Đề tài Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế

Theo quy định tại khoản 3 điều 5 Luật bình đẳng giới : " Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó". Cụ thể hoá quy định này, tại khoản 3 điều 5 Luật bình đẳng giới quy định bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế là việc:" Nam, nữ bình đẳng trong việc thành lập doanh nghiệp, tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý doanh nghiệp, bình đẳng trong việc tiếp cận thông tin, nguồn vốn, thị trường và nguồn lao động". Như vậy, luật đã quy định khá rõ định nghĩa bình đẳng giới nói chung và bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế nói riêng. Đây là thành công bước đầu cho việc thống nhất nhận thức về bình đẳng giới, tăng cường hiệu quả cho công tác thực hiện bình đẳng giới. Nhưng để thực hiện bình đẳng giới trong thực tế và đạt được bình đẳng giới thực chất thì phải có các biện pháp khả thi và đồng bộ. Vấn đề này đã được nhà nước dự liệu và cụ thể hoá thành các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới trong đó quan trọng nhất là các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới - nhóm biện pháp bảo đảm bình đẳng giới mang tính khẩn cấp. Theo khoản 6 điều 5 Luật bình đẳng giới: " Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới là biện pháp nhằm bảo đảm bình đẳng giới thực chất, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành trong trường hợp có sự chênh lệch lớn giữa nam và nữ về vị trí, vai trò, điều kiện, cơ hội phát huy năng lực và thụ hưởng thành quả của sự phát triển mà việc áp dụng các quy định như nhau giữa nam và nữ không làm giảm được sự chênh lệch này. Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới được thực hiện trong một thời gian nhất định và chấm dứt khi mục đích bình đẳng giới đã đạt được". Những biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới thường được thể hiện thông qua các quy phạm ưu tiên. Sở dĩ pháp luật quy định những biện pháp này là do mỗi giới có những đặc điểm khác nhau về giới tính và vai trò xã hội nên phải có sự ưu tiên để mỗi giới tiếp cận, kiểm soát các nguồn lực. Nhưng cũng không thể duy trì sự ưu tiên này mãi được vì nó sẽ lại tạo ra khoảng cách giới. Chính vì thế những biện pháp này sẽ chấm dứt ngay khi mục đích bình đẳng giới đạt được, nó chỉ mang tính tạm thời. Những biện pháp này phải được bảo đảm thực hiện bằng quyền lực nhà nước để trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình phụ nữ và nam giới được nhìn nhận và đánh giá như nhau. Các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình rất đa dạng, chính vì thế các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong mỗi lĩnh vực cũng rất khác nhau. Theo đó, những biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế được quy định trong khoản 2 điều 12 Luật bình đẳng giới bao gồm: "a) Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ được ưu đãi về thuế và tài chính theo quy định của pháp luật. b) Lao động nữ khu vực nông thôn được hỗ trợ tín dụng, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư theo quy định của pháp luật." Những quy định cụ thể về việc ưu đãi thuế, tài chính và chính sách khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư đã được cụ thể hoá trong các văn bản luật có liên quan trong từng ngành luật khác nhau như Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, pháp luật liên quan đến chính sách xã hội.

