Chức năng chung của CNHC là chuyển những chất đầu vào ít có giá trị
kinh tế thành những sản phẩm mong muốn. Sự chuyển đổi này xảy ra
với hiệu suất càng gần 100% thì càng tốt. Tuy nhiên trong thực tế, luôn
tồn tại một tỷ lệ nào đó những sản phẩm không mong đợi. Đó là những
chất được gọi là “chất tồn dư” hoặc “cặn thải” và thông thường bị thải đi
sau quá trình dưới dạng chất thải.
Bên cạnh chức năng trên, CNHC trong thời đại hiện nay cũng cần tìm
cách làm giảm thiểu các tác động của những chất thải vào môi trường
bằng công nghệ khả thi trong thực tế. Chính chức năng này cũng là
nhiệm vụ thứ hai, rất quan trọng của CNHC. Để làm được nhiệm vụ này
CNHC cần đưa vấn đề quản lý chất thải thành một phần bắt buộc trong
hoạt động của mình
81 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2326 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bảo vệ môi trường tổng thể và quản lý chất thải trong công nghiệp hoá chất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3
ĐỀ TÀI
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TỔNG
THỂ VÀ QUẢN LÝ CHẤT
THẢI TRONG CÔNG NGHIỆP
HOÁ CHẤT
Tiếp theo“Thông tin KT&CN Công nghiệp Hóa chất”
Chuyên đề Phục vụ lãnh đạo số 3/2008
4
HÀ NỘI- 2008
MỤC LỤC
Trang
Phần II: QUẢN LÝ CHẤT THẢI TRONG CNHC 3
I. GIỚI THIỆU CHUNG 3
II. QUẢN LÝ CHẤT THẢI LÀ GÌ 4
II.1. Quản lý chất thải sản xuất định hướng 4
II.2. Quản lý chất thải sản phẩm định hướng 6
III. CÁC BIỆN PHÁP TIÊU HUỶ CHẤT THẢI 9
III.1. Xác định chất thải cần tiêu huỷ và các thủ tục pháp lý
cần thiết 9
III. 2. Tiêu hủy bằng cách đốt chất thải 9
5
III.3. Tiêu huỷ bằng cách chôn lấp chất thải 13
IV. TẬN DỤNG CÁC CHẤT THẢI TỪ SẢN PHẨM 14
IV.1. Tái chế các chất dẻo 14
IV.2. Tái chế các môi chất làm lạnh 16
IV.3. Thu hồi các kim loại màu từ bã thải rắn của công
nghiệp mạ 16
V. XU THẾ QUẢN LÝ CHẤT THẢI 17
Phần III: CƠ HỘI SẢN XUÂT- BVMT TỔNG THỂ VÀ
QUẢN LÝ CHẤT THẢI CỦA CNHC TẠI VIỆT NAM 19
I. HIỆU QUẢ SỬ DỤNG NĂNG LƯỢNG, VẬT LIỆU VÀ
VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG TRONG CNHC 19
I.1. Hiệu quả sử dụng năng lượng, vật liệu và vấn đề môi
trường trong ngành công nghiệp 19
6
I.2. Hiệu quả sử dụng năng lượng, vật liệu và vấn đề BVMT
trong CNHC 26
II. TÌNH HÌNH BVMT SẢN XUẤT TẠI CÁC DOANH
NGHIỆP THUỘC TỔNG CÔNG TY HÓA CHẤT VIỆT NAM 33
II.1. Thực hiện chiến lược phát triển bền vững tại Tổng Công
ty Hoá chất Việt Nam 33
II.2. Hướng tới hiệu quả sản xuất và BVMT tại các đơn vị
thành viên TCT 35
II.2.1. BVMT tại Công ty Supephốt phát và Hóa chất Lâm Thao 35
II.2.2. Sản xuất đi đôi với bảo vệ môi trường tại ngành sản xuất
PLNC 37
II.2.3. Nâng cấp công nghệ và mở rộng quy mô sản xuất là định
hướng phát triển của Công ty Phân Đạm và Hoá chất Hà Bắc 39
II.2.4. Phát triển trên cơ sở nâng cấp thiết bị và TKNL tại Công
ty Cao su Sao Vàng 41
7
II.2.5. BVMT trong khai thác khoáng sản, đảm bảo sản xuất bền
vững tại VINAAPACO 44
II.2.6. Cải tiến công nghệ để ổn định và nâng cao chất lượng sản
