Đề tài Bắt người trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng

Xuất phát từ đặc trưng của quan hệ xã hội là đối tượng điều chỉnh của luật tố tụng hình sự. Đó là những quan hệ luôn có một bên là quyền lực cơ quan Nhà nước có trách nhiệm và quyền hạn giải quyết các vụ án hình sự, mặt khác tội phạm là hành vi nguy hiểm không chỉ cho riêng một cá nhân nào mà hành vi nguy hiểm cho xã hội, nguy hiểm cho lợi ích chung của cộng đồng, do vậy trong tố tụng hình sự các cơ quan có thẩm quyền có quyền áp dụng các biện pháp cưởng chế để tác động tới đối tượng. Đặc điểm chung của các biện pháp cưởng chế là sự tác động một chiều không phụ thuộc vào ý trí của bên bị tác động xuất phát từ những căn cứ điều kiện do pháp luật quy định. Một trong các biện pháp cưỡng chế đó là biện pháp bắt người. Để làm rõ vấn đề này em xin chọn đề tài: “Bắt người trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng”. Do sự hiểu biết có hạn, trong bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong được sự góp ý của các thầy cô.

doc17 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2331 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Bắt người trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU TÀI LIỆU THAM KHẢO A- ĐẶT VẤN ĐỀ Xuất phát từ đặc trưng của quan hệ xã hội là đối tượng điều chỉnh của luật tố tụng hình sự. Đó là những quan hệ luôn có một bên là quyền lực cơ quan Nhà nước có trách nhiệm và quyền hạn giải quyết các vụ án hình sự, mặt khác tội phạm là hành vi nguy hiểm không chỉ cho riêng một cá nhân nào mà hành vi nguy hiểm cho xã hội, nguy hiểm cho lợi ích chung của cộng đồng, do vậy trong tố tụng hình sự các cơ quan có thẩm quyền có quyền áp dụng các biện pháp cưởng chế để tác động tới đối tượng. Đặc điểm chung của các biện pháp cưởng chế là sự tác động một chiều không phụ thuộc vào ý trí của bên bị tác động xuất phát từ những căn cứ điều kiện do pháp luật quy định. Một trong các biện pháp cưỡng chế đó là biện pháp bắt người. Để làm rõ vấn đề này em xin chọn đề tài: “Bắt người trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng”. Do sự hiểu biết có hạn, trong bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong được sự góp ý của các thầy cô. B- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI 1. Khái niệm Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị truy nã hoặc đối với những người chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang), nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Bắt người là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người đang bị truy nã và trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang thì áp dụng cả đối với người chưa bị khởi tố về hình sự nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội của họ, ngăn ngừa họ trốn tránh pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. 2. Ý nghĩa của biện pháp bắt người Quy định và áp dụng biện pháp bắt người trong tố tụng hình sự có ý nghĩa lớn trong việc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm: Biện pháp bắt người thể hiện sự chuyên chính của Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong việc đấu tranh chống tội phạm. Việc quy định và đảm bảo thực hiện biện pháp bắt người trong Bộ luật tố tụng hình sự là một biểu hiện cụ thể của quan điểm của Nhà nước, coi việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, ngăn chặn kịp thời, xử lý nghiêm minh nhằm tiến tới loại trừ hiện tượng phạm tội ra khỏi đời sống xã hội là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất và phải được tiến hành một cách triệt để, kiên quyết. Biện pháp bắt người đảm bảo cho các hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng được thuận lợi, góp phần nâng cao hiệu quả của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Bởi lẽ, với tính đặc thù "cưỡng chế nhằm ngăn chặn", biện pháp bắt người đã góp phần hạn chế tới mức thấp nhất những khó khăn mà người phạm tội có thể gây ra cho quá trình giải quyết vụ án. Biện pháp bắt người bảo đảm sự dân chủ, tôn trọng quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp quy định và bảo vệ - quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Điều này thể hiện ở chỗ việc áp dụng hay không áp dụng biện pháp bắt người trong đấu tranh phòng chống tội phạm không xuất phát từ ý muốn chủ quan, bởi sự áp đặt từ phía các cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà là từ các quy định của pháp luật, từ sự tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của con người và đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn. Mọi trường hợp thực hiện không đúng các quy định pháp luật trong việc áp dụng biện pháp bắt người đều phải bị phát hiện và khắc phục kịp thời, nếu gây hậu quả nghiêm trọng sẽ bị xử lý nghiêm minh. Như vậy, việc quy định và đảm bảo áp dụng nghiêm chỉnh những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự là sự thể hiện tập trung và rõ nét nhất sự dân chủ, tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa của Nhà nước ta. 3. Lịch sử hình thành các quy định về biện pháp bắt người Với ý nghĩa và tầm quan trọng của việc bắt người như vậy nên thời gian trước đây, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật tố tụng hình sự quy định chi tiết về việc bắt người như: Luật số 103-SL/L005 ngày 20/5/1957; Sắc luật 002-SLt ngày 18/6/1957; Sắc luật 02-SL ngày 15/3/1976, gần đây nhất là Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 - Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các quy định về bắt người trong các văn bản trên ngày càng hoàn thiện, từ những quy định đầu tiên còn mang tính nguyên tắc, khái quát, các văn bản sau này đã có sự phân chia thành các trường hợp bắt người với quy định về căn cứ áp dụng, thẩm quyền ra lệnh bắt người cũng như thủ tục bắt người ngày càng cụ thể, chặt chẽ. Thực hiện các quy định trong các văn bản pháp luật trên, việc bắt người đã phát huy được tác dụng to lớn trong cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, việc vận dụng các quy định trên trong một thời gian dài mà ít có sự thay đổi đã không thể tránh khỏi nhiều hạn chế do sự phát triển không ngừng của đất nước và những diễn biến phức tạp của xã hội và tình hình tội phạm. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, cũng như yêu cầu của việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và việc đảm bảo các quyền cơ bản của công dân, kế thừa có chọn lọc các quy quy định về bắt người trong các văn bản pháp luật trước đây, nhất là quy định của BLTTHS 1988, BLTTHS 2003 ra đời quy định tương đối hoàn thiện về biện pháp bắt người. Quyết định bắt người liên quan trực tiếp đến quyền tự do thân thể - một quyền cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp. Vì vậy, việc quy định cũng như áp dụng biện pháp bắt người phải trên cơ sở quy định tại Điều 71 Hiến pháp 1992 về quyền này. II. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2003 VỀ BẮT NGƯỜI 1. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam (Điều 80 BLTTHS) Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là bắt người đã bị khởi tố về hình sự hoặc người đã bị toà án quyết định đưa ra xét xử để tạm giam nhằm ngăn chặn bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. 1.1. Căn cứ áp dụng Đối tượng bị bắt để tạm giam chỉ có thể là bị can hoặc bị cáo. Trong đó, "bị can là người đã bị khởi tố về hình sự" (Khoản 1 Điều 49), "bị cáo là người đã bị Toà án quyết định đưa ra xét xử" (Khoản 1 Điều 50). BLTTHS 2003 không quy định cụ thể việc bắt để tạm giam được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong các trường hợp nào nhưng không phải mọi bị can, bị cáo đều có thể hoặc cần bắt để tạm giam mà chỉ bắt tạm giam đối với những bị can, bị cáo nào nếu xét thấy cần thiết. Mục đích của bắt người trong trường hợp này là để tạm giam, nên có thể căn cứ vào các trường hợp áp dụng biện pháp tạm giam để xác định những đối tượng có thể bị bắt để tạm giam. Theo Khoản 1 Điều 88, "tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong các trường hợp sau đây: a) Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng; b) Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội...". Theo quy định trên, cơ quan có thẩm quyền có thể căn cứ vào tính chất của tội phạm bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, các đặc điểm về nhân thân cũng như thái độ chấp hành pháp luật của bị can, bị cáo trong quá trình giải quyết vụ án. Đối với bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng thì việc bắt để tạm giam họ là cần thiết vì với các tội phạm trên pháp luật quy định việc xử lý rất nghiêm khắc do tính chất, mức độ nguy hiểm cao của chúng, mặt khác phần lớn người phạm tội cũng nhận thức được trách nhiệm pháp lý mà họ phải chịu vì đã thực hiện hành vi phạm tội đó là rất nặng nề nên thường tìm mọi cách để trốn tránh, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án. Còn trong trường hợp thứ hai, mặc dù bị can, bị cáo bị khởi tố, điều tra, truy tố hoặc bị Toà án quyết định đưa vụ án ra xét xử về tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng nhưng nhân thân xấu cũng như có căn cứ khẳng định bị can, bị cáo sẽ trốn hoặc có hành vi gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử thì việc quyết định bắt để tạm giam đối với họ được xác định là cần thiết. 1.2. Thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam (Khoản 1 Điều 80) Trong giai đoạn điều tra, việc bắt bị can để tạm giam do Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra (CQĐT) các cấp quyết định. Trường hợp CQĐT ra lệnh bắt bị can để tạm giam phải được Viện kiểm sát (VKS) cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành nhằm kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của lệnh bắt để đảm bảo hiệu lực của lệnh bắt người cũng như sự cần thiết phải bắt tạm giam bị can, đồng thời giúp hạn chế tình trạng lạm dụng quyền được áp dụng biện pháp ngăn chặn để tác động một cách trái pháp luật đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân vì những mục đích cá nhân. Trong giai đoạn truy tố, việc bắt bị can để tạm giam do Viện trưởng, Phó viện trưởng VKSND và VKSQS các cấp quyết định. Trong giai đoạn xét xử, việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam do Chánh án, Phó chánh án Toà án nhân dân (TAND) và Toà án quân sự (TAQS) các cấp; Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó chánh toà toà phúc thẩm TAND tối cao; Hội đồng xét xử quyết định. Thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam theo quy định tại BLTTHS 2003 thu hẹp hơn so với BLTTHS 1988, bỏ thẩm quyền của Trưởng công an, Phó trưởng công an cấp huyện; Thẩm phán TAND tỉnh hoặc thẩm phán TAQS cấp quân khu được phân công chủ toạ phiên toà. Đồng thời, quy định của BLTTHS 2003 cũng quy định ngắn gọn, chặt chẽ có tính khái quát cao về thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam. 1.3. Thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam (Khoản 2 và khoản 3 Điều 80) Việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải có lệnh của người có thẩm quyền; lệnh bắt phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị bắt và lí do bắt. Lệnh phải có chữ kí của người ra lệnh và có đóng dấu cơ quan. Lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải đảm bảo yêu cầu pháp lý nêu trên mới có giá trị thi hành. Hiện nay, CQĐT các cấp vẫn dùng mẫu lệnh bắt tạm giam bị can để bắt bị can. Trong lệnh này ghi cả thời hạn tạm giam bị can, trong khi đó "bắt bị can, bị cáo để tạm giam" và "tạm giam" là hai biện pháp ngăn chặn độc lập mặc dù có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Có ý kiến cho rằng nên dùng hai mẫu lệnh: lệnh bắt bị can để tạm giam và lệnh tạm giam bị can. Như vậy sẽ đảm bảo tính khoa học, rõ ràng trong việc áp dụng pháp luật nhưng gặp khó khăn là VKS không thể phê chuẩn lệnh tạm giam trước khi CQĐT bắt được bị can vì không biết thời hạn tạm giam tính từ ngày nào; trường hợp bắt được bị can rồi mới ra lệnh tạm giam và xin phê chuẩn thì phải có quy định của luật về thời hạn phê chuẩn lệnh và trong thời gian chờ phê chuẩn của VKS, bị can, bị cáo chưa thể tam giam thì xử lý như thế nào? Như vậy, việc sử dụng lệnh kép như hiện nay là tương đối thuận tiện và hợp lý. Trước khi bắt, người thi hành lệnh bắt phải đọc lệnh bắt và giải thích lệnh bắt, quyền và nghĩa vụ cho người bị bắt nghe. Người bị bắt có quyền yêu cầu người thi hành lệnh bắt đọc toàn văn lệnh bắt và giải thích lệnh. Trong trường hợp có nghi ngờ về lệnh bắt, người bị bắt có quyền yêu cầu cho xem lệnh bắt. Những yêu cầu đó phải được người thi hành lệnh bắt chấp nhận. Khi bắt phải lập biên bản bắt người. Biên bản ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm bắt, nơi lập biên bản; những việc đã làm, tình hình diễn biến trong khi thi hành lệnh bắt, thái độ củ người bị bắt trong việc chấp hành lệnh bắt, những đồ vật, tài liệu có liên quan được phát hiện, bị tạm giữ và những yêu cầu, khiếu nại của người bị bắt. Biên bản phải được đọc cho người bị bắt và những người chứng kiến nghe. Người bị bắt, người thi hành lệnh bắt và người chứng kiến phải cùng kí tên vào biên bản. Nếu không có ý kiến khác hoặc không đồng ý với nội dung biên bản thì họ có quyền ghi vào biên bản và kí tên. Nhằm đảm bảo sự tôn trọng quyền con người, tránh những tác động trái pháp luật có thể xảy ra trong quá trình thi hành lệnh bắt bị can, bị cáo ở những địa điểm khác nhau, đảm bảo cho việc kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, BLTTHS quy định: Khi tiến hành bắt người tại nơi cư trú của họ phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người láng giềng của người bị bắt chứng kiến; khi tiến hành bắt người tại nơi làm việc của họ phải có mặt đại diện của cơ quan, tổ chức nơi người bị bắt làm việc chứng kiến; khi tiến hành bắt người tại nơi khác phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến hành việc bắt chứng kiến. Quy định này là tương đối cụ thể, rõ ràng, đầy đủ và hợp lý, khắc phục thiếu sót của BLTTHS 1988. Bộ luật năm 1988 quy định rất chung chung, mới chỉ giới hạn các yêu cầu bắt buộc về thủ tục phải chấp hành khi bắt trong phạm vi hẹp là bắt người ở nơi cư trú và nơi làm việc. Do tính chất không cấp bách của việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam và để đảm bảo sinh hoạt bình thường của gia đình người bị bắt cũng như không gây ảnh hưởng đến hàng xóm của họ, luật quy định không bắt người vào ban đêm (từ sau 22 giờ tối ngày hôm trước đến trước 6 giờ sáng ngày hôm sau) trừ trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang (khoản 3 Điều 80). Việc quy định và thực hiện nghiêm chỉnh các quy định nêu trên về bắt bị can, bị cáo để tạm giam vừa thể hiện sự nghiêm khắc của Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tội phạm vừa là sự tôn trọng các quyền cơ bản của công dân, tránh mọi tác động trái pháp luật tới các quyền này. 2. Bắt người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 81 BLTTHS 2003) Bắt người trong trường hợp khẩn cấp là bắt người khi người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội của họ hay bắt người sau khi thực hiện tội phạm mà người người đó bỏ trốn, cản trở việc điều tra, khám phá tội phạm. 2.1. Căn cứ áp dụng (khoản 1 Điều 81) Điều 81 BLTTHS quy định một cách cụ thể các trường hợp bắt khẩn cấp: a. Trường hợp khẩn cấp thứ nhất: Khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đây là trường hợp hành vi khách quan được quy định trong cấu thành tội phạm chưa xảy ra, mới được thể hiện ở những hành vi tạo ra những điều kiện vật chất hoặc tinh thần giúp cho việc thực hiện tội phạm và hành vi phạm tội có thể xảy ra và xảy ra thuận lợi, dễ dàng hơn. Việc bắt người trong trường hợp này cần phải đảm bảo hai điều kiện: Có căn cứ khẳng định một người (hoặc nhiều người) đang chuẩn bị thực hiện tội phạm. Những căn cứ này có thể do cơ quan có thẩm quyền trực tiếp xác định qua việc theo dõi, kiểm tra đối tượng, xác minh các nguồn tin do quần chúng cung cấp đã khẳng định người đó đang tìm kiếm công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện cần thiết khác để thực hiện tội phạm như bàn mưu, tính kế, lập kế hoạch, lôi kéo người khác cùng thực hiện tội phạm. Những hành vi trên mặc dù chưa trực tiếp xâm hại đến lợi ích của nhà nước và công dân nhưng đã đặt các lợi ích ấy vào tình trạng bị đe doạ, cần thiết phải được bảo vệ kịp thời. Tội phạm đang được chuẩn bị thực hiện là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt ngiêm trọng. Chuẩn bị thực hiện tội phạm còn một khoảng cách nhất định với việc thực hiện tội phạm nên không phải mọi hành vi chuẩn bị thực hiện tội phạm đều cần truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều 17 BLHS quy định chỉ người nào chuẩn bị thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, muốn bắt khẩn cấp một người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm phải xác định tội phạm họ đang chuẩn bị thực hiện là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. b. Trường hợp khẩn cấp thứ hai: Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn. Đây là trường hợp tội phạm đã xảy ra, người thực hiện tội phạm không bị bắt ngay, bỏ đi nơi khác. Sau một thời gian, người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy đã xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm. Nếu CQĐT xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn thì ra lệnh bắt khẩn cấp. Trong trường hợp này, tính chất của tội phạm mà người phạm tội đã thực hiện không đóng vai trò quyết định trong việc xác định lý do bắt khẩn cấp. Lý do phải bắt đối với người phạm tội ở đây chính là việc có đủ cơ sở để khẳng định người đó đã thực hiện tội phạm và nếu không bắt ngay họ sẽ trốn. Việc bắt người trong trường hợp này cần đảm bảo hai điều kiện sau: Phải có người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và trực tiếp xác nhận đúng là người đó đã thực hiện tội phạm với cơ quan có thẩm quyền. Việc xác nhận phải mang tính khẳng định, chứ không thể “hình như”, “nhìn giống như” người đã thực hiện tội phạm. Nếu việc xác nhận không phải do người trực tiếp chứng kiến sự việc phạm tội thì không coi là điều kiện để bắt khẩn cấp, bởi lẽ nếu bắt trong trường hợp đó dễ dẫn đến việc bắt nhầm người không thực hiện tội phạm. Xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn. Những căn cứ cho rằng người phạm tội bỏ trốn thường là: đang có hành động bỏ trốn, đang chuẩn bị trốn; không có nơi cư trú rõ ràng; có nơi cư trú nhưng ở quá xa; là đối tượng lưu manh, côn đồ, hung hãn; chưa xác định được nhân thân của người đó (căn cước, lí lịch không rõ ràng). Đối với trương hợp khác thì vẫn tiến hành việc giải quyết vụ án mà không cần bắt khẩn cấp. c. Trường hợp khẩn cấp thứ ba: Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ. Đây là trường hợp cơ quan có thẩm quyền chưa có đủ tài liệu, chứng cứ để xác định người đó thực hiện tội phạm, nhưng qua việc phát hiện thấy dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người đó mà người đó bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn việc người này bỏ trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ thì bắt khẩn cấp. Việc bắt người trong trường hợp này cần đảm bảo hai điều kiện sau: Khi thấy dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm. Qua những hoạt động như khám chỗ ở, khám người, xem xét dấu vết trên thân thể, kiểm tra, kiểm soát hành chính… cơ quan có thẩm quyền tìm thấy dấu vết của tội phạm. Đó có thể là những vật chứng như công cụ, phưong tiện phạm tội, đối tượng của tội phạm.. cũng như dấu vết của tội phạm trên thân thể người bị nghi thực hiện tội phạm. Cần ngăn chặn người bị nghi thực hiện tội phạm trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ. Những căn cứ cho rằng người bị nghi thực hiện tội phạm bỏ trốn cũng tương tự như căn cứ cho rằng người phạm tội trong những trường hợp khẩn cấp thứ hai bỏ trốn. Tuy nhiên, nếu xác định người bị nghi thực hiện tội phạm không bỏ trốn nhưng lại có căn cứ cho rằng người đó đang tiêu huỷ chứng cứ như đang xoá dấu vết tội phạm, đang cất giấu công cụ, phương tiện phạm tội, đang tẩu tán tài sản vừa lấy được hoặc đang có hành vi làm giả chứng cứ làm sai lệch các tài liệu có liên quan đến hành vi phạm tội nhằm gây khó khăn cho việc điều tra xác định tội phạm thì những hành vi đó vẫn được coi là điều kiện để bắt khẩn cấp. 2.2. Thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp (Khoản 2 Điều 81) Khoản 2 Điều 81 BLTTHS quy định những người sau đây có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp: - Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp; - Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương, người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới; - Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng. Do tính chất cấp bách của việc bắt người trong trường hợp này cũng như phụ thuộc vào vị trí không gian đặc biệt nơi bắt người nên luật đã quy định cho một số chủ thể không phải là người tiến hành tố tụng nhưng vẫn có quyền bắt người. 2.3. Thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn cấp (khoản 3 và khoản 4 Điều 81) Thủ tục bắt người trong trường hợp khẩ
Luận văn liên quan