Trong thời đại ngày nay, thời đại mà nhân loại đang tiến vào nền văn minh trí tuệ, thời đại bùng nổ thông tin, thời đại tiến bộ và phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ, kiến thức gia tăng về cả số lượng và chất lượng, cả về tốc độ và phạm vi lĩnh vực. Vì vậy, yêu cầu của xã hội đối với con người cũng rất cao. Điều đó đã làm cho mỗi cá nhân gặp nhiều áp lực, là nguyên nhân khiến nhiều người rơi vào trạng thái stress. “Cuộc sống không có stress sẽ chẳng có thách thức gì, chẳng có trở ngại nào phải vượt qua, chẳng có địa hạt mới nào để chiếm lĩnh, chẳng có lý do gì để trau dồi trí tuệ hoặc nâng cao năng lực. Nếu không có stress thì có thể dẫn tới cái chết của con người, nó là chất muối làm cho cuộc đời thêm thi vị.” Nhưng, tress có thể làm phá vỡ sự cân bằng trong cuộc sống, làm nảy sinh nhiều căn bệnh tâm sinh lý nguy hiểm làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của con người.
Trong nhiều năm qua, việc tìm hiểu về stress đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu và cũng đã đạt được nhiều thành tựu cả về mặt lí luận và thực tiễn. Tuy nhiên, nghiên cứu về stress ở học sinh lớp 12 cho đến nay vẫn chưa được chú trọng nhiều. Do áp lực của học tập, của hai kì thi tốt nghiệp THPT và đại học nên nhiều học sinh lớp 12 đang ở trong trạng thái stress ở mức độ khá cao, trạng thái này ảnh hưởng xấu đến kết quả học tập cũng như sức khoẻ của các em.
Việc tìm hiểu biểu hiện stress trong học tập của học sinh lớp 12 nhằm đề xuất các biện pháp giúp học sinh tránh được những ảnh hưởng xấu của stress. Từ đó, giúp các em có trạng thái tâm lý bình thường, ổn định để học tập tốt hơn, thực hiện được ước mơ của mình.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Biểu hiện stress trong học tập của học sinh lớp 12 trường THPT Đông Hà – Quảng Trị”
31 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 15218 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Biểu hiện stress trong học tập của học sinh lớp 12 trường THPT Đông Hà – Quảng Trị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong thời đại ngày nay, thời đại mà nhân loại đang tiến vào nền văn minh trí tuệ, thời đại bùng nổ thông tin, thời đại tiến bộ và phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ, kiến thức gia tăng về cả số lượng và chất lượng, cả về tốc độ và phạm vi lĩnh vực. Vì vậy, yêu cầu của xã hội đối với con người cũng rất cao. Điều đó đã làm cho mỗi cá nhân gặp nhiều áp lực, là nguyên nhân khiến nhiều người rơi vào trạng thái stress. “Cuộc sống không có stress sẽ chẳng có thách thức gì, chẳng có trở ngại nào phải vượt qua, chẳng có địa hạt mới nào để chiếm lĩnh, chẳng có lý do gì để trau dồi trí tuệ hoặc nâng cao năng lực. Nếu không có stress thì có thể dẫn tới cái chết của con người, nó là chất muối làm cho cuộc đời thêm thi vị.” Nhưng, tress có thể làm phá vỡ sự cân bằng trong cuộc sống, làm nảy sinh nhiều căn bệnh tâm sinh lý nguy hiểm làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của con người.
Trong nhiều năm qua, việc tìm hiểu về stress đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu và cũng đã đạt được nhiều thành tựu cả về mặt lí luận và thực tiễn. Tuy nhiên, nghiên cứu về stress ở học sinh lớp 12 cho đến nay vẫn chưa được chú trọng nhiều. Do áp lực của học tập, của hai kì thi tốt nghiệp THPT và đại học nên nhiều học sinh lớp 12 đang ở trong trạng thái stress ở mức độ khá cao, trạng thái này ảnh hưởng xấu đến kết quả học tập cũng như sức khoẻ của các em.