phẩm kết hợp BVMT tại Công ty CP Ac quy Tia Sáng 47
II.2.7. Nâng cấp thiết bị và đầu tư công nghệ để giữ vững vị trí
hàng đầu về sản xuất săm lốp cao su tại Công ty cổ phần Công
nghiệp Cao su miền Nam 48
8
Phần II
QUẢN LÝ CHẤT THẢI TRONG CNHC
I. GIỚI THIỆU CHUNG
Chức năng chung của CNHC là chuyển những chất đầu vào ít có giá trị
kinh tế thành những sản phẩm mong muốn. Sự chuyển đổi này xảy ra
với hiệu suất càng gần 100% thì càng tốt. Tuy nhiên trong thực tế, luôn
tồn tại một tỷ lệ nào đó những sản phẩm không mong đợi. Đó là những
chất được gọi là “chất tồn dư” hoặc “cặn thải” và thông thường bị thải đi
sau quá trình dưới dạng chất thải.
Bên cạnh chức năng trên, CNHC trong thời đại hiện nay cũng cần tìm
cách làm giảm thiểu các tác động của những chất thải vào môi trường
bằng công nghệ khả thi trong thực tế. Chính chức năng này cũng là
nhiệm vụ thứ hai, rất quan trọng của CNHC. Để làm được nhiệm vụ này
CNHC cần đưa vấn đề quản lý chất thải thành một phần bắt buộc trong
hoạt động của mình. Khái niệm quản lý chất thải bao gồm:
1) Giảm số và lượng những chất tồn dư, cặn thải;
2) Tái sinh những chất thải để giảm việc huỷ bỏ những chất thải;
3) Loại bỏ chất thải bằng cách xử lý huỷ bỏ.
9
Kết quả quản lý chất thải là tránh và giảm được số và lượng chất thải
trong sản xuất và tiêu huỷ chúng một cách an toàn.
Bên cạnh các chất thải của quá trình sản xuất, trong quá trình tiêu thụ và
sử dụng sản phẩm, các sản phẩm sẽ trở thành chất thải. Các chất này
được gọi là những chất thải sản phẩm (để tránh nhầm lẫn với các chất
thải sản xuất). Việc tái sinh những chất thải sản phẩm cũng đang rất
được quan tâm và ở nhiều nước, đây cũng là một chức năng quản lý chất
thải của CNHC.
II. QUẢN LÝ CHẤT THẢI LÀ GÌ
Hàng năm trong sản xuất công nghiệp và tiêu dùng trên thế giới có một
lượng chất thải khổng lồ (hàng tỷ tấn) được thải ra. Riêng ở Đức, hàng
năm trong toàn ngành công nghiệp nước này phát sinh ra đến gần 220
triệu tấn chất thải công nghiệp, trong đó có hơn 6 triệu tấn chất thải đặc
biệt (chiếm khoảng 3%) có thể gây rủi ro và các sự cố môi trường.
Riêng CNHC của Đức hàng năm có thể sinh ra trên 5 triệu tấn chất thải
với hơn 1,6 triệu tấn chất thải độc hại (chiếm 32%). Ở Mỹ, con số này
lớn hơn vài lần.
Nói chung những chất thải công nghiệp rất đa dạng về thành phần hoá
học tùy theo đặc điểm về hoạt động kinh tế của từng nước.
Một quy trình sản xuất hoá học luôn có các chất tồn dư (chưa phản ứng).
Tuy những chất tồn dư này có thể được quay vòng hoặc tái sinh. Trong
trường hợp nếu không quay vòng hoặc quay vòng không thích hợp hoặc
10
vì các lý do khác, thì trong quá trình sản xuất, chất tồn dư cũng sẽ trở
thành chất thải. Có những trường hợp, quá trình xử lý một chất thải này
lại có thể phát sinh một chất thải khác (ví dụ nước thải sinh ra trong khi
rửa khí thải hoặc việc xử lý nước thải dẫn tới sự tạo thành bùn thải,
v.v...) nên việc quản lý chất thải phải được coi là một quá trình liên tục,
xuyên suốt quá trình sản xuất.
