Giao dịch dân sự là một trong những phương thức hữu hiệu cho cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác xác lập, thực hiện quyền và nghĩa dân sự nhằm thoả mãn nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng, trong sản xuất, kinh doanh. Hợp đồng dân sự ngày càng có ý nghĩa quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trong quá trình thực hiện, bên cạnh những mặt tích cực còn tồn tại những thực trạng là các tranh chấp về dân sự, nhất là các tranh chấp về hợp đồng có xu hướng tăng, trong đó hợp đồng vô hiệu chiếm tỷ lệ không nhỏ. Việc tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu vẫn là một vấn đề phức tạp nhất mà ngành Toà án đang vướng mắc. Do tính cấp thiết cũng như tầm quan trọng của chế định hợp đồng vô hiệu nên em chọn vấn đề “ Hợp đồng dân sự vô hiệu ” làm đề tài cuối kỳ. Do kiến thức hiểu biết còn hạn hẹp mà vấn đề lại có nhiều vấn đề phức tạp nên trong quá trình làm bài không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ phía thầy cô.
26 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3968 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bàn về hợp đồng vô hiệu, thực trạng, ý kiến và các giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU.
Giao dịch dân sự là một trong những phương thức hữu hiệu cho cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác xác lập, thực hiện quyền và nghĩa dân sự nhằm thoả mãn nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng, trong sản xuất, kinh doanh. Hợp đồng dân sự ngày càng có ý nghĩa quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trong quá trình thực hiện, bên cạnh những mặt tích cực còn tồn tại những thực trạng là các tranh chấp về dân sự, nhất là các tranh chấp về hợp đồng có xu hướng tăng, trong đó hợp đồng vô hiệu chiếm tỷ lệ không nhỏ. Việc tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu vẫn là một vấn đề phức tạp nhất mà ngành Toà án đang vướng mắc. Do tính cấp thiết cũng như tầm quan trọng của chế định hợp đồng vô hiệu nên em chọn vấn đề “ Hợp đồng dân sự vô hiệu ” làm đề tài cuối kỳ. Do kiến thức hiểu biết còn hạn hẹp mà vấn đề lại có nhiều vấn đề phức tạp nên trong quá trình làm bài không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ phía thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT.
BLDS: Bộ luật dân sự.
HĐVH: Hợp đồng vô hiệu.
HĐ DS: Hợp đồng dân sự.
NLHVDS: Năng lực hành vi dân sự.
I. Những vấn đề lý luận về hợp đồng vô hiệu
1.Khái niệm của hợp đồng dân sự.
Để tồn tại và phát triển mỗi cá nhân cũng như mỗi tổ chức phải tham gia vào các mối quan hệ khác nhau. Thông qua việc các bên thiết lập với nhau những quan hệ để qua đó chuyển giao cho nhau các lợi ích vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng là một tất yếu đối với đời sống xã hội. Tuy nhiên việc chuyển giao lợi ích vật chất ấy không thể tự tìm tới nhau để thiết lập nên các quan hệ. Các quan hệ tài sản chỉ được hình thành từ những hành vi có ý chí của con người. Mác nói rằng: “ tự chúng, hàng hoá không thể đi đến thị trường và trao đổi với nhau được.Muốn cho những vật đó trao đổi với nhau thì những người giữ chúng phải đối xử với nhau như những người mà ý chí nằm trong các vật đó.” (Các Mác, “Tư bản”, quyển 1, tập 1, Nxb Sự thật 1973 trang 163 ). Mặt khác nếu chỉ có một bên thể hiện ý chí của mình mà không được bên kia cũng không thể hình thành một quan hệ để qua đó thể hiện việc chuyển giao tài sản. Do đó chỉ khi nào có sự thể hiện ý chí thống nhất giữa các bên thì quan hệ trao đổi lợi ích vật chất mới được hình thành. Quan hệ đó được gọi là hợp đồng dân sự. Như vậy cơ sở đầu tiên để hình thành nên một hợp đồng dân sự là việc thoả thuận ý chí tự nguyện của các bên.Tuy nhiên hợp đồng đó chỉ có hiệu lực khi mà ý chí của các bên phù hợp với ý chí của Nhà nước. Các bên được thiết lập, tự do thoả thuận hợp đồng nhưng sự tự do ấy phải được đặt trong giới hạn lợi ích của người khác, lợi ích chung của toàn xã hội.
