sống để
đổi lấy đồng tiền qua cách bán đi một phần cơ phận của họ.
Hiện nay ở Việt Nam ghép thận là có phần trăm thành công lớn nhất cho nên
mua bán thận xảy ra rất nhiều với mức độ ngày một tinh vi hơn. Bác sĩ Trần
Ngọc Sinh, Trưởng Khoa Tiết Niệu - Bệnh Viện Chợ Rẫy, xác nhận với báo chí
trong nước rằng thật sự là có chuyện mua bán thận, và bản thân ông, ở chức vị
này, từng được rất nhiều người xin giúp đỡ, thực hiện việc cấy ghép thận trong
các vụ mua bán. Ông cũng nói rằng nếu như người bán và người mua có thỏa
thuận trước, người bán sẵn sàng làm đơn hiến tặng thì như vậy bác sĩ khó long
biết được, đây cũng là một lỗ hổng trong pháp luật mà những kẻ buôn bán nội
tạng trái phép dựa vào để lách luật. Năm 2008, một sinh viên bị liệt não do bán
thận, đó là anh Tô Công Luân sinh viên trường kinh tế kĩ thuật công nghiệp 1
thành phố Hồ Chí Minh. Khi bệnh viên nhận Luân đang ở trong trạng thái suy
Bài tập lớn học kỳ môn Luật Dân sự I
Nguy n Th Kim Cúc – 351823 – Lớp N02 13
thận cấp, không có phản ứng cơ, trên bụng và ngực đầy những vết sẹo, qua kiểm
tra cho biết Luân đã mất một quả thận, bệnh máu khó đông. Những vết sẹo cho
thấy Luân đã trải qua ít nhất là 3 ca phẫu thuật nhiều lần chìm trong trạng thái
hôn mê đây cũng chính là nguyên nhân khiến não Luân không hoạt động bình
thường, ít lâu sau khi về nhà Luân đã tử vong. Một người có thể cho thận mà sức
khỏe vẫn bình thường nhưng cái chết thương tâm này đã gióng lên một hồi
chuông cảnh báo về vấn đề buôn bán thận trái pháp luật và đạo đức nhân nghĩa
trong xã hội đã xuống cấp trầm trọng, coi mạng người không bằng cỏ rác.
Một vấn đề nữa là chợ đen trong mua bán trứng người ở nước ta, cũng như
mua bán nội tạng, việc mua bán trứng người cũng diễn ra thông qua các đường
dây khá chuyên nghiệp, tại các bệnh viện phụ sản hay bệnh viện Nam y chỉ cần
để ý chúng ta cũng thấy được tình trạng cò mồi lảng vảng ngay cửa chính.
Có thể nói rằng tình trạng chợ đen trong buôn bán mô bộ phận cơ thể con
người ngày một tăng cao hơn về số lượng, hành động của chúng cũng ngày một
tinh vi hơn, phạm vi hoạt động của chúng mở rộng trên toàn cầu, những điểm
nóng như Trung Quốc, Ấn Độ, vùng Nam Mĩ, đáng lo ngại là vấn đề này xuất
hiện ở cả nước đang phát triển và cả nước phát triển. Vấn đề bức thiết đặt ra là
làm sao để quyền hiến bộ phận cơ thể được mở rộng mà không gây ra các hiện
tượng tiêu cực khác.
Dấu chấm hỏi trong luật hiến bộ phận cơ thể người
Trên các phương tiện thông tin đại chúng có xuất hiện trường hợp tử tù tự
nguyện hiến bộ phận cơ thể của mình, mặc dù những người tử tù là những người
không còn năng lực hành vi pháp luật nhưng họ vẫn có quyền được hiến vì đó là
Bài tập lớn học kỳ môn Luật Dân sự I
Nguy n Th Kim Cúc – 351823 – Lớp N02 14
một nghĩa cử cao đẹp, làm ích cho đời, trả nợ cho đời. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là
liệu có nên giảm án cho những người tử tù đó hay không, thực tế vấn đ