Hiện nay, trên thế giới người ta quan niệm quản lý chất thải gồm 2 lĩnh
vực sau:
II.1. Quản lý chất thải sản xuất định hướng
Những chất tồn dư và chất thải có thể xuất hiện không chỉ trong khu vực
sản xuất tập trung, mà còn ở những khu vực liên quan khác. Vì vậy rất
cần phải được mở rộng diện quản lý chất thải ra ngoài khu vực sản xuất.
Việc huỷ bỏ các chất thải, thậm chí cả trong các điều kiện thích hợp
nhất, cũng vẫn có nhiều nhược điểm về mặt sinh thái và kinh tế, đồng
thời trong nhiều trường hợp lại tốn kém hơn so với áp dụng các biện
pháp BVMT tổng thể.
Như vậy việc quản lý chất thải trong sản xuất phải được hoạch định hoá
và công nghệ, kỹ thuật đưa vào áp dụng phải đáp ứng các mục tiêu cụ
thể. Việc quản lý chất thải sản xuất bao gồm có 3 yếu tố sau:
1) Phân tích thành phần các chất thải và quá trình phát sinh chất thải về
chủng loại và số lượng trong dây chuyền sản xuất. Việc này cho phép
xác định và đưa ra các biện pháp tránh thải hoặc giảm thải thích hợp.
11
2) Có những giải pháp mới với kỹ thuật, công nghệ thích hợp để huỷ bỏ
chất thải hiệu quả về mặt kinh tế và môi trường.
3) Kiểm soát tình hình chung của sản xuất-BVMT tổng thể.
Ngày nay các nguyên tắc cơ bản để tránh thải, giảm thải phải được đề
cập kết hợp ngay trong quy trình mới,chuẩn bị được áp dụng với nội
dung sao cho tránh hoặc giảm lượng các chất tồn dư và chất thải phát
sinh. Những quy trình đang tồn tại (đang còn được áp dụng) cũng được
nghiên cứu và định hình lại xem chúng còn thích hợp nữa hay không.
Đây cũng chính là nguyên tắc của sản xuất BVMT tổng thể.
Một phương thức khác để thực hiện nguyên tắc này là sử dụng lại các
chất tồn dư hoặc chất thải của quá trình. Việc xem xét nên sử dụng hay
nên tiêu huỷ chất thải phụ thuộc từng trường hợp cụ thể và khi đó cũng
cần phân tích cả các ảnh hưởng sinh thái và kinh tế của sự lựa chọn này.
Một vấn đề cần nói đến là sự tái sinh những vật liệu (đã qua sử dụng,
thải) có khi lại có thể gây hại tới môi trường nhiều hơn sự lợi ích mà quá
trình tái sinh mang lại. Đó là chưa kể nhiều quá trình tái sinh lại phát
sinh những chất thải vẫn cần phải huỷ bỏ tiếp sau đó. Hơn nữa một quá
trình tái sinh không thể lặp đi lặp lại mãi, vì vậy để áp dụng các quá trình
tái sinh cần xem xét kỹ lưỡng trên quan điểm kinh tế và thị trường. Đây
chính là vấn đề cần thiết để làm sáng tỏ một điều là liệu có cần tái sinh
vật liệu đó không và vật liệu đó có được các nhà sản xuất hoặc người
tiêu thụ chấp nhận không. Một số vấn đề nữa có thể nảy sinh khi vật liệu
12
tái sinh thường có chất lượng thấp hơn so với các vật liệu gốc. Nếu vật
liệu tái sinh không có thị trường (không tiêu thụ được) thì thậm chí việc
tái sinh được tiến hành rất tốt vẫn có thể xem như thất bại. Việc quyết
định giữa sử dụng và tiêu huỷ chất thải cũng cần được xem xét kỹ, nhất
là về mặt cân bằng sinh thái trên cơ sở lấy ý kiến thăm dò một cách khoa
học và khách quan. Trong khi xem xét, phải tính đến cả việc tận dụng
năng lượng và phải xếp ngang hàng việc tận dụng năng lượng với việc
tái sinh vật chất.
