Đề tài Bí mật đời tư – một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Trong cuộc sống mỗi cá nhân chúng ta đều có những điều được gọi là “bí mật” mà bản thân chúng ta không muốn ai biết. Không những thế với thời đại ngày nay cái điều được gọi là “bí mật” ấy còn được pháp luật tôn trọng và bảo vệ, pháp luật nâng nó lên thành một trong những quyền nhân thân của con người gọi là “quyền bí mật đời tư”. Trong pháp luật Việt Nam quyền bí mật đời tư được quy định cụ thể tại điều 38 của Bộ luật dân sự 2005. Tuy nhiên, khái niệm “bí mật đời tư” và “quyền bí mật đời tư” chưa được quy định một cách cụ thể nên có nhiều cách hiểu khác nhau. Để góp phần đưa ra cách hiểu thống nhất về bí mật đời tư cũng như xác định hành vi xâm phạm bí mật đời tư trong thực tiễn, trên quy mô của một bài tập học kì, em xin lựa chọn đề tài: “Bí mật đời tư – một số vấn đề lý luận và thực tiễn”. Đây là một đề tài khá thú vị song cũng không hề đơn giản. Với một hiểu biết còn nhiều hạn chế nên bài viết chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đánh giá và đóng góp ý kiến của các thầy cô để giúp bài viết của em được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô!.

doc21 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 5307 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bí mật đời tư – một số vấn đề lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời Nói Đầu. Trong cuộc sống mỗi cá nhân chúng ta đều có những điều được gọi là “bí mật” mà bản thân chúng ta không muốn ai biết. Không những thế với thời đại ngày nay cái điều được gọi là “bí mật” ấy còn được pháp luật tôn trọng và bảo vệ, pháp luật nâng nó lên thành một trong những quyền nhân thân của con người gọi là “quyền bí mật đời tư”. Trong pháp luật Việt Nam quyền bí mật đời tư được quy định cụ thể tại điều 38 của Bộ luật dân sự 2005. Tuy nhiên, khái niệm “bí mật đời tư” và “quyền bí mật đời tư” chưa được quy định một cách cụ thể nên có nhiều cách hiểu khác nhau. Để góp phần đưa ra cách hiểu thống nhất về bí mật đời tư cũng như xác định hành vi xâm phạm bí mật đời tư trong thực tiễn, trên quy mô của một bài tập học kì, em xin lựa chọn đề tài: “Bí mật đời tư – một số vấn đề lý luận và thực tiễn”. Đây là một đề tài khá thú vị song cũng không hề đơn giản. Với một hiểu biết còn nhiều hạn chế nên bài viết chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đánh giá và đóng góp ý kiến của các thầy cô để giúp bài viết của em được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô!. Nội Dung. Bí mật đời tư và quyền bí mật đời tư trong pháp luật. 1. Quyền bí mật đời tư trong pháp luật. Quyền bí mật đời tư là quyền cơ bản trong hệ thống các quyền nhân thân của cá nhân. Quyền bí mật đời tư được thừa nhận rộng rãi trong pháp luật nhiều nước trên thế giới và được ghi nhận trong Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948. Cụ thể tại Điều 3 quy định “Mọi người đều có quyền sống, tự do và an toàn cá nhân”. Không những trong tuyên ngôn toàn thế giới mà quyền bí mật đời tư còn được quy định trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và một số công ước khác của Liên Hợp Quốc. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị 1966: “Việc hành xử quyền tự do phát biểu quan điểm đòi hỏi đương sự phải có những bổn phận và trách nhiệm đặc biệt” (Điều 19). Ở Việt Nam: Điều 71 Hiến pháp 1992 quy định: “nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm nhân phẩm, danh dự của công dân”. Điều 73 Hiến pháp 1992 cũng quy định rằng: “Thư tín, điện thoại, điện tín của công dân được đảm bảo an toàn và bí mật”. Điều 34 Bộ luật dân sự 1995 chỉ ghi nhận ngắn gọn: “1. Quyền đối với bí mật đời tư của cá nhân được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. 