Khái niệm về hợp đồng dân sự cần phải được xem xét ở nhiều phương diện và góc độ khác nhau.Theo phương diện khách quan thì hợp đồng dân sự là một bộ phận của các quy phạm pháp luật do Nhà nứơc ban hành nhằm điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong quá trình chuyển dịch các lợi ích vật chất. Theo phương diện chủ quan hợp đồng dân sự là một giao dịch dân sự mà các trong đó các bên tự ý trao đổi với nhau nhằm đi đến một thoả thuận để cùng nhau làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự nhất định. Theo phương diện này khái niệm hợp đồng dân sự được xem xét ở dạng khaí quát và dạng cụ thể. Để quy định của pháp luật có thể bao trùm được toàn bộ các hợp đồng dân sự xảy ra trong thực tế, Điều 388 BLDS 2005 quy định: “Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự.”. Như vậy hợp đồng dân sự không chỉ là sự thoả thụân của để một bên chuyển giao taì sản, thực hiện một công việc cho bên kia mà có thể còn là sự thoả thuận để thay đổi hay chấm dứt các nghĩa vụ đó.
Ngoài ra cũng cần nói thêm rằng xét về nội dung kinh tế sẽ khó phân biệt giữa một hợp đồng dân sự với một hợp đồng kinh tế, hợp đồng thương mại nếu nội dung của chúng đều là sự mua bán, trao đổi các lợi ích vật chất. Tuy nhiên yêu cầu của quá trình tiến hành tố tụng trong việc giải quyết các tranh chấp từ hợp đồng đòi hỏi cần có sự phân biệt rạch ròi giữa một hợp đồng kinh tế với một hợp đồng dân sự. Có thể nói hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế như cặp song sinh.Vì vậy trong thực tế có rất nhiều trường hợp hợp đồng là hợp đồng kinh tế hay dân sự. Để có thể phân biệt được hai loại hợp đồng này phải được xác định cụ thể mục đích của từng loại hợp đồng. Hợp đồng với mục đích thoả mãn nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng thì được coi là hợp đồng dân sự. Và chỉ được coi là hợp đồng kinh tế khi các bên chủ thể khi tham gia vào hợp đồng nhằm mục đích kinh doanh thương mại, thu lợi nhuận.
2. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng vô hiệu.
2.1. Khái niệm.
Hợp đồng vô hiệu không phát sinh hậu quả pháp lý mà các bên mong muốn.
“ Vô hiệu” theo nghĩa thông thường là “không có hiệu lực, không có hiệu quả” như vậy có thể suy ra rằng hợp đồng vô hiệu là hợp đồng không tồn tại theo quy định của pháp luật, không có hiệu lực pháp lý mặc dù hợp đồng đó được xác lập, các bên có thể chưa thực hiện, đang thực hiện hay đã thực hiện xong quyền và nghĩa vụ như cam kết nhưng khi xác định là HĐVH thì mọi cam kết đã, đang thực hiện thì đều không phải là các quyền và nghĩa vụ được pháp luật bảo vệ.
Vậy hợp đồng vô hiệu là khi xác lập các bên đã có vi phạm ít nhất một trong các điều kiện có hiệu lực do pháp luật quy định dẫn đến hậu quả pháp lý là không làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự nào.