Dù có tìm cách giảm bớt chất tồn dư và tăng cường tái sinh chất thải thì
cũng không thể triệt tiêu hoàn toàn lượng chất thải, nên phương pháp
tiêu huỷ chất thải một cách hợp lý vẫn là một vấn đề cơ bản trong quản
lý chất thải của bất kỳ ngành sản xuất nào. Chắc chắn việc tiêu huỷ sẽ
theo hình thức đốt hoặc chôn lấp, và ngày nay các hoạt động này trên cơ
sở áp dụng các công nghệ cao, đạt được tiêu chuẩn an toàn với những lợi
ích sinh thái nổi bật sẽ được phổ biến rộng rãi với mục đích giảm phát
thải các yếu tố nguy hại của các ngành sản xuất vào môi trường đến mức
thấp nhất. Mọi biện pháp được áp dụng trong quản lý chất thải cũng luôn
gắn liền với việc phân tích số lượng, cấu tạo và những tính chất của chất
thải cũng như phân tích những dòng chất thải theo dự án liên quan.
Ngoài ra năng lượng nhiệt từ các dòng chất thải thứ cấp (như xỉ và tro
nóng sinh ra khi tiêu huỷ chất thải bằng cách đốt) cũng cần được tính
toán tận dụng triệt để.
II.2. Quản lý chất thải sản phẩm định hướng
13
Khi sản phẩm của CNHC được tiêu thụ, chúng sẽ chuyển hoá dần thành
chất thải. Chuỗi trách nhiệm từ người sản xuất hoá chất sang người sản
xuất sản phẩm cuối dòng đến người tiêu thụ cũng cần phải được thực hiện
liên tục, đồng thời phải luôn quan tâm đến cái gì sẽ xảy ra với vật liệu sau
khi sử dụng. Các biện pháp kỹ thuật sử dụng phải thích hợp với mỗi một
kiểu chất thải nhất định.
Tái sinh chất thải từ sản phẩm có thể bao gồm nhiều quá trình khác nhau
như thu hồi các vật liệu trên cơ sở phá huỷ cấu trúc hoá học của chất thải
hoặc chỉ đơn thuần thu hồi vật liệu mà không làm sự thay đổi cấu trúc
hoá học của chất thải.
Các vật liệu từ chất thải sản phẩm sau khi đã được tái sinh chắc chắn sẽ
chiếm một thị phần nào đó trong thị trường và góp phần tiết kiệm những
loại nguyên liệu gốc đắt tiền. Tuy lợi ích kinh tế không phải là lý do duy
nhất để tiến hành các quá trình tái sinh vật liệu thải, nhưng trong điều
kiện thị trường cụ thể, người ta không thể không tính toán đến các lợi ích
này. Cũng vì thế mà những yêu cầu kỹ thuật để tái sinh các chất thải sản
phẩm cũng cần phải được xem xét kỹ càng. Các chất thải sản phẩm của
CNHC gồm nhiều loại, nhưng tiêu biểu và tập trung nhất vẫn là các loại
sản phẩm chất dẻo. Đứng trước vấn đề này, có một số câu hỏi luôn được
đặt ra là phế thải chất dẻo nên được tái chế như thế nào? cái được và
không được khi áp dụng phương pháp tái chế ra sao?, v.v… Khi tái chế
không tránh khỏi việc thay đổi cấu trúc phân tử chất dẻo và dẫn đến sự
suy giảm độ bền cơ học của nó, nên phải cân nhắc xem có đáng để tái
14
chế và dùng chất dẻo tái sinh không. Đa số các chất dẻo là những vật
liệu rẻ tiền nên người ta cũng thường tính đến cả khả năng đốt loại phế
thải này (có thể kết hợp thu năng lượng) hoặc chôn lấp thay vì áp dụng
các kỹ thuật tái chế để thu hồi những vật liệu không đáng giá.