doc11 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3053 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NỘI DUNG 1. Một số vấn đề lý luận về biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế. Theo quy định tại khoản 3 điều 5 Luật bình đẳng giới : " Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó". Cụ thể hoá quy định này, tại khoản 3 điều 5 Luật bình đẳng giới quy định bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế là việc:" Nam, nữ bình đẳng trong việc thành lập doanh nghiệp, tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý doanh nghiệp, bình đẳng trong việc tiếp cận thông tin, nguồn vốn, thị trường và nguồn lao động". Như vậy, luật đã quy định khá rõ định nghĩa bình đẳng giới nói chung và bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế nói riêng. Đây là thành công bước đầu cho việc thống nhất nhận thức về bình đẳng giới, tăng cường hiệu quả cho công tác thực hiện bình đẳng giới. Nhưng để thực hiện bình đẳng giới trong thực tế và đạt được bình đẳng giới thực chất thì phải có các biện pháp khả thi và đồng bộ. Vấn đề này đã được nhà nước dự liệu và cụ thể hoá thành các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới trong đó quan trọng nhất là các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới - nhóm biện pháp bảo đảm bình đẳng giới mang tính khẩn cấp. Theo khoản 6 điều 5 Luật bình đẳng giới: " Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới là biện pháp nhằm bảo đảm bình đẳng giới thực chất, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành trong trường hợp có sự chênh lệch lớn giữa nam và nữ về vị trí, vai trò, điều kiện, cơ hội phát huy năng lực và thụ hưởng thành quả của sự phát triển mà việc áp dụng các quy định như nhau giữa nam và nữ không làm giảm được sự chênh lệch này. Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới được thực hiện trong một thời gian nhất định và chấm dứt khi mục đích bình đẳng giới đã đạt được". Những biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới thường được thể hiện thông qua các quy phạm ưu tiên. Sở dĩ pháp luật quy định những biện pháp này là do mỗi giới có những đặc điểm khác nhau về giới tính và vai trò xã hội nên phải có sự ưu tiên để mỗi giới tiếp cận, kiểm soát các nguồn lực. Nhưng cũng không thể duy trì sự ưu tiên này mãi được vì nó sẽ lại tạo ra khoảng cách giới. Chính vì thế những biện pháp này sẽ chấm dứt ngay khi mục đích bình đẳng giới đạt được, nó chỉ mang tính tạm thời. Những biện pháp này phải được bảo đảm thực hiện bằng quyền lực nhà nước để trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình phụ nữ và nam giới được nhìn nhận và đánh giá như nhau. Các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình rất đa dạng, chính vì thế các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong mỗi lĩnh vực cũng rất khác nhau. Theo đó, những biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế được quy định trong khoản 2 điều 12 Luật bình đẳng giới bao gồm: "a) Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ được ưu đãi về thuế và tài chính theo quy định của pháp luật. b) Lao động nữ khu vực nông thôn được hỗ trợ tín dụng, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư theo quy định của pháp luật." Những quy định cụ thể về việc ưu đãi thuế, tài chính và chính sách khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư đã được cụ thể hoá trong các văn bản luật có liên quan trong từng ngành luật khác nhau như Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, pháp luật liên quan đến chính sách xã hội... 2. Thực tiễn thi hành biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế. Có thể nói, bình đẳng giới nói chung, bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế nói riêng ở nước ta đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Trong lĩnh vực kinh tế tài chính đã có sự tham gia của cả nam và nữ vào cơ quan quản lý, lãnh đạo, trong hoạt động kinh tế, trong các ngành nghề kinh doanh. Việc làm cho phụ nữ đã được quan tâm và đạt được những kết quả khích lệ. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động nữ trong độ tuổi lao động ở khu vực thành thị giảm xuống còn 5,29%. Việt Nam là một trong những nước dẫn đầu thế giới về tỷ lệ phụ nữ tham gia các hoạt động kinh tế, là quốc gia đạt được sự thay đổi khá lớn về xóa bỏ khoảng cách giới trong 20 năm qua ở khu vực Đông Á. Tuy nhiên với nhiều nguyên nhân khác nhau, bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế vẫn còn những hạn chế: Chênh lệch về tỷ lệ nam nữ  tham gia hoạt động kinh tế, tham gia quản lý, lãnh đạo ở các cấp trong hoạt động kinh tế còn khá cao (phụ nữ chưa bằng 1/3 nam giới). Tỷ lệ nữ là lao động phổ thông và công nhân chưa qua đào tạo cao hơn nam giới 1,5 lần. Lao động nữ có trình độ cao đẳng, đại học trở lên chỉ bằng 42% so với lao động nam giới. Thu nhập bình quân của lao động nữ bằng khoảng 79% so với lao động nam. Công việc gia đình là công việc không được trả công và phần lớn đều do phụ nữ đảm nhận. Sở dĩ có tình trạng này ngoài sự tác động bởi các yếu tố xã hội như định kiến giới, tư tưởng lạc hâu...thì phần lớn là do các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới chưa được tiến hành có hiệu quả. (nguồn: a) Thực tiễn thi hành biện pháp ưu đãi thuế và tài chính cho doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ. Việc đảm bảo bình đẳng giới trong chính sách thuế đã được thể hiện qua những quy định cụ thể như khoản 2 điều 110 Bộ luật lao động 1994 quy định: " Nhà nước có chính sách ưu đãi, xét giảm thuế đối với những doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ." Nghị định 23/CP ngày 18 tháng 4 năm 1996 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động về những quy định riêng đối với lao động nữ cũng có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này tại điều 5, điều 6, điều 7 nghị định như sau: "Điều 5. Doanh nghiệp có đủ một trong hai điều kiện sau đây là doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ: 1/ Doanh nghiệp sử dụng thường xuyên từ 10 đến 100 lao động nữ và có số lao động nữ từ 50% trở lên so với tổng số lao động có mặt thường xuyên của doanh nghiệp. 2/ Doanh nghiệp sử dụng thường xuyên trên 100 lao động nữ và có số lao động nữ từ 30% trở lên so với tổng số lao động có mặt thường xuyên của doanh nghiệp. Điều 6. Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ theo khoản 2, Điều 110 của Bộ Luật lao động được hưởng các chính sách ưu đãi dưới đây: 1- Trường hợp gặp khó khăn đặc biệt, có quyết định của Thủ tướng Chính phủ thì được vay vốn với lãi suất thấp từ quỹ quốc gia về việc làm quy định tại mục d, khoản 2, Điều 6 của Nghị định số 72/CP, ngày 31 tháng 10 năm 1995 của Chính phủ về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số Điều của bộ Luật lao động về việc làm; 2- Trường hợp có khó khăn về tài chính, không tự giải quyết việc điều chuyển lao động nữ đang làm các công việc thuộc danh mục công việc cấm sử dụng lao động nữ sang làm công việc khác thích hợp thì doanh