* So sánh với hợp đồng mất hiệu lực: Để hiểu rõ hơn về cần phải có sự phân biệt giữa hợp đồng vô hiệu hợp đồng dân sự mất hiệu lực. HĐVH là hợp đồng không có hiệu lực ở ngay thời điểm giao kết. Còn hợp đồng mất hiệu lực là hợp đồng có hiệu lực ở thời điểm ký kết nhưng hợp đồng bị mất hiệu lực là do rơi vào tình trạng không thể thực hiện được. Tình trạng mất hiệu lực của hợp đồng dân sự có thể do một bên vi phạm, dẫn đến bên vi phạm yêu cầu huỷ hợp đồng hoặc các bên tự thoả thuận với nhau chấm dứt hiệu lực của hợp đồng hoặc do trở ngại khách quan nào khác. Ví dụ 2 bên ký kết một hợp đồng mua bán gỗ, thời điểm này Nhà nước không cấm mua bán mặt hàng này. Nhưng khi hai bên đang thực hiện hợp đồng thì Nhà nước lại có quyết định cấm khai thác và buôn bán loại gỗ này dẫn đến hợp đồng không thể thực hiện được và bị mất hiệu lực.
2.2. Đặc điểm của hợp đồng vô hiệu.
Theo khoản 1 Điều 410 BLDS 2005 quy định: “Các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều 127 đến Điều 138 của Bộ luật này được áp dụng đối với hợp đồng vô hiệu.” Vậy có thể thấy các quy định về hợp đồng vô hiệu được áp dụng giống như đối với giao dịch dân sự vô hiệu. Mà theo quy định tại Điều 127 BLDS 2005 quy định: “Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 122 của Bộ luật này thì vô hiệu.”. Vậy đặc điểm chung của các hợp đồng vô hiệu là không đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật. Khi hợp đồng vô hiệu các bên phải gánh chịu hậu quả pháp lý nhất định có thể bất lợi về vật chất hoặc tinh thần như không đạt được mục đích đã xác định nếu chưa thực hiện được thì sẽ không thực hiện được tiếp, nếu đang thực hiện thì phải chấm dứt việc thực hiện đó để quay trở lại tình trạng ban đầu hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.( khoản 2 điều 137 BLDS 2005).
2.2.1. Không đáp ứng được các điều kiện theo quy định của pháp luật với hợp đồng vô hiệu.
- Năng lực hành vi dân sự của người tham gia hợp đồng.
Bản chất của hợp đồng dân sự là sự thống nhất ý chí và bày tỏ ý chí của các chủ thể tham gia hợp đồng nhưng không phải ai cũng có quyền tham gia vào bất kỳ loại hợp đồng nào mà chỉ có các chủ thể được pháp luật cho phép mới có thể được tham gia. Trong một số trường hợp thì một số chủ thể chỉ được tham gia trong giới hạn của một số quan hệ quan hệ dân sự nhất định. Khi các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự mà năng lực pháp luật là vốn có của chủ thể mà pháp luật quy định cho các chủ thể có quyền như nhau: Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết. ( khoản 2, 3 Điều 14 BLDS 2005). Còn năng lực hành vi thì pháp luật căn cứ vào khả năng nhận biết hành vi của từng con người cụ thể. Việc phân định này dựa trên cơ sở sinh học và cơ sở xã hội. Nếu như năng lực pháp luật là tiền đề, là quyền dân sự khách quan của chủ thể thì năng lực hành vi là khả năng hành động của chủ thể để tạo ra quyền và thực hiện nghĩa vụ. Tư cách chủ thể tham gia hợp đồng dân sự là sự thống nhất giữa năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Năng lực pháp luật là điều kiện cần, năng lực hành vi là điều kiện đủ để tạo ra tư cách của một chủ thể khi tham gia hợp đồng.
- Mục đích và nội dung của các hợp đồng không đáp ứng đủ yêu cầu của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội. Trong chế định hợp đồng dân sự, các chủ thể có quyền tự do thể hiện ý chí của mình, tự do trong việc quyết định nội dung, hình thức của giao dịch, thể hiện khi xác lập hợp đồng các chủ thể có quyền tự do lựa chọn đối tác, tự do thoả thuận nội dung của hợp đồng, hình thức giao kết. Nhưng sự tự do không mang tính tuyệt đối mà bị ràng buộc bởi khuôn khổ pháp luật. Sự ràng buộc này hạn chế sự tự do của các chủ thể khi tham gia xác lập hợp đồng. Chủ thể không tuân theo sự hạn chế của pháp luật dẫn tới hợp đồng vô hiệu.