Vấn đề xử lý chất thải như thế nào (tái chế, thiêu hủy, chôn lấp) hoàn
toàn phụ thuộc vào đặc trưng của chất thải, nhu cầu sản phẩm và khả
năng xử lý ban đầu. Riêng trong xử lý ban đầu người ta cũng dùng nhiều
biện pháp khác nhau:
- Phân loại và xử lý cơ học là khâu ban đầu không thể thiếu trong quy
trình xử lý chất thải. Biện pháp này sẽ làm tăng hiệu quả xử lý ở các
bước tiếp theo. Các công nghệ dùng để phân loại, xử lý cơ học chất thải
bao gồm: lựa chọn, cắt, nghiền, sàng, tuyển từ, tuyển nổi, v.v...Ví dụ,
các loại chất thải có kích thước lớn và thành phần khác nhau phải được
phân loại ngay khi tiếp nhận. Các chất thải rắn chứa các chất độc hại cần
phải được tách để xử lý riêng. Sau công đoạn lựa chọn là công đoạn
chuyển chất thải có kích thước lớn về dạng mảnh (hạt) nhỏ hơn (bằng
cách băm, nghiền nhỏ) đến kích thước nhất định trước khi xử lý tiếp tục
(kể cả thiêu hủy).
- Dùng công nghệ xử lý hóa - lý là sử dụng các quá trình biến đổi vật lý,
hóa học để làm thay đổi tính chất của chất thải, nhằm mục đích chính là
giảm thiểu khả năng nguy hại của chúng đối với môi trường. Công nghệ
này rất phổ biến khi áp dụng biện pháp thu hồi và tái chế chất thải, đặc
biệt là các loại chất thải có chứa các chất độc hại (như dầu mỡ, kim loại
15
nặng, dung môi, v.v...).
Công nghệ xử lý hóa - lý cũng được áp dụng trong quá trình tái chế
và thu hồi vật liệu. Thường quá trình này chỉ thực sự mang lại hiệu quả
kinh tế và môi trường đối với những nhà máy xử lý chất thải quy mô lớn,
đầu tư công nghệ hiện đại để có thể thu hồi sản phẩm dùng được từ chất
thải. Một số biện pháp hóa - lý thông dụng trong xử lý chất thải như sau:
+ Chiết: là quá trình tách các cấu tử ra khỏi hỗn hợp nhờ một hệ dung môi
có khả năng hòa tan chọn lọc một số chất trong hỗn hợp đó. Trong xử lý
chất thải, quá trình chiết thường được ứng dụng để tách hoặc thu hồi các
chất hữu cơ có lẫn trong chất thải dầu mỡ, dung môi, hóa chất bảo vệ thực
vật, v.v... Sau khi chiết, người ta thường thu hồi lại dung môi bằng cách
chưng cất hỗn hợp. Sản phẩm chiết còn lại có thể được tái sử dụng hoặc xử
lý bằng cách khác.
+ Chưng cất: là quá trình tách hỗn hợp chất lỏng bay hơi thành những
cấu tử riêng biệt dựa vào độ bay hơi khác nhau ở những nhiệt độ sôi
khác nhau của mỗi cấu tử chứa trong hỗn hợp đó bằng cách lặp đi lặp lại
nhiều lần bay hơi và ngưng tụ. Quá trình chưng cất dựa trên cơ sở là các
cấu tử của hỗn hợp lỏng có nhiệt độ sôi khác nhau, khi đun nóng, những
chất có nhiệt độ sôi thấp hơn sẽ bay hơi trước và được tách riêng ra khỏi
hỗn hợp.
Trong thực tế xử lý chất thải, quá trình chưng cất thường gắn với quá
trình chiết để tăng cường khả năng tách sản phẩm. Trong các quá trình
16
nhiệt phân các chất thải hữu cơ, các phương pháp chiết và chưng cất
cũng thường được kết hợp sử dụng.