nghiệp được lập dự án xin kinh phí hỗ trợ một lần từ quỹ quốc gia về việc làm theo mục b, khoản 2, Điều 6 của Nghị định số 72/CP, ngày 31 tháng 10 năm 1995 của Chính phủ; 3- Doanh nghiệp được ưu tiên sử dụng, một phần trong tổng số vốn dầu tư hàng năm của doanh nghiệp để chi cho việc cải thiện điều kiện làm việc cho lao động nữ. Điều 7. Việc xét giảm thuế theo khoản 2, Điều 110 của Bộ Luật lao động được quy định như sau: 1- Các doanh nghiệp có đủ điều kiện theo quy định tại Điều 5 của Nghị định này được xét giảm thuế; 2- Được giảm thuế lợi tức; mức giảm không thấp hợp các khoản chi phí thêm do sử dụng nhiều lao động nữ mà doanh nghiệp tính được; 3- Khoản tiền được giảm thuế do doanh nghiệp quản lý và sử dụng để chi thêm cho lao động nữ; 4- Đối với các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ nhưng sản xuất không có lãi thì các khoản chi phí tăng thêm do sử dụng nhiều lao động nữ được coi là một khoản chi hợp lệ." Trong đó các khoản chi phí tăng thêm do việc sử dụng lao động nữ thường được nhắc đến là: + Thời gian nghỉ 60 phút/ ngày trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tính theo số ngày công của những người lao động nữ thuộc diện được nghỉ quy thành tiền. + Khoản trợ giúp thêm cho người lao động nữ có con trong độ tuổi nhà trẻ, mẫu giáo. + Mua trang thiết bị đồ dùng cho nhà trẻ, mẫu giáo do doanh nghiệp tổ chức. + Thời gian 30 phút vệ sinh riêng cho người lao động nữ tính số ngày công của người lao động nữ được nghỉ quy thành tiền. + Giảm một giờ cho lao động nữ có thai đến tháng thứ 07 tính theo số ngày công của những người lao động nữ thuộc diện nghỉ quy thành tiền. + Bồi dưỡng thêm cho lao động nữ sau khi đẻ. + Thuê giáo viên để mở nhà trẻ, mẫu giáo do doanh nghiệp tổ chức. + Trang bị bảo hộ lao động (bổ sung thêm ngoài chế độ) cho phù hợp với người lao động nữ). + Xây dựng nhà tắm, nhà vệ sinh riêng cho người lao động nữ. + Tổ chức khám sức khoẻ cho người lao động nữ (theo định kỳ một năm một lần). + Tổ chức các ngày kỷ niệm của phụ nữ. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp cũng quy định tại khoản 1 điều 15:"1. Doanh nghiệp sản xuất, xây dựng, vận tải sử dụng nhiều lao động nữ được giảm thuế thu nhập doanh nghiệp bằng số chi thêm cho lao động nữ." Mặc dù pháp luật đã quy định khá cụ thể nhưng quá trình thực hiện lại gặp phải rất nhiều khó khăn, hạn chế. Kết quả khảo sát ở 34 doanh nghiệp trong 10 tỉnh, thành phố ở 3 miền Bắc – Trung – Nam của Ban nữ công – Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam (LĐLĐVN) vừa qua cho thấy: 62,3% lao động nữ trả lời là không được nghỉ thời gian vệ sinh kinh nguyệt 30 phút, 27% trả lời không được nghỉ 60 phút /ngày để cho con bú trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi, mặc dù những chế độ này đã được quy định rõ trong Bộ luật Lao động. Điều này cho thấy chính sách lao động nữ chưa được thực hiện một cách nghiêm túc tại các đơn vị sử dụng lao động. Theo Ban nữ công – Tổng LĐLĐVN, chính sách về lao động nữ được quy định khá đầy đủ trong Bộ luật Lao động và Luật Bảo hiểm. Thế nhưng, khi cơ quan này tiến hành khảo sát trong các doanh nghiệp có đông lao động nữ cho thấy một thực trạng báo động: số lao động nữ được hưởng chế độ nghỉ ngơi dưỡng sức rất ít; một số chế độ thai sản như nghỉ 60 phút cho con bú, 30 phút vệ sinh kinh nguyệt vi phạm nghiêm trọng rất khó thực hiện trên thực tế. Ngoài ra, hiện nay phần lớn các cơ sở sử dụng lao động nữ khoán lương theo sản phẩm nên