+ Mọi thoả thuận không trái với pháp luật.
+ Mọi thoả thuận không được trái với đạo đức xã hội.
Không trái với pháp luật thì rõ nhưng không trái với đạo đức xã hội là một vấn đề phức tạp vì khái niệm đạo đức là một khái niệm trừu tượng. Nhà nước đưa ra khái niệm đạo đức xã hội trong luật : “ Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận”( đoạn 3 Điều 128 BLDS 2005), nhưng không quy định cụ thể trường hợp nào là vi phạm. Chính vì vậy mà khi xác định nội dung của khái niệm đạo đức thường được xem trong mối quan hệ với án lệ, nhưng về lý thuyết thì Nhà nước ta chưa thừa nhận án lệ. Chính vì thế trong thực tiễn hiện nay quy định này đã gây ra không ít khó khăn trong việc áp dụng.
- Chủ thể tham gia xác lập hợp đồng không tự nguyện.
Sự tự nguyện khi giao kết hợp đồng là một yếu tố cơ bản và không thể thiếu được trong hợp đồng dân sự. VÌ vậy các chủ thể khi tham gia giao kết hợp đồng phải thể hiện ý chí đích thực của mình. Mọi thoả thuận không phản ánh đúng ý chí cuả các bên đều có thể dẫn đến hợp đồng vô hiệu. Ý chí của chủ thể là thể hiện mong muốn của mình ra bên ngoài trong khuôn khổ pháp luật cho phép mà không bị sự ép buộc nào.
- Hình thức hợp đồng không đúng quy định của pháp luật.
Để đảm bảo cho trật tự xã hội, lợi ích của Nhà nước và cá nhân khi tham gia giao kết hợp đồng, ngoài việc các chủ thể tham gia xác lập hợp đồng phải thể hiện ý chí của mình còn phải tuân theo các quy định của pháp luật về hình thức đối với một số loại hợp đồng nhất định. Thông qua các biểu hiện về hình thức này người khác có thể phần nào biết được nội dung của hợp đồng. Việc quy định một số loại giao dịch cần phải tuân theo các quy định về hình thức dưạ trên cơ sở là đối tượng của các loại hợp đồng này có giá trị lớn hoặc có tính năng đặc biệt nên hình thức của hợp đồng là căn cứ xác đinh nội dung của hợp đồng. Mặt khác, với những quy đinh này còn là cơ sở để các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền kiểm tra giám sát việc chuyển dịch các tài sản này.
2.2.2. Các bên tham gia hợp đồng phải gánh chịu hậu quả pháp lý nhất định.
Khi hợp đồng vô hiệu thì: “… các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.” (Khoản 2 Điều 137 BLDS 2005). Về mặt lý thuyết thì đây là sự tổn thất của các bên nên phải quay lại tình trạng ban đầu như trước khi tham gia hợp đồng. Tuy nhiên về mặt thực tế có trường hợp khi tuyên bố hợp đồng vô hiệu có bên được hưởng lợi, có bên bị thiệt hại.
3. Phân loại hợp đồng vô hiệu.
Vì các quy định về giao dich dân sự từ Điều 127 đến Điều 138 được áp dụng cho hợp đồng vô hiệu nên dựa vào đó có thể thấy có những loại hợp đồng vô hiệu dựa vào các căn cứ sau :
* Dựa vào mức độ vi phạm đối với từng loại hợp đồng dân sự cụ thể thì hợp đồng dân sự được chia thành:
- Hợp đồng dân sự vô hiệu toàn bộ: là hợp đồng mà toàn bộ nội dung của nó đều vi phạm điều kiện có hiêụ lực của hợp đồng hoặc có một số nội dung của hợp đồng bị vô hiệu nhưng lại trực tiếp ảnh hưởng tới phần còn lại của hợp đồng.