+ Kết tủa, trung hòa: dựa trên phản ứng tạo sản phẩm kết tủa giữa chất
bẩn (tạp chất) và hóa chất để tách chất bẩn ra khỏi dung dịch. Quá trình
này thường được ứng dụng để tách các kim loại nặng trong chất thải
lỏng ở dạng hyđroxyt kết tủa hoặc dạng muối không tan. Ví dụ như việc
tách Cr, Ni trong nước thải mạ điện nhờ phản ứng giữa Ca(OH)2 với các
ion Cr3+ (khử từ Cr VI) và Ni2+ tách các kết tủa Cr(OH)3, Ni(OH)2 có thể
thu hồi.
+ Oxy hóa - khử: là quá trình sử dụng các tác nhân oxy hóa - khử để tiến
hành phản ứng oxy hóa - khử, chuyển chất thải độc hại thành không độc
hại hoặc ít độc hại hơn.
Trong thực tế ở Việt Nam, với mục tiêu đề xuất các giải pháp công nghệ
và quản lý phù hợp để thu hồi, tái sử dụng, xử lý hoặc thải bỏ an toàn
một số loại hình chất thải công nghiệp nguy hại điển hình tại Tp.Hồ Chí
Minh, phục vụ cho công tác quản lý quy hoạch và quản lý chất thải công
nghiệp nguy hại và BVMT, một số tác giả đã nghiên cứu và đề xuất thực
hiện đề tài xử lý 10 nhóm chất thải công nghiệp nguy hại điển hình.: 1/
dầu nhớt thải (xử lý theo hướng chưng cất đơn giản kết hợp chưng cất
phân đoạn nhằm tạo ra các sản phẩm có giá trị cao); 2/ chất thải nhiễm
dầu – cặn dầu (xử lý theo hướng chế biến thành nhiên liệu rắn để thu hồi
nhiệt); 3/ chất thải hữu cơ tạp – hóa chất bảo vệ thực vật tồn đọng (xử lý
theo phương pháp oxy hóa nâng cao ở nhiệt độ thấp); 4/ chất thải bùn
17
chứa kim loại nặng (xử lý theo phương pháp ổn định đóng rắn – sản xuất
gạch ceramic); 5/ bùn thải nhiễm hóa chất bảo vệ thực vật - cống rãnh,
chất lắng kênh rạch (xử lý theo phương pháp sinh học dùng chế phẩm
Daramend và sản xuất phân bón; 6/ chất vô cơ tạp - ắc quy thải (xử lý
theo hướng thu hồi chì và sản xuất sản phẩm phụ); 7/ đất nhiễm hóa chất
bảo vệ thực vật (xử lý theo hướng khử ô nhiễm bằng nhiệt áp dụng công
nghệ ISTD); 8/ chất thải từ ngành sản xuất sơn – vecni (xử lý bằng
phương pháp đốt); 9/ vụn kim loại nhiễm hóa chất (xử lý theo hướng tái
chế thu hồi kim loại có bộ phận làm sạch trước khi tái chế); 10/ xỉ kẽm
từ ngành mạ (xử lý theo hướng thu hồi kim loại để sản xuất các sản
phẩm phụ - bột màu hoặc muối dùng trong sản xuất phân bón).
Ngoài ra tác giả còn đề xuất các giải pháp quản lý các loại hình chất thải
công nghiệp nguy hại điển hình phù hợp với điều kiện Thành phố và các
khu chế xuất – khu công nghiệp, các cơ sở sản xuất công nghiệp quy mô
nhỏ và vừa, các cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề trong
khu vực.
III. CÁC BIỆN PHÁP TIÊU HUỶ CHẤT THẢI
III.1. Xác định chất thải cần tiêu huỷ và các thủ tục pháp lý cần
thiết
Ngoài việc sử dụng các kết quả nghiên cứu và phân tích để kiểm soát,
điều khiển các quá trình sản xuất trong CNHC và nắm bắt đặc điểm của
các sản phẩm, người ta còn sử dụng các kết quả này để xác định tính
18
chất của các chất thải và đưa ra những quy trình tiêu hủy chất thải hợp
lý. Những số liệu phân tích đối với các chất thải cần huỷ bỏ được đưa ra
và các thông tin này cũng được sử dụng khi bốc xếp, lưu trữ và lựa chọn
phương pháp tiêu huỷ chất thải thích hợp.