Việc tìm hiểu biểu hiện stress trong học tập của học sinh lớp 12 nhằm đề xuất các biện pháp giúp học sinh tránh được những ảnh hưởng xấu của stress. Từ đó, giúp các em có trạng thái tâm lý bình thường, ổn định để học tập tốt hơn, thực hiện được ước mơ của mình.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Biểu hiện stress trong học tập của học sinh lớp 12 trường THPT Đông Hà – Quảng Trị”
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu biểu hiện stress trong học tập nhằm đề xuất các biện pháp giúp học sinh lớp 12 trường THPT Đông Hà – Quảng Trị giảm bớt sự căng thẳng, lo âu.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác lập cơ sở lí luận của đề tài nghiên cứu
- Khảo sát, đánh giá mức độ và những biểu hiện stress trong học tập của học sinh lớp 12 trường THPT Đông Hà – Quảng Trị
- Đề xuất các biện pháp giúp học sinh giảm bớt sự căng thẳng
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Biểu hiện stress trong học tập của học sinh lớp 12 trường THPT Đông Hà – Quảng Trị
4.2. Khách thể nghiên cứu
Học sinh lớp 12 trường THPT Đông Hà – Quảng Trị
5. Phạm vi nghiên cứu
5.1. Phạm vi nội dung nghiên cứu
Stress là một vấn đề rộng, khi nghiên cứu đề tài này chúng tôi chỉ tập trung vào các nội dung cơ bản sau:
- Khảo sát, đánh giá mức độ, biểu hiện stress trong học tập của học sinh
- Bước đầu tìm hiểu những nguyên nhân cơ bản, trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp làm giảm trạng thái stress trong học tập của học sinh lớp 12 trường THPT Đông Hà – Quảng Trị
5.2. Phạm vi khách thể nghiên cứu
Nghiên cứu trên 92 học sinh hai lớp chọn: 12A1, 12B1 trường THPT Đông Hà - Quảng Trị
6. Giả thuyết khoa học
Do áp lực học tập nên nhiều học sinh lớp 12 trường THPT Đông Hà – Quảng Trị ở trong trạng thái stress. Nếu xác định được các biểu hiện của stress ở các em thì sẽ đề xuất được các biện pháp tác động giúp các em giảm bớt sự căng thẳng, lo âu.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: như phân tích, tổng hợp, khái quát hoá... nhằm xác lập cơ sở lí luận cho đề tài và lựa chọn cho các công cụ nghiên cứu.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1.Phương pháp trắc nghiệm tâm lý: nhằm đo mức độ stress của học sinh
7.2.2.Phương pháp điều tra bằng anket
Nhằm tìm hiểu:
- Biểu hiện stress trong học tập của học sinh
- Nguyên nhân dẫn đến stress
7.2.3. Phương pháp phỏng vấn: nhằm thu thập thêm thông tin và xác minh cụ thể hơn về nguyên nhân và biểu hiện stress trong học tập của học sinh.
7.2.4. Phương pháp quan sát: nhằm thu thập thêm thông tin về sức khoẻ, những biểu hiện stress trong học tập của học sinh
7.2.5. Phương pháp thống kê toán học: xử lí số liệu thu được bằng cách tính %, tính điểm trung bình
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Khái niệm Stress
Stress là một thuật ngữ được dùng đầu tiên trong vật lý học để chỉ một sức nén mà vật liệu phải chịu đựng. Đến thế kỷ thứ 17 Stress từ ý nghĩa sức ép trên vật liệu được chuyển sang dùng cho người với ý nghĩa một sức ép hay một xâm phạm nào đó tác động vào con người gây ra một phản ứng căng thẳng. Hiện nay Stress là một thuật ngữ được dùng rộng rãi. Tuy nhiên nhiều tác giả sử dụng với những sắc thái khác nhau. Theo HanSelye: “Stress là một phản ứng sinh học không đặc hiệu của cơ thể trước những tình huống căng thẳng.” Theo J.Delay: “Stress là một trạng thái căng thẳng cấp diễn của cơ thể buộc phải huy động các khả năng phòng vệ để đối phó với một tình huống đang đe dọa.”
Theo Giáo Sư Tô Như Khuê, một người đã nhiều năm nghiên cứu sự căng thẳng cảm xúc của các chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam trong chiến đấu cho rằng: “Stress tâm lý cũng chính là những phản ứng tâm lý không đặc hiệu xảy ra một cách chung khắp, do các yếu tố có hại về tâm lý xuất hiện trong các tình thế mà con người chủ quan thấy là bất lợi hoặc đe dọa, ở đây vai trò quyết định không chủ yếu do tác nhân kích thích, mà do sự đánh giá chủ quan về tác nhân đó.”
Dưới góc độ Tâm lý học, Lazarus định nghĩa stress như một quá trình tương giao giữa con người và môi trường, trong đó đương sự nhận định sự kiện từ môi trường là có tính chất đe dọa và có hại, và đòi hỏi đương sự phải cố gắng sử dụng các tiềm năng thích ứng của mình (Lazarus, 1966; Lazarus, Folkman, 1984).
Như vậy đúc kết lại ta nên hiểu Stress dùng cho cả 2 nghĩa (sinh lý và tâm lý) bao gồm: tình huống Stress dùng để chỉ tác nhân xâm phạm hay kích thích gây ra Stress (Stressor) và đáp ứng Stress dùng để chỉ trạng thái phản ứng với Stress (Reaction), bao gồm phản ứng sinh lý và tâm lý.
Stress bình thường là một tình huống stress nhẹ, đối tượng chịu đựng được và phản ứng thích nghi tốt. Đối tượng thu xếp được cân bằng mới thoả đáng. Stress trở nên bệnh lý khi tình huống stress xuất hiện bất ngờ và quá mạnh hoặc không mạnh nhưng lặp đi lặp lại nhiều lần vượt quá khả năng chịu đựng của đối tượng gây ra các rối loạn liên quan stress.
1.2. Một số biểu hiện của trạng thái stress
Biểu hiện của trạng thái stress rất đa dạng và phong phú, song về cơ bản người ta chia làm 4 nhóm biểu hiện về mặt cơ thể, về trí tuệ, cảm xúc và hành vi.
1.2.1. Biểu hiện về mặt cơ thể
Khi ở trong trạng thái stress, về mặt cơ thể thường có các biểu hiện như: mệt mỏi, đau đầu, đau lưng đau cơ bắp, chóng mặt, đổ mồ hôi, tức ngực khó thở, tay chân bủn rủn, ăn không ngon, ăn quá nhiều hoặc quá ít, khó ngủ, mất ngủ, tim đập nhanh, thở gấp, bị tiêu chảy hoặc táo bón …
1.2.2. Biểu hiện về mặt trí tuệ
Stress ảnh hưởng khá nghiêm trọng đến mặt trí tuệ của mỗi người, các biểu hiện thường thấy như: mất khả năng tập trung, liên tưởng chậm, phán đoán không chính xác, trí nhớ giảm sút, khả năng nhận định, đánh giá kém…
1.2.3. Biểu hiện về mặt cảm xúc
Trạng thái stress thường biểu hiện rõ ở mặt cảm xúc với các biểu hiện thường gặp như: lo âu, dễ nổi nóng, nổi cáu, hồi hộp, chán nản, sợ hãi, không hài lòng về bản thân (tự đổ lỗi cho bản thân), cảm thấy trống rỗng mất phương hướng, cảm thấy dễ bị tổn thương, căng thẳng…
1.2.4. Biểu hiện về mặt hành vi
Khi bị stress, các biểu hiện về mặt hành vi thường gặp như là: hạn chế tham gia các hoạt động; hay tranh luận quá khích; né tránh học tập; diễn đạt không lưu loát; ngại tiếp xúc; nghịch, trêu bạn; mắt nhìn vô định, ngơ ngác; cãi lại thầy cô; uống rượu bia …
1.3. Các nguyên nhân dẫn đến stress trong học tập ở học sinh lớp 12 trường THPT Đông Hà – Quảng Trị
1.3.1. Học tập
Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, ông Nguyễn Vinh Hiển cho biết, xét toàn bộ chương trình SGK mới thì không nặng nhưng xét về cục bộ còn nặng và chồng chéo. Các trường THPT gặp không ít khó khăn trong quá trình thực hiện. Đại diện Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Nam Định, ông Nguyễn Công Thành đưa ra nhận xét: "Các môn đều tham, nhồi nhét nhiều kiến thức, trong khi đó nội dung có sự trùng lặp ở một số môn như: Công nghệ và Vật lý, An ninh quốc phòng và Lịch sử". Bộ GD&ĐT cũng nhận thấy sự quá tải của chương trình, vì vậy đã tăng thời gian học từ 35 lên 37 tuần. Lượng kiến thức mà học sinh THPT tiếp nhận quá nhiều dẫn đến tình trạng học nhồi nhét, học không hiểu. Bản thân giáo viên đứng lớp giảng dạy cũng gặp không ít khó khăn, lúng túng khi áp dụng Chương trình và SGK mới. Mục tiêu đặt ra là giảm tải chương trình nhưng một số môn còn quá nặng, thời gian để học sinh củng cố kiến thức và luyện tập chưa có. Như vậy, chương trình dạy học và sách giáo khoa nặng là một trong những nguyên nhân làm cho các em bị stress.
Đồng thời, ngoài việc học trên lớp, hầu hết các em đều đi học thêm. Với lịch học dày đặc như vậy các em cũng rất dễ rơi vào trạng thái căng thẳng, stress.
Mặt khác, dạy kỹ năng sống cũng chưa được quan tâm nhiều trong chương trình SGK mới. Trong khi giáo dục kỹ năng sống đối với lứa tuổi học sinh THPT, lứa tuổi đang có chuyển biến trong tâm sinh lý là rất cần thiết. Nó có thể giúp các em ứng phó tích cực với các tình huống dễ gây ra tâm trạng căng thẳng, stress.
1.3.2. Quan hệ xã hội
a. Quan hệ với bạn bè
Học sinh trung học phổ thông là lứa tuổi khá nhạy cảm, nhu cầu giao tiếp ở mức cao, bạn bè đối với các em có vai trò rất quan trọng, là nơi để các em chia sẻ những niềm vui và nối buồn, cùng giúp nhau vươn lên trong cuộc sống. Thế nhưng, trong quan hệ bạn bè, nhiều lúc nảy sinh những mâu thuẫn, những đố kị, ghen tức, xích mích nhau, sự bất đồng quan điểm ý kiến, bị bạn hiểu nhầm, bị bạn tẩy chay... và đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng căng thẳng ở các em.
b. Quan hệ với thầy cô
Thầy cô quá nghiêm khắc, thiên vị hay có những ứng xử thiếu tính sư phạm … với học sinh cũng có thể làm cho các em bị stress.
c. Quan hệ với người thân (Ông bà, bố mẹ, anh chị em …)
Nhiều học sinh lớp 12 mang một nỗi ngán ngẩm lớn khi đối mặt với chương trình học cuối cấp. Không riêng những học sinh “chơi bời” hơi nhiều ở những năm trước, những học sinh khá giỏi cũng không thoát khỏi tâm trạng lo lắng về việc học và thi. Những bậc phụ huynh lại cắt đứt ngay những thú vui thường ngày của con cái như xem TV, internet, thể thao với mục đích duy nhất: tập trung học hành chuẩn bị cho thi cử.
“Cha mẹ muốn gì ở con cái?
- 73,5%: muốn con trở thành trí thức
- 23,7%: muốn con giàu có
- 26,6%: muốn con thành người có chức quyền.
Xấu hổ vì con cái:
- Xấu hổ vì con học hành không bằng con người khác: 78,3%
- Xấu hổ vì mình nghèo hơn người khác: 42,4%”
(Nguồn: Điều tra xã hội học năm 2003)
Phải vào được ĐH là mục tiêu mà tất cả các gia đình Việt Nam hướng đến, dần dà hình thành tâm lý: ai vào được ĐH là người chiến thắng, còn lại là những kẻ thất bại khiến bố mẹ càng kỳ vọng và gây sức ép cho con cái. Nhiều học sinh lớp 12 mang một nỗi ngán ngẩm lớn khi đối mặt với chương trình học cuối cấp. Không riêng những học sinh “chơi bời” hơi nhiều ở những năm trước, những học sinh khá giỏi cũng không thoát khỏi tâm trạng lo lắng về việc học và thi. Những bậc phụ huynh lại cắt đứt ngay những thú vui thường ngày của con cái như xem TV, internet, thể thao với mục đích duy nhất: tập trung học hành chuẩn bị cho thi cử…
Ngoài ra, những bất đồng, xung đột khác với ông bà, cha mẹ, anh chị em … cũng là một trong những nguyên nhân gây ra stress cho các em.
Từ bản thân
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến stress, các nhà khoa học cho rằng stress có tính chất tích tụ, diễn tiến trong thời gian dài.
Nguyên nhân sinh ra stress có thể xuất phát từ môi trường bên ngoài, cũng có thể xuất phát từ chính bên trong con người. Nhìn chung nguyên nhân xuất phát từ chính bản thân mỗi người là nguyên nhân quan trọng và có ảnh hưởng lớn đến mức độ stress. Cùng một sự kiện tác động đến những con người khác nhau có thể gây ra mức độ stress khác nhau. Sự khác biệt đó xuất hiện chính là do ở mỗi người khác nhau quá trình nhận thức diễn ra không như nhau. Stress liên quan đến việc nhận định của cá nhân về một sự kiện là có tính đe dọa, có hại hoặc thách thức
Trong học tập, có nhiều học sinh THPT đặt ra những yêu cầu quá cao so với năng lực hiện có. Khi những yêu cầu, mục tiêu đó không đạt được, như khi bị điểm thấp các em dễ rơi vào cảm giác tự ti, mặc cảm, chán nản, thất vọng về bản thân. Các em thường tự trách móc dày vò bản thân, tâm trạng luôn bực bội, có nhiều em còn nghĩ đến cái chết. Các em học sinh lớp 12 sắp phải đối diện với hai kì thi cực kì quan trọng đó là tốt nghiệp và đại học. Phần lớn các em đã có định hướng về việc thi trường vào trường nào. Tuy nhiên, không phải em nào cũng có sự lựa chọn đúng đắn. Có những em chọn trường quá cao so với năng lực học tập của mình. Điều này làm cho các em học sinh lớp 12 dễ bị stress.
1.3.4. Một số nguyên nhân khác
Ngoài những nguyên nhân trên thì vấn đề về sức khoẻ, bệnh tật, hoàn cảnh gia đình, các mối quan hệ xã hội khác, tình yêu học trò,... cũng có thể là những nguyên nhân gây ra những căng thẳng mệt mỏi ở sinh viên.
1.4. Ảnh hưởng của stress đến học tập và đời sống của học sinh THPT
Theo Hans Selye, “Stress không phải lúc nào cũng là kết quả của sự tổn thương, ngược lại có hai loại stress khác nhau, đối lập nhau. Stress bình thường khỏe mạnh hay stress tích cực là Eustress, stress độc hại hay stress tiêu cực là Distress.”
Ảnh hưởng tích cực là stress tạo sức đề kháng cho cơ thể, tăng khả năng thích nghi với môi trường xung quanh về mặt sinh lí. Và về mặt tâm lí stress làm cho nhân cách ngày càng hoàn thiện. Stress tích cực làm cho học sinh tích cực, chủ động chiếm lĩnh các tri thức. Eutress còn kích thích sự tìm tòi khám phá, trải nghiệm qua rất nhiều hình thức học tập. Ngoài các giờ học trên lớp học sinh còn xuất hiện rất nhiều trên các hình thức học tập khác như: tự học, thảo luận nhóm, học trực tuyến…. Có thể nói trong xã hội hôm nay thì con người không thể thiếu stress. Nếu thiếu stress con người khó tồn tại và phát triển và có thể sẽ đi đến diệt vong.
Mặt khác, hiện nay, học sinh THPT học tập không chỉ học những gì giáo viên truyền thụ trên lớp, mà còn phải tự nghiên cứu sâu bằng các sách tham khảo, nâng cao. Có như vậy mới có khả năng thi đậu vào trường Đại học. Càng đi sâu thì thời gian đòi hỏi càng nhiều, phải tập trung cao độ để chiếm lĩnh. Trong quá trình học tập cũng như sau quá trình học tập, học sinh sẽ dễ bị căng thẳng, mệt mỏi và hậu quả của nó có thể tác động tiêu cực đến học tập cũng như đời sống của các em.
Ảnh hưởng tiêu cực của trạng thái stress là gây ra các rối nhiễu tâm lý, các rối loạn sinh học và các lệch lạc ứng xử. Cụ thể, các rối nhiễu tâm lý như: lo lắng, sợ hãi, lú lẫn và dễ phát cáu, giảm hiệu quả trong giao tiếp, co mình lại và trầm nhược, cảm giác bị xa lánh và ghét bỏ, buồn chán và không toại nguyện trong học tập, mệt mỏi tinh thần và trí lực giảm sút, mất khả năng tập trung, mất tính sáng tạo... Các rối loạn sinh học như: sự mệt mỏi về thể xác, các chức năng; nhức đầu, rối loạn giấc ngủ, tăng nhịp tim và huyết áp, các chứng bệnh ngoài da… Và các triệu chứng ứng xử: sự chần chừ và né tránh học tập, thành tích học tập giảm, các quan hệ với bạn bè xấu đi
1.5. Đặc điểm tâm lý của học sinh THPT
Nhận thức cảm tính của HS THPT có những nét mới về chất. Cảm giác, tri giác đạt tới mức độ tinh, nhạy cảm của người lớn. Tính có ý thức, có mục đích của cảm giác, tri giác biểu hiện rõ rệt trong quá trình học tập cũng như trong mọi hoạt động khác của HS THPT.
Cấu trúc hoạt động trí tuệ của HS THPT phức tạp và có tính phân hóa rõ rệt so với lứa tuổi nhỏ. Các em có khả năng suy nghĩ độc lập và bước đầu hình thành khả năng tự học. Do sự phát triển về thể lực và trí tuệ cũng như tính xã hội hóa ngày càng cao, nhân cách của HS THPT có những nét phát triển mới, khác về chất so với trước.
Khả năng đánh giá của trẻ tuổi thanh niên sâu sắc và tốt hơn thiếu niên, tuy chưa thật sự ổn định. Trẻ thường ngầm so sánh mình với những người xung quanh, đối chiếu ý kiến của mình với ý kiến người lớn. Nhưng do còn nhiều hạn chế về kinh nghiệm sống, nên việc tự đánh giá gặp không ít khó khăn và đôi khi gây ra ngộ nhận.
Đời sống cảm xúc, tình cảm của HS đầu tuổi thanh niên rất phong phú, đa dạng. Tình bạn thường được các em lý tưởng hóa.
Một loại tình cảm đặc trưng của lứa tuổi này là tình yêu nam nữ. Đó là một trạng thái mới mẻ nhưng rất tự nhiên trong đời sống tình cảm của lứa tuổi đầu thanh niên, nó thường trong sáng, hồn nhiên, mãnh liệt và giàu cảm xúc. Tuy nhiên, do chưa thật sự bước vào đời, chưa có đầy đủ các cơ sở để xây dựng tình yêu một cách đúng đắn nên tình yêu ở lứa tuổi này thường bồng bột, thiếu suy nghĩ chín chắn, vì thế dễ đi đến tan vỡ, gây nên những tổn thương tình cảm, ảnh hưởng xấu đến học tập và rèn luyện các em.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ BIỂU HIỆN STRESS TRONG HỌC TẬP CỦA HỌC SINH LỚP 12 TRƯỜNG THPT ĐÔNG HÀ
2.1. Khái quát về địa bàn và khách thể nghiên cứu
Qua quá trình xây dựng và trưởng thành, trường THPT Đông Hà đã gặt hái được nhiều thành tích to lớn về các mặt. Từ lúc mới thành lập trường chỉ có 275 học sinh, đến nay qui mô số lượng tăng lên trên 1900 học sinh, với 40 lớp. Tỉ lệ tốt nghiệp hằng năm đều đạt từ 95 - 99,5%; tỉ lệ thi đỗ vào các trường Đại học, Cao đẳng đều đạt từ 30 - 45%, trong những năm gần đây tỉ lệ đạt trên 50 - 60%; có 26 học sinh đạt giải trong các kì thi học sinh giỏi quốc gia.
Khối 12 có tổng số là 634 học sinh, trong đó có 305 nam và 329 nữ đến từ các địa phương khác nhau trong tỉnh. Tuy nhiên đề tài chỉ giới hạn trong 92 học sinh, thuộc 2 lớp chọn: 12A1, 12B1.
2.2. Thực trạng về biểu hiện stress trong học tập của học sinh lớp 12 trường THPT Đông Hà – Quảng Trị
Khách thể nghiên cứu phần thực trạng là 92 học sinh lớp 12 trường THPT Đông Hà – Quảng Trị, trong đó có 45 nữ, 47 nam.
2.2.1. Mức độ stress của học sinh lớp 12 trường THPT Đông Hà – Quảng Trị
Chúng tôi sử dụng thang đo tự đánh giá về stress của Cohen. Thang đo này gồm 10 câu, nhằm đo lường mức độ căng thẳng mà chủ thể nhận thấy cuộc sống của họ trong 1 tháng qua là không thể dự đoán trước, không kiểm soát được và quá tải, mỗi nhận định như vậy có 5 mức lựa chọn: không bao giờ; gần như không bao giờ; đôi lúc; thường xuyên; rất thường xuyên. Các chỉ số định tính này được chuyển sang định lượng từ 0 – 4 cho các câu 1, 2, 3, 6, 9, 10; riêng các câu 4,5,7,8 thì tính điểm ngược lại từ 4 – 0, nghĩa là 4 điểm = không bao giờ; 3 điểm = gần như không bao giờ… Điểm số được tính từ 0 đến 40, điểm càng cao cho thấy mức độ stress càng nặng. Dưới 24 điểm: stress cấp tính, có thể kiểm soát được; từ 24 – 30 điểm: bắt đầu quá tải vì stress, không đủ năng lực kiểm soát các trở ngại gặp phải, cần được hỗ trợ để vượt qua; trên 30 điểm: bị stress nặng, cần được khám và điều trị.
Trong phạm vi đề tài chúng tôi nghiên cứu: tìm hiểu mức độ stress của sinh viên nhìn từ góc độ tổng quát, góc độ giới tính, tìm hiểu những biểu hiện của nó và nguyên nhân chủ yếu gây ra stress trong học tập của sinh viên.
2.2.1.1. Mức độ stress của học sinh lớp 12 trường THPT Đông Hà – Quảng Trị nhìn từ góc độ tổng quát
Mức độ stress của học sinh lớp 12 trường THPT Đông Hà – Quảng Trị nhìn từ góc độ tổng quát được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 2.1: Mức độ stress của học sinh lớp 12 trường THPT Đông Hà – Quảng Trị nhìn từ góc độ tổng quát
Điểm stress
Số lượng
Tỉ lệ %
Dưới 24 điểm
64
69.6%
Từ 24 - 30 điểm
28
30.4%
Trên 30 điểm
0
0%
Qua bảng 2.1 chúng ta thấy đa phần học sinh dưới 24 điểm, chiếm 69.6%. Như vậy, phần lớn học sinh chỉ ở trong trạng thái stress cấp tính, có thể kiểm soát được. Tuy nhiên, vẫn có đến 30.4% học sinh ở mức từ 24 – 30 điểm, tức là ở mức độ bắt đầu quá tải vì stress, không đủ năng lực kiểm soát các trở ngại gặp phải, cần được hỗ trợ để vượt qua. Điều đáng mừng là không có em nào trên 30 điểm, tức không có em nào bị stress nặng, cần được khám và điều trị.
Thời điểm chúng tôi tiến hành điều tra là sau kì nghỉ tết nguyên đán, các em đã có một khoảng thời gian nghĩ ng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bi7875u hi7879n stress c7911a h7885c sinh l7899p 12.doc
- Phi7871u 273i7873u tra.doc