- Hợp đồng dân sự vô hiệu từng phần: là hợp đồng mà chỉ có một số nội dung vi phạm các điều kiện có hiệu lực của HĐDS, còn các nội dung khác không vi phạm hoặc có một phần của HĐVH nhưng không ảnh hưởng tới hiệu lực còn lại của hợp đồng.
* Dựa vào mức độ vi phạm nghiêm trọng hay không của HĐDS cũng như căn cứ vào ý chí của Nhà nước, ý chí của chủ thể tham gia giao dịch thì HĐVH đuợc chia thành:
- Hợp đồng dân sự đương nhiên vô hiệu ( vô hiêu tuyệt đối ) : là hợp đồng không có hiệu lực pháp luật ngay từ khi giao kết, không có giá trị về mặt pháp luật không làm phát sinh quyền và nghĩa của các bên. Do vậy cả trường hợp các bên tham gia hợp đồng đã ký kết và thực hiện sẽ không có giá trị pháp lý. Các bên tham gia phải chấm dứt thực hiện và quay lại trạng thái ban đầu và hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
- Hơp đồng vô hiệu khi có yêu cầu ( vô hiệu tương đối ): Là hợp đồng có khả năng khắc phục, nó được coi là hợp đồng có thể hiệu lực nhưng cũng có thể bị vô hiệu theo sự lựa chọn của một trong các bên kia hợp đồng. Hợp đồng này thông thường không xâm phạm trật tự công cộng và đạo đức xã hội và chỉ có thể bị vô hiệu đối với bên có lỗi mà không vô hiệu với bên không có lỗi. Khi xác định hợp đồng vô hiệu thì quyền và nghĩa vụ của các bên đã thoả thuận đều không có hiệu lực pháp luật, còn trong trường hợp hợp đồng đó được thừa nhận sau khi đã khắc phục thì đương nhiên quyền, nghĩa vụ của các bên sẽ được pháp luật bảo vệ theo sự cam kết thoả thuận của các bên. Hợp đồng khắc phục là hợp đồng mới. Với hợp đồng vô hiệu tuyệt đối lại khác. Đây thường là hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật nên trong thực tế Toà án và các cơ quan có thẩm quyền không cho phép khắc phục mặc dù các bên có mong muốn được khắc phục.
* Dựa vào các quy định trong BLDS 2005.
- Hợp đồng dân sự vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội ( Điều 128 BLDS 2005).
Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực chung trong đời sống xã hội, đựơc cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
- Hợp đồng vô hiệu do giả tạo.(Điều 129 BLDS 2005).
Ý chí đích thực và sự thể hiện ý chí đó phải là sự thống nhất. Khi hai cái đó không có sự đồng nhất thì hợp đồng dân sự vô hiệu. Trên cơ sở này, pháp luật quy định HĐDS được xác lập một cách giả tạo thì hợp đồng này vô hiệu còn hợp đồng bị che giấu vẫn có hiệu lực. Nếu hợp đồng bị che giấu cũng vi phạm điều kiện có hiệu lực của hợp đồng thì cũng bị coi là vô hiệu. Ngoài ra khi các chủ thể xác lập hợp đồng nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ 3 thì cũng bị coi là vô hiệu.
- Họp đồng dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập thực hiện.(Điều 130 BLDS 2005)
Đối với các HĐDS đựoc xác lập, thực hiện bởi người chưa thành niên, người mất NLHVDS, người bị hạn chế NLHVDS mà theo quy định của pháp luật hợp đồng này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện thì pháp luật cho phép người đại diện của những người này có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố HĐVH.
- Hợp đồng dân sự vô hiệu do nhầm lẫn. (Điều 131 BLDS 2005).
Ở đây, HĐDS được xác lập bởi sự nhầm lẫn không có sự thống nhất ý chí đích thực với sự thể hiện ý chí đó ra bên ngoài. Do đó bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố HĐDS vô hiệu mà không cần phải yêu cầu bên kia thay đổi nội dung hợp đồng.
- Hợp đồng dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe doạ.(Điều 132 BLDS 2005).