Tuỳ theo từng trường hợp, việc tiêu huỷ và vận chuyển chất thải chỉ
được tiến hành khi được phép của các cơ quan có thẩm quyền. Người ta
phải lập các hồ sơ với các thông số có liên quan theo đúng quy định
trước khi tiến hành thiêu huỷ chất thải.
III. 2. Tiêu hủy bằng cách đốt chất thải
Những loại chất thải dân dụng hoặc công nghiệp các dạng (rắn, dạng bột
nhão và lỏng) phát sinh từ những hoạt động bình thường của con người
nhưng không thể được chôn lấp vì các lý do (nhất là chứa các cấu tử gây
hại tới môi trường nước ngầm, đất), hoặc là có thể cho phép tận thu được
năng lượng nhiệt khi đốt là những đối tượng thích hợp cho quá trình đốt
hủy chất thải. Yêu cầu nghiêm ngặt là khi đốt các chất thải chỉ bị cháy
mà không được phát nổ.
Đốt là quá trình oxy hóa chất thải ở nhiệt độ cao. Công nghệ này rất phù
hợp để xử lý các chất thải rắn công nghiệp và chất thải nguy hại hữu cơ
như cao su, nhựa, giấy bẩn, da, cặn dầu, dung môi, thuốc bảo vệ thực vật
và các loại bao bì của chúng. Đặc biệt là chất thải y tế là đối tượng
thường được quy định thiêu hủy. Theo các tài liệu kỹ thuật thì khi thiết
kế lò đốt chất thải phải đảm bảo 4 yêu cầu cơ bản: cung cấp đủ oxy cho
19
quá trình nhiệt phân bằng cách đưa vào buồng đốt một lượng không khí
dư; khí dư sinh ra trong quá trình cháy phải được duy trì đủ lâu trong lò
đốt để được đốt cháy hoàn toàn (thông thường không ít hơn 4 giây);
nhiệt độ phải đủ cao (thông thường cao hơn 1.000o C) và có đủ oxy.
Công nghệ thiêu đốt có nhiều ưu điểm như khả năng tận dụng nhiệt, xử
lý triệt để khối lượng, sạch sẽ, không tốn đất để chôn lấp nhưng cũng có
một số hạn chế như chi phí đầu tư, vận hành, xử lý khí thải lớn và dễ tạo
ra các sản phẩm phụ nguy hiểm (khí thải, bã rắn).
Trước khi đốt, mỗi chất thải cần được nghiên cứu, điều tra kĩ lưỡng về
mặt vật lý và hoá học. Mục tiêu của việc nghiên cứu, điều tra này là để
nắm được các giới hạn phát thải liên quan tới an toàn và vệ sinh công
nghiệp cùng các tiêu chuẩn về phòng chống cháy nổ cần thiết. Những
kết quả nghiên cứu, điều tra này cho phép phân loại các chất thải và đưa
ra các quy trình đốt hủy tối ưu.
Hiện nay quá trình thiêu hủy thường được tiến hành trong những thống
thiết bị đốt chuyên dụng như các lò quay, lò tầng sôi và các lò nung
nhiều buồng hoặc trong lò công nghiệp. Hiện tại, một số nơi trên thế giới
người ta đang quan tâm đến việc liên kết với các nhà máy xi măng để xử
lý một số loại chất thải rắn công nghiệp và chất thải nguy hại trong lò
nưng xi măng. Ở nước ta đã có dự án đốt thử nghiệm tại Nhà máy Xi
măng Holcim ở Kiên Giang. Tuy nhiên, để triển khai được theo hướng
này, cần có thời gian chuẩn bị nhiều mặt, cả về pháp lý, nguồn lực thu
20
gom vận chuyển cũng như sự đồng thuận của cộng đồng và doanh
nghiệp.
Để làm sạch khí thải người ta thường dùng các quá trình rửa khí. Các khí
thải được làm nguội và năng lượng nhiệt c