Trong thế giới tự nhiên, có những vật luôn tiềm ẩn trong nó khả năng gây thiệt hại cho thế giới vật chất xung quanh mà bản thân con người rất khó kiểm soát. Tự bản than nguồn nguy hiểm cao độ luôn tạo ra mối quan hệ nguy hiểm cho những người xung quanh, mặc dù chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ đã áp dụng các biện pháp phòng ngừa nhưng không thể kiểm soát được một cách tuyệt đối khả năng gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ. Như vậy, ta hiểu gì về nguồn nguy hiểm cao độ? Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi nguồn nguy hiểm cao độ gây ra? Luật pháp đã có những quy định như thế nào về vấn đề này và thực tiễn cuộc sống nói lên điều gì? Đó chính là những vấn đề chính mà trong bài làm này nói lên.
21 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2236 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra - Một số vấn đề lí luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI TẬP HỌC KÌ
MÔN: LUẬT DÂN SỰ
HỌ VÀ TÊN: NGUYỄN THỊ NHUNG
LỚP: N0
MSSV: 340231
ĐỀ BÀI: Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra - Một số vấn đề lí luận và thực tiễn
A. LỜI MỞ ĐẦU:
Trong thế giới tự nhiên, có những vật luôn tiềm ẩn trong nó khả năng gây thiệt hại cho thế giới vật chất xung quanh mà bản thân con người rất khó kiểm soát. Tự bản than nguồn nguy hiểm cao độ luôn tạo ra mối quan hệ nguy hiểm cho những người xung quanh, mặc dù chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ đã áp dụng các biện pháp phòng ngừa nhưng không thể kiểm soát được một cách tuyệt đối khả năng gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ. Như vậy, ta hiểu gì về nguồn nguy hiểm cao độ? Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi nguồn nguy hiểm cao độ gây ra? Luật pháp đã có những quy định như thế nào về vấn đề này và thực tiễn cuộc sống nói lên điều gì? Đó chính là những vấn đề chính mà trong bài làm này nói lên.
B. NỘI DUNG CHÍNH
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Do việc bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chính là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Cho nên, sau đây em xin đưa ra một số vấn đề về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra để nhằm làm rõ hơn vấn đề cần giải quyết
1. Khái niệm
- Về khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ, Điều 623 BLDS quy định: “ Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.”
- Về khái niệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng: Là một loại quan hệ dân sự trong đó người xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhan phẩm, uy tín, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của người khác mà gây ra thiệt hại phải bồi thường những thiệt hại do mình gây ra.
2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là những yếu tố, những cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường, người phải bồi thường, người được bồi thường và mức độ bồi thường. Các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải được xem xét trong mối quan hệ biện chứng, thống nhất và đầy đủ. BLDS không quy định cụ thể các điều kiện làm phát sinh trách nhiệm. Xuất phát từ những quy định, những nguyên tắc của pháp luật nói chung và của luật dân sự nói riêng trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có bốn điều kiện được quy định tại Nghị Quyết số 03/2006/HĐTP -TANDTC ngày 08/7/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS về bồi thường thiệt hại.
a. Có thiệt hại xảy ra
- Thiệt hại về tài sản, biểu hiện cụ thể là mất tầi sản, giảm sút tài sản, những chi phí để ngăn chặn, hạn chế, sửa chữa thay thế, những lợi ích gắn liền với sử dụng, khai thác công dụng của tài sản. Đây là những thiệt hại về vật chất của người bị thiệt hại
- Thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ làm phát sinh thiệt hại về vật chất bao gồm phí cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc, phục hồi chức năng bị mất, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ.
- Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại gồm chi phí hợp lí để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại.
- Tổn thất về tinh thần: Với mục đích an ủi, động viên đối với người bị thiệt hại về tinh thần, cũng như một biện pháp giáo dục nhằm ngăn chặn người có hành vi trái pháp luật, BLDS quy định người xâm hại phải: “ bồi thường một khoản thiệt hại khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại, người thân thích gần gũi của người đó phải gánh chịu”
b.Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật
Quyền được bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản là một quyền tuyệt đối của mọi công dân, tổ chức. Mọi người đều phải tôn trọng quyền đó của chủ thể khác, không được thực hiện bất cứ hành vi nào “xâm phạm đến các quyền tuyệt đối đó”. Việc xâm phạm mà gây thiệt hại có thể là hành vi