2. Việc thu thập thông tin, công bố tư liệu về đời tư của cá nhân phải được người đó đồng ý hoặc nhân thân của người đó đồng ý; nếu người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, trừ trường hợp thu thập công bố thông tin, tư liệu theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và phải được thực hiện theo quy định của pháp luật. 3. Không ai được tự tiện bóc mở, thu giữ, tiêu hủy thư tín, điện tín, nghe trộm điện thoại hoặc có hành vi khác nhằm ngăn chặn cản trở đường liên lạc của người khác. Chỉ trong những trường hợp được pháp luật quy định và phải có lệnh của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới được tiến hành việc kiểm soát thư tín, điện thoại, điện tín của cá nhân”. Như vậy, theo Điều luật này, bí mật đời tư được giới hạn trong phạm vi “thư tín, điện tín, điện thoại”, “đường liên lạc”. Điều 38 Bộ luật dân sự 2005 quy định quyền bí mật đời tư trong phạm vi rộng hơn, tức bổ sung thêm “các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân” bởi trong xã hội ngày nay ngành công nghệ thông tin quá phát triển thì chỉ cần một thao tác nhỏ là thông tin có thể đến với hàng triệu người chỉ trong vài giây. Sự vi phạm quyền con người cũng trở nên dễ dàng hơn, đặc biệt các quyền liên quan đến bí mật đời tư, bí mật thư tín, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền tác giả… Thông tin bôi nhọ, thông tin đời tư có thể “lây lan” khủng khiếp qua mạng. Hơn nữa, lại rất khó khăn phát hiện người vi phạm pháp luật thông qua mạng toàn cầu. Sự kích động nhằm mục đích xấu (khủng bố, bạo lực, phân biệt chủng tộc...) trở nên nguy hiểm hơn cho xã hội do có tính lây lan rất nhanh. Mặc dù công nghệ Internet chắc chắn là đã giảm bớt đi quyền lực nhà nước nhưng đồng thời, nó cũng củng cố quyền lực cho những ai không nằm trong danh sách “bạn bè của xã hội dân sự” (các phong trào cực đoan). Còn nội dung khác vẫn giữ nguyên theo tinh thần của bộ luật dân sự 1995. Điều 38 Bộ luật dân sự 2005 quy định cụ thể như sau: “1. Quyền bí mật đời tư của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. 2. Việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân phải được người đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp thu thập, công bố thông tin, tư liệu theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. 3. Thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật. Việc kiểm soát thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được thực hiện trong trường hợp pháp luật có quy định và phải có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”. 2. Khái niệm bí mật đời tư. Hiện nay chưa có văn bản pháp luật nào giải thích khái niệm “bí mật đời tư” rõ ràng. Liệu những thông tin được lấy phiên tòa công khai có được coi là xâm phạm bí mật đời tư?. Pháp luật Việt Nam hiện nay chưa rõ ràng về phạm vi của khái niệm “bí mật đời tư”. Đây chính là một trong những hạn chế lớn nhất của pháp luật về vấn đề này. BLDS năm 2005 cũng không đưa ra khái niệm “bí mật đời tư” mà chỉ ghi nhận quyền bí mật đời tư. Đây chính là một trong những khó khăn khi các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến “bí mật đời tư”. Vậy, bí mật đời tư là gì ?. Có rất nhiều quan điểm khác nhau khi đề cập đến khái niệm bí mật đời tư. Trước khi đưa ra quan điểm trong việc xác định thế nào là bí mật đời tư, xin trích dẫn một số quan điểm xung quanh vấn đề này. Theo cuốn Đại từ điển Tiếng Việt thì bí mật được giải