việc lao động nữ nghỉ việc cho con bú đều không được thể hiện trong tiền lương. Mặc dù theo pháp luật đáng lẽ ra lao động nữ phải được hưởng. Đề cập về chính sách đối với lao động nữ, ông Trần Hữu Trọng – Phó trưởng phòng lao động, Vụ Lao động – Tiền lương, Bộ LĐTB &XH cho biết, theo ý kiến của các Sở LĐTB &XH, các doanh nghiệp sử dụng lao động nữ và lao động nữ chiếm đa số thì việc nghỉ 30 phút trong thời gian kinh nguyệt sẽ làm ảnh hưởng lớn tới dây chuyền sản xuất kinh doanh của mình. Giám đốc một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh điện tử cho rằng, quy định trong thời gian lao động nữ có kinh được nghỉ 30 phút /ngày là không khả thi. Bởi vì, ở nhiều doanh nghiệp hoạt động theo dây chuyền sản xuất, nếu một vị trí nghỉ thì cả dây chuyền sẽ phải dừng lại. Như vậy, sản xuất sẽ đình trệ và doanh nghiệp sẽ bị thiệt hại về kinh tế. “Luật nên quy định rõ số ngày phải thực hiện việc nghỉ trên của lao động nữ”, ông giám đốc doanh nghiệp nói trên kiến nghị. Đồng với quan điểm trên, bà Vi Thị Hồng – Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam nêu ý kiến: khoản 3 Điều 115 Bộ luật Lao động: “Người lao động nữ trong thời gian bị hành kinh được nghỉ mỗi ngày 30 phút; trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi, được nghỉ mỗi ngày 60 phút trong thời gian làm việc, mà vẫn hưởng đủ lương”. Thế nhưng luật lại không quy định cụ thể là lao động nữ được nghỉ vào lúc nào? Do đó gây khó khăn cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp sử dụng chủ yếu lao động nữ. Nếu một ca mà có hơn chục lao động nghỉ một lúc thì sẽ giải quyết thế nào? Nói về việc sử dụng lao động nữ, giám đốc một công ty may mặc phàn nàn: “Nghị định 23 của Chính phủ cho phép các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ được hưởng chính sách ưu đãi trong việc vay vốn với lãi suất thấp từ Quỹ Quốc gia về việc làm, hỗ trợ kinh phí từ Quỹ này, được ưu tiên sử dụng vốn đầu tư hàng năm để cải thiện điều kiện làm việc, được giảm thuế. Thế nhưng, những chính sách ưu tiên này rất khó được thực hiện bởi như: các công ty may mặc, chế biến hải sản… có nhiều lao động nữ, vào lúc cao điểm có hàng chục lao động nữ nghỉ sinh con, doanh nghiệp cần lao động thay thế nhưng không thể ngày một ngày hai tìm được ngay lao động thay thế. Nói chung, số tiền ưu tiên này không đủ để doanh nghiệp chi tiêu vào các khoản chế độ cho lao động nữ”. Phải chăng đây là nguyên nhân dẫn đến tình trạng có rất ít doanh nghiệp làm các thủ tục xin đăng ký là doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ và tiến hành các thủ tục xin miễn giảm thuế? Theo ông Trần Hữu Trọng, doanh nghiệp được giảm thuế lợi tức, mức giảm không thấp hơn các khoản chi phí thêm do sử dụng nhiều lao động nữ…Khoản tiền giảm này do doanh nghiệp quản lý và sử dụng để chi thêm cho lao động nữ. Quy định này không mang tính bắt buộc nên không khuyến khích doanh nghiệp chi phí thêm cho lao động nữ. Hơn nữa, để được xét giảm thì các doanh nghiệp phải làm các thủ tục phức tạp. Do vậy, rất ít doanh nghiệp được hưởng xét giảm thuế. Một quan chức Bộ LĐTB &XH cho biết, nhiều Sở LĐTB &XH đều đề cập đến những bất hợp lý của hầu như tất cả các quy định của luật pháp: từ chế độ ưu tiên tuyển dụng, bố trí, sử dụng lao động nữ đến chế độ nghỉ thai sản, nghỉ trong thời gian kinh nguyệt, hỗ trợ nhà trẻ mẫu giáo, các chính sách riêng cho lao động nữ, đến việc hướng dẫn thi hành các chính sách khuyến khích sử dụng nhiều lao động nữ…Chính vì