Là hợp đồng mà bản thân chủ thể xác lập hợp đồng bị “tê liệt ” về ý chí và không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc lựa chọn ý chí của một bên (đe doạ) hoặc sự nhận thức không đúng về HĐDS bởi hành vi vi phạm pháp luật, bởi sự định hướng ý chí của chủ thể thành một nội dung khác có lợi cho người định hướng ( lừa dối).
- Hợp đồng dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ hành vi của mình (Điều 133 BLDS 2005).
Một người có năng lực hành vi dân sư đầy đủ có thể xác lập hợp đồng theo ý chí của mình. Tuy nhiên trên thực tế có những trường hợp bản thân chủ thể xác lập hợp đồng mặc dù có NLHVDS đầy đủ nhưng đã không xác lập hợp đồng vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Ví dụ trong tình trạng say rượu, bia….
- Hợp đồng dân sự vô hiệu do không tuân thủ các quy định về hình thức.(Điều 134 BLDS 2005).
Đối với các HĐDS mà pháp luật buộc các bên phải thông qua một hình thức nhất định nhưng các bên lại không thông qua hình thức này thì Toà án hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sẽ ấn định một thời hạn để các bên hoàn thành, quá thời hạn này mà các bên không hoàn thành thì HĐVH.
- Hợp đồng vô hiệu từng phần.(Điều 135 BLDS 2005).
Hợp đồng vô hiệu từng phần khi một phần của hợp đồng vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại của hợp đồng.
- Hợp đồng dân sự vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được (Điều 411 BLDS). Trong trường hợp ngay từ khi ký kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được vì lý do khách quan thì HĐVH.. Đối với HĐ DS vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được cần xác định cụ thể: trong trường hợp ngay từ khi ký kết hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được vì lý do khách quan thì HĐVH.Ví dụ do sự kiện bất khả kháng làm cho đối tượng của hợp đồng không còn: lũ, bão cuốn trôi tài sản…Trong trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên nếu biết hoặc phải biết về việc đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện được nhưng không thông báo cho bên kia biết nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia. Trong trường hợp hợp đồng có nhiều phần đối tượng không thể thực hiện được thì phần còn lại của hợp đồng vẫn có hịệu lực.
4. Thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu.
Các hợp đồng không bị hạn chế bởi thời hiệu yêu cầu của Toà án tuyên bố HĐVH là những hợp đồng mà mức độ vi phạm điều kiện có hiệu lực của hợp đồng là nghiêm trọng như hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội; HĐVH do giả tạo.
Các hợp đồng có thực hiện yêu cầu Toà án tuyên bố HĐVH là hai năm kể từ ngày xác lập hợp đồng bao gồm các loại hợp đồng : HĐVH do người chưa thành niên, người mất nănh lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực pháp luật dân sự; HĐVH do bị nhầm lẫn; HĐVH do bị lừa dối đe doạ; HĐVH do người không nhận thức và làm chủ hành vi của mình xác lập; HĐVH do không tuân thủ các quy định của pháp luật về hình thức.
5. Quy định về hợp đồng vô hiệu của pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ.
a. Chế định hợp đồng dưới thời nhà Nguyễn.
Quan niệm về khế ước trong luật phong kiến Việt Nam phần lớn giống quy định của pháp luật về hợp đồng vô hiệu của chúng ta hiện nay. Khế ước phải được đặt trên sự ưng thuận của các bên tham gia, người tham gia khế ước phải có năng lực pháp lý nhất định. Khi tham gia vào khế ước phải hoàn toàn ngay thẳng, nghiêm túc, không có sự lừa dối cưỡng ép, trong một số giao dịch có tính chất đặc biệt, có giá trị lớn còn phải tuân theo các quy định về hình thức. Nếu các bên tham gia khế ước không tuân thủc các điều kiện về nội dung, điều kiện về hình thức của khế ước thì vô hiệu, không làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia khế ước. Về nguyên tắc khế ước vô hiệu các bên quay trở lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.Khi giải quyết hậu quả pháp lý khế ước dân sự vô hiệu không thuần tuý là trách nhiệm dân sự mà trong nhiều trường hợp ngoài các quy định về trách nhiệm