thích là “giữ kín, không để lộ ra, không công khai”. Một cách giải thích khác thì cho rằng: Bí mật “là thông tin cần che giấu, chỉ để một số nhất định những người có liên quan được biết. Những thông tin được xác định là bí mật chỉ mang ý nghĩa tương đối. Dưới góc độ này hay đối với một bên thì nó có thể cần phải che đậy, giữ kín, nhưng dưới góc độ khác, đối với bên khác nó có thể không cần che giấu. Tính bí mật có được do những gì chứa đựng trong thông tin đó có liên quan đến một điều gì đó mà nếu để người không có nhiệm vụ biết thì có thể sẽ gây ảnh hưởng xấu, gây thiệt hại cho bên cần che giấu. Bí mật thông thường được chia làm ba cấp độ, từ thấp đến cao là: Mật; Tối mật; Tuyệt mật.” Như vậy, theo sự giải thích này thì bí mật được xác định bởi các yếu tố sau: Bí mật là những “thông tin”; Những “thông tin” này được che giấu bằng những biện pháp, cách thức khác nhau; Những “thông tin” được coi là bí mật này nếu để người không có nhiệm vụ biết thì có thể sẽ gây ảnh hưởng xấu, gây thiệt hại cho bên cần che giấu thông tin. Tuy nhiên, quan điểm này cũng cho rằng những “thông tin” được coi là bí mật cũng chỉ mang tính tương đối. Mặt khác, ngoài những thông tin liên quan đến cá nhân, theo BLDS 2005 thì còn có những tư liệu. Nếu đặt trong mối liên hệ đối với quyền bí mật đời tư, thì thông tin có thể được hiểu bao hàm cả yếu tố tư liệu. Luật sư Hồ Hữu Tỷ ( đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh) cho rằng: “bí mật đời tư có thể được hiểu là những gì gắn với nhân thân con người, là quyền cơ bản. Đó có thể là những thông tin về hình ảnh, cuộc sống gia đình, tên gọi, con cái, các mối quan hệ… gắn liền với một cá nhân mà người này không muốn cho người khác biết. Những bí mật đời tư này chỉ có bản thân người đó biết hoặc những người thân thích, người có mối liên hệ với người đó biết và họ chưa từng công bố ra ngoài cho bất kỳ ai.“Bí mật đời tư”có thể hiểu là “chuyện trong nhà” của cá nhân nào đó. Ví dụ: con ngoài giá thú, di chúc, hình ảnh cá nhân, tình trạng sức khỏe, bệnh tật, các loại thư tín, điện thoại, điện tín, v.v…” Như vậy, quan điểm này cũng chỉ ra rằng bí mật đời tư là những thông tin gắn liền với cá nhân, chỉ có thể mình họ hoặc một số người hạn chế biết được. Tuy nhiên, nếu hiểu như vậy thì cũng chưa bao quát được nội hàm của khái niệm bí mật đời tư, bởi lẽ nếu hiểu bí mật đời tư là những thông tin “chưa từng công bố cho bất kỳ ai” thì cũng không đúng. Có trường hợp thông tin này đã được công bố nhưng bản thân người tiếp nhận thông tin phải có nghĩa vụ bảo mật thông tin thì thông tin đó vẫn được coi là “bí mật đời tư”. Theo Tiến sĩ Nguyễn Văn Luật thì: “…bí mật đời tư của cá nhân được hiểu trên hai phương diện: 1. Bí mật về đời sống tình cảm,tinh thần: Bí mật về đời sống tình cảm của cá nhân thể hiện tính chất đặc biệt riêng tư của cá nhân đó. Điều luật cấm công khai cho mọi người biết các mối quan hệ thực tại hoặc mang tính chất hình tượng mà cá nhân đó vốn có. 2. Bí mật về đời sống nghề nghiệp, vật chất của cá nhân thể hiện là những bí mật về hoạt động nghề nghiệp; tình trạng vật chất gắn liền với hoạt động đó.” Nếu theo như Tiến sĩ Nguyễn Văn Luật thì khái niệm bí mật đời tư được bao quát trên các phương diện: “tình cảm, tinh thần” và “nghề nghiệp, vật chất”. Tuy nhiên, theo cách diễn giải này thì cũng không có một giới hạn cụ thể cho khái niệm bí mật đời tư, điều đó có nghĩa là khái niệm bí mật đời tư có thể được khái quát theo hướng liệt kê mà không được khái quát theo hướng bao quát. Nếu đưa ra khái niệm bí mật đời tư theo hướng liệt kê thì có những trường hợp việc liệt kê sẽ không đầy đủ. Mặt khác, khái niệm “bí mật đời tư” chỉ có ý nghĩa tương đối. Bởi vì, cùng một loại thông tin liên quan đến cá nhân nhưng với người này họ cho rằng đó là “bí mật đời tư” của họ nhưng với người khác thì lại cho rằng đó không phải là bí mật đời tư mà ai cũng có thể biết và việc biết những thông tin đó không có gì là xâm phạm bí mật đời tư. Đối với mỗi người thì việc xác định như thế nào là “bí mật đời tư” chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố. Ví dụ, có người từ thuở nhỏ đã bị một cú sốc lớn về tinh thần (từng bị xâm hại tình dục, người thân bị rơi vào vòng lao lí,…), họ không muốn ai nhắc lại chuyện đó nữa, họ muốn quên kỷ niệm không tốt đẹp đó. Cái mà họ không muốn ai nhắc lại hoặc mang ra nói cho người khác biết đó chính là “bí mật đời tư” của họ, nếu ai tiết lộ những thông tin này của họ thì hành vi đó sẽ bị coi là xâm phạm bí mật đời tư. Nhưng cũng có người chỉ đơn thuần coi việc đó là một tai nạn, đôi khi chính họ cũng nhắc lại, họ muốn chia sẻ nó để nhận được sự cảm thông từ mọi người, họ cho rằng khi mình sống chân thành thẳng thắn thì mọi người cũng sẽ tôn trọng mình không phân biệt hay có những hành động kì thị đối với mình. Họ không coi nó là “bí mật” thì nếu người khác tiết lộ thông tin gì về việc đó cũng sẽ không bị coi là xâm phạm bí mật đời tư. Thói quen sống, làm việc, phong tục tập quán…cũng là những yếu tố ảnh hưởng tới quan niệm bí mật đời tư. Mặt khác các qui định của pháp luật có liên quan cũng cần được chú ý khi chúng ta xem xét đến khái niệm bí mật đời tư. Chẳng hạn: trong điều kiện hiện nay, việc minh bạch tài sản của cá nhân là một yếu tố mà chúng ta không thể làm được, mặc dù điều này chúng ta có thể tiến hành trong một số trường hợp cụ thể (cán bộ lãnh đạo, những người giữ những trọng trách vị trí nhất định trong xã hội…). Quyền nhân thân nói chung, quyền bí mật đời tư nói riêng liên quan mật thiết đến sự tự do của mỗi con người. Con người có sự tự do của mình, sự tự do đó không chỉ trong suy nghĩ mà còn trong cả các công việc mà họ làm. Tuy nhiên, nếu như chúng ta hiểu bản chất của con người là tự do, bản chất của pháp luật là hạn chế thì sự tự do của cá nhân luôn bị giới hạn bởi sự tự do của người khác. Mỗi người cần tạo ra cho mình một thói quen “ sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật”. Chúng ta được tự do, đấy là quyền của chúng ta nhưng sự tự do ấy cần là sự “tự do trong khuôn khổ”. Điều đó có nghĩa rằng để thoả mãn quyền nhân thân nói chung, quyền bí mật đời tư của cá nhân nói riêng thì quyền này phải được xem xét trong mối tương quan lợi ích giữa cá nhân với cộng đồng. Sở dĩ như vậy, vì có rất nhiều tình huống, trường hợp về hành vi thì đó là sự xâm phạm bí mật đời tư, nhưng đặt trong mối tương quan với lợi ích công cộng thì hành vi đó lại là hành vi dễ dàng được chấp nhận và dĩ nhiên, điều đó sẽ không bị coi là trái pháp luật, không bị coi là xâm phạm bí mật đời tư. Điều này cũng có thể hiểu không chỉ áp dụng đối với trường hợp vì lý do an ninh, quốc phòng…mà thư tín, điện tín, điện thoại của cá nhân có thể bị xâm phạm mà trong một số trường hợp còn có thể chịu ảnh hưởng của bởi chính các qui định của pháp luật có liên quan như qui định về tự do ngôn luận, tự do báo chí… “Quyền bí mật đời tư” cũng không đồng nhất với khái niệm “Quyền riêng tư” (The Right to Privacy). Quyền riêng tư cũng liên quan đến cá nhân, tuy nhiên những vấn đề thuộc về riêng tư xét ở khía cạnh nào đó lại không được coi là bí mật, mặc dù pháp luật vẫn bảo hộ những quyền này. Bất cứ cá nhân nào cũng có sự tự do trong suy nghĩ, hành động – đây là sự “riêng tư” của chính họ. Lẽ dĩ nhiên, nếu là sự tự do trong suy nghĩ thì vấn đề không có gì phức tạp bởi không ai có thể bắt người khác phải suy nghĩ theo ý muốn của mình. Ngược lại, nếu là sự tự do trong hành động thì điều đó còn phụ thuộc vào các yếu tố khác như luật pháp, quan hệ với những người xung quanh, sự tác động của phong tục tập quán, thói quen…Chúng ta có thể thấy, pháp luật nói chung, pháp luật Việt Nam nói riêng luôn tôn trọng sự riêng tư của cá nhân (quyền bất khả xâm phạm chỗ ở, quyền lựa chọn công việc cho phù hợp với khả năng và điều kiện của bản thân, quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng…). Như vậy, qua những phân tích trên đây, để có thể hiểu được “Quyền bí mật đời tư” thì phải xây dựng được khái niệm “bí mật đời tư”. Việc xây dựng khái niệm “bí mật đời tư” phải xác định được hai khái niệm cũng như sự liên kết của hai khái niệm, đó là khái niệm “bí mật” và khái niệm “đời tư”. Khái niệm “bí mật” được hiểu “giữ kín, không để lộ ra, không công khai”. Như vậy, việc giữ kín, không công khai xét trong nội dung đang nghiên cứu liên quan đến các thông tin và đó là những thông tin không bộc lộ công khai. Tất nhiên, những thông tin này chỉ có người nắm giữ bí mật hoặc người liên quan bí mật này được biết đến. Tính “bí mật” này có thể được xác định theo các tiêu chí cụ thể như: Bản thân thông tin đó đã mang tính bí mật. Việc xác định thông tin mang tính bí mật có thể dựa vào bản chất của thông tin, có thể xác định theo qui định của pháp luật (thư tín, điện thoại, tình trạng bệnh tật… – những thông tin này đã có văn bản pháp luật của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành xác định rõ đó là bí mật mà không được tiết lộ hoặc xâm phạm). Người nắm giữ thông tin có thể đã áp dụng mọi biện pháp để bảo mật như khoá, cài đặt mã số bảo vệ, hoặc áp dụng mọi biện pháp bảo vệ khác. Giữa “chủ sở hữu thông tin bí mật” với cơ quan, tổ chức, cá nhân khác đã có sự thoả thuận về nghĩa vụ giữ bí mật. Ví dụ: Anh A đến nhờ Văn phòng luật sư X tư vấn pháp luật liên quan đến việc ly hôn của anh . Giữa A và Văn phòng luật sư X có ký hợp đồng dịch vụ trong việc tư vấn, theo hợp đồng này thì Văn phòng có nghĩa vụ “giữ bí mật các thông tin của A khi A cung cấp cho Văn phòng luật sư X”. Tuy nhiên, chúng ta sẽ không coi là “bí mật” nếu những thông tin đó xâm phạm lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người khác (ví dụ: thông tin liên quan đến hành vi phạm tội, chuẩn bị phạm tội). Trong trường hợp này nếu biết mà không báo với cơ quan có thẩm quyền thì sẽ bị coi là bao che cho tội phạm có thể bị đưa ra truy tố tùy mức độ nghiêm trọng của việc đó. Trong trường hợp này việc tiết lộ thông tin sẽ không bị coi là “xâm phạm bí mật đời tư”. Trong luận án tiến sĩ về “quyền bí mật đời tư theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam”, Tiến sĩ Lê Đình Nghị có định nghĩa về khái niệm “bí mật đời tư như sau: “Bí mật đời tư là những thông tin, tư liệu (gọi chung là thông tin) về tinh thần, vật chất, quan hệ xã hội hoặc những thông tin khác liên quan đến cá nhân trong quá khứ cũng như trong hiện tại, được pháp luật bảo vệ và những thông tin đó được bảo mật bằng những biện pháp mà pháp luật thừa nhận”. Như vậy, có thể thấy hiện nay có rất nhiều ý kiến khác nhau về cách định nghĩa khái niệm bí mật đời tư. Theo thẩm phán Tôn Văn Thành (TAND quận 12, TP. Hồ Chí Minh), pháp luật không thể nào liệt kê hết cái nào là bí mật đời tư, cái nào không vì còn quá nhiều chi tiết “được coi” là bí mật đời tư. Còn theo thẩm phán Phạm Công Hùng (TAND Tối cao), “hiện vẫn còn nhiều hành vi vi phạm bí mật đời tư chưa được ghi nhận, trong khi tranh chấp chuyện này diễn ra rất nhiều”. Các luật sư thường dựa vào điểm này để chứng minh cho thân chủ của mình không vi phạm bí mật đời tư của người khác. Thực tế ở nước ta hiện nay cho thấy, số lượng vụ việc xâm phạm bí mật đời tư của cá nhân là không ít, tuy nhiên số vụ được giải quyết lại rất hạn chế. Phần vì ngay trong câu “bí mật đời tư” đã bộc lộ, đã là chuyện “bí mật” thì rất ít người muốn ra Tòa giải quyết vì họ cho rằng như thế chỉ càng làm “to chuyện”, làm cho “bí mật” của họ lan rộng hơn, phần vì có rất nhiều thứ được họ coi là bí mật của mình nhưng lại không thấy luật quy định. Từ những quan điểm hiện nay về khái niệm bí mật đời tư thì bản thân em cũng xin đưa ra quan điểm của mình như sau: “bí mật đời tư là những thông tin cá nhân của một người ở quá khứ và hiện tại mà không phải là hành vi trái pháp luật, chưa được công bố công khai lần nào mà bản thân người đó muốn lãng quên, không muốn người khác nhắc đến và một khi bị người khác xâm phạm sẽ gây ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường của họ, ảnh hưởng đến danh dự nhân phẩm của người đó,…”. II. Một số ví dụ thực tế về vấn đề bảo vệ quyền bí mật đời tư. 1. Vụ thứ nhất: việc xâm phạm bí mật đời tư của cá nhân. Tóm tắt vụ việc như sau: chị Lan và chị Hoa là nhân viên văn phòng của công ty TNHH Bảo Lâm có trụ sở tại B3, Tiên Thắng, Tiên Lãng – Hải Phòng. Ngày 29 – 6 – 2006, chị Hoa cùng người yêu đến cơ sở tư nhân huyện để giải quyết hậu quả không mong muốn (phá thai). Cùng ngày thì chị Lan cũng đến khám bệnh và bắt gặp chị Hoa ở đó. Do hiếu kì, chị Lan đã hỏi và tìm hiểu thông qua nhân viên của cơ sở y tế này và được biết chị Hoa đến đây để phá thai. Do mâu thuẫn trong công việc, khi về công ty chị Hoa đã lan truyền việc chị Hoa cùng người yêu ở cơ sở y tế tư nhân để phá thai, thông tin nhanh chóng lan truyền khắp công ty, cùng với đó là những thái độ của mọi người về việc đó với chị Hoa. Sau khi vụ việc xảy ra, nhiều lần chị Hoa đã yêu cầu gặp riêng chị Lan và có yêu cầu chị Lan công khai xin lỗi mình, trước khi chị đổi ý kiện chị Lan ra tòa. Nhưng chị Lan không có ý kiến gì. Dưới những lời bàn tán của đồng nghiệp và sự xấu hổ, quá uất ức chị Hoa làm đơn kiện chị Lan và cơ sở y tế tư nhân huyện vào giữa tháng 7 năm 2006 với nội dung đơn kiện như sau: chị Hoa cho rằng việc lan truyền thông tin chị đi phá thai của chị Lan và cơ sở y tế tư nhân huyện là xâm phạm bí mật đời tư của chị, không những thế chị Lan còn công khai thông tin với mục đích bôi nhọ danh dự nhân phẩm của chị. Từ đó chị đưa ra yêu cầu trong nội dung đơn khởi kiện: yêu cầu cơ sở y tế tư nhân huyện bồi thường chị 2 triệu VNĐ, và yêu cầu chị Lan bồi thường cho mình 3 triệu VNĐ tiền bồi thường về tinh thần và phải công khai xin lỗi mình đồng thời cam kết từ nay chấm dứt những hành vi đó với mình. Phản đối lại yêu cầu mà phía nguyên đơn đưa ra cơ sở y tế tư nhân huyện cho rằng họ không có trách nhiệm trong việc này bởi khi đến cơ sở để phá thai thì chị Hoa không yêu cầu họ phải giữ bí mật, đây không phải hành vi cố ý xâm phạm và lan truyền tin tức. Hơn nữa cơ sở y tế này cho rằng đây không phải hành vi xúc phạm nhân phẩm của chị Hoa vì đây là sự thật hiển nhiên và không thể coi việc này là bí mật đời tư gì cả. Chị Lan cũng cho rằng đây là sự thật hiển nhiên, hành vi của mình là đúng không có gì đơm đặt cả. Chị Lan còn cho rằng bí mật đời tư phải là những gì được quy định cụ thể như thư tín, điện tín, điệ
Luận văn liên quan