vậy, cần phải rà soát và đánh giá chính sách cho phù hợp với thực tiễn. Như vậy, thực tiễn thực hiện biện pháp thúc đẩy ưu đãi thuế và tài chính cho doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ cho thấy việc quy định của pháp luật với việc thực hiện những quy định đó trong thực tế là khác xa nhau. Biện pháp thúc đẩy được luật hoá, tưởng chừng như sẽ tạo điều kiện cho lao động nữ khắc phục được những hạn chế về đặc điểm giới tính để hoàn thành tốt hơn công việc của mình nâng cao vai trò, vị thế xã hội; giúp các doanh nghiệp sử dụng lao động nữ bù đắp chi phí để có trách nhiệm hơn trong công tác đảm bảo quyền lợi cho lao động nữ...thì thực tế lại trở thành trở ngại lớn mà doanh nghiệp cũng như người lao động phải tự khắc phục trong khi chờ những chính sách của các cơ quan nhà nước. b) Thực tiễn thi hành biện pháp hỗ trợ tín dụng, khuyến nông, khuyến lâm cho phụ nữ nông thôn. Xuất phát từ chính sách ưu tiên đối với phụ nữ ở nông thôn, những nơi có điều kiện kinh tế khó khăn, khó có điều kiện tiếp cận các nguồn lực kinh tế, Nhà nước đã đề ra những chính sách ưu đãi cho vay tín dụng với lãi suất thấp, hỗ trợ các khoản khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư cho chị em. Hiện nay, hoạt động này đang thu được nhiều kết quả khả quan mang lại sự chuyển biến tích cực trong đời sống của nhiều chị em phụ nữ ở nông thôn và đặc biệt là vùng sâu, vùng xa nơi có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Nhưng bên cạnh đó kết quả của công tác này cũng để lại cho các nhà hoạch định chính sách rất nhiều băn khoăn về hiệu quả thực tế của nó. Thời gian qua theo báo cáo của Ngân hàng nhà nước Việt Nam, cùng với việc tăng cường đầu tư tín dụng cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, cơ hội và mức độ tiếp cận tín dụng ngân hàng của phụ nữ nông thôn cũng được tăng lên đáng kể, góp phần tích cực vào công cuộc xóa đói giảm nghèo và phát triển nông nghiệp, nông thôn. Tính đến 30/6/2010, dư nợ cho vay hộ gia đình và cá nhân ở nông thôn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ước đạt khoảng 200.000 tỷ đồng, tăng khoảng 16.528 tỷ đồng so với thời điểm 31/12/2009. Dư nợ cho vay hộ nghèo tại Ngân hàng chính sách xã hội đến 30/6/2010 đã đạt 33.568 tỷ đồng, tăng 1.166 tỷ đồng so với thời điểm 31/12/2009. Bên cạnh đó, thông qua việc ký nghị quyết liên tịch với tổ chức Hội phụ nữ, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Ngân hàng CSXH đã thành lập các tổ vay vốn tại địa phương để cung cấp vốn tín dụng cho chị em phụ nữ nông thôn phát triển kinh tế gia đình. Tính đến 30/6/2010, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho vay 255.020 khách hàng  là phụ nữ với tổng dư nợ  3.903, 679 tỷ đồng. Dư nợ cho vay ủy thác qua Hội Liên hiệp phụ nữ của Ngân hàng chính sách xã hội đến 30/6/2010, là 34.355 tỷ đồng (tăng 4.402 tỷ đồng so với 31/12/2009). Tỷ trọng dư nợ ủy thác cho vay qua Hội Liên hiệp phụ nữ trên tổng dư nợ cho vay là 41,22%. Thực tế cho thấy, cơ hội và mức độ tiếp cận tín dụng ngân hàng của phụ nữ nông thôn ngày càng được tăng lên, góp phần xóa đói giảm nghèo và bình đẳng giới ở nông thôn. Bên cạnh đó, việc ủy thác cho vay phụ nữ nông thôn thông qua Hội Liên hiệp phụ nữ cơ sở là một cách làm tốt, góp phần giúp phụ nữ dễ dàng tiếp cận và sử dụng nguồn vốn vay ngân hàng hiệu quả hơn. Tuy nhiên, việc tăng cường đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn thời gian qua cũng có nhiều trở ngại như công tác tuyên truyền về chính sách tín dụng của Chính phủ, các quy định của ngân hàng chính sách xã hội, ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhiều nơi, nhiều lúc còn chưa thực hiện tốt, nhất là ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa; dân trí của khu vực nông thôn còn thấp, sản xuất manh mún, lạc hậu, hiệu quả thấp vì thế gặp khó khăn khi tiếp cận và sử dụng nguồn vốn vay hiệu quả, sản xuất nông nghiệp hiệu quả thấp lại thường xuyên bị ảnh hưởng bởi thiên tai lũ lụt vì vậy chất lượng tín dụng cho vay đối với phụ nữ sản xuất nông nghiệp chưa cao. Bên cạnh đó, do còn tồn tại nhiều tư tưởng lạc hậu, định kiến giới cho rằng người đàn ông là trụ cột trong gia đình, nắm tất cả tài sản có giá trị trong nhà đã ảnh hưởng đến việc tiếp cận nguồn tín dụng ưu đãi của Nhà nước. Chẳng hạn, người vợ muốn vay vốn sản xuất, chăn nuôi thì phải có tài sản thế chấp nhưng tái sản có giá trị nhất của gia đình là quyền sử dụng đất lại đứng tên người chồng. Như vậy, việc chủ động trong việc tiếp cận nguồn tín dụng trong trường hợp này của người phụ nữ là không có. Đây cũng là khó khăn vướng mắc của rất nhiều chị em mà không dễ dàng giải quyết khi dân trí chưa cao, nhận thức về bình đẳng giới trong việc kiểm soát các nguồn lực, quyết định các vấn đề quan trọng...trong gia đình ở nông thôn là rất thấp. Hoạt động khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư cho chị em phụ nữ ở nông thông thời gian qua đã có những hiệu quả đáng kể. Với các lớp học giáo dục, phổ biến kiến thức khoa học, kỹ thuật về nông nghiệp đã giúp đưa tri thức khoa học về với chị em phụ nữ ở nông thôn. Hội phụ nữ kết hợp với phòng dịch vụ khuyến nông địa phương đã xây dựng được những tủ sách khoa học, có hiệu quả cao đối với hoạt động khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư (gọi chung là khuyến nông). Từ những mô hình tổ chức khuyến nông đó mà xuất hiện rất nhiều gương sáng trong việc làm giàu từ nông nghiệp. Chẳng hạn như chị Nông Thị Khoản đồng bào dân tộc Giáy ở xã Chiêng Ken, huyện Văn Bản, tỉnh Lào Cai áp dụng các kiến thức thú y để chống rét cho trâu bò đã bảo vệ được đàn bò 100 con của gia đình và bà con trong bản qua vụ rét. Với kiến thức khoa học về chăn nuôi thu nhập hàng năm từ việc nuôi bò của gia đình chị đạt 80 triệu/năm. Nhờ có khoản thu nhập đó chị đã có điều kiện cho 3 con đi học và giúp chồng an tâm tham gia công tác xã hội {4}. Hay gương sáng về chị Nguyễn Thị Nhi, xã Hải Lệ, Quảng Trị, được sự quan tâm và tạo điều kiện của UBND xã Hải Lệ (Thị xã Quảng Trị) và tư vấn, sự giúp đỡ của Sở NN & PTNT tỉnh, năm 2004, gia đình chị Nguyễn Thị Nhi đã mạnh dạn đầu tư xây dựng trang trại chăn nuôi lợn công nghiệp quy mô 150 con lợn nái nội và 1.000 con lợn thịt hậu bị, hàng năm đưa ra thị trường gần 200 tấn lợn thịt và hơn 700 lợn giống. Tuy nhiên, do tình hình dịch bệnh những năm qua diễn biến phức tạp, giá bán lợn thịt lại không ổn định, không được thị trường ưa chuộng do tỷ lệ nạc thấp. Năm 2010 nhận thấy nhiều người dân và đơn vị trang trại trong tỉnh có nhu cầu chuyển giao con giống lợn ngoại, nhưng trên địa bàn tỉnh chỉ có một vài trại cung cấp với số lượng giống ít ỏi, hơn nữa do tình hình dịch bệnh nên lợn giống nhập từ các tỉnh khác về phải có thời gian nuôi cách ly theo dõi, nên rất khó khăn cho người nuôi. Nắm bắt nhu cầu chị Nhi đã mạnh dạn thanh lý đàn giống cũ, chuyển hướng cho trang trại của mình sang chăn nuôi lợn nái ngoại sinh sản nhằm cung cấp con gi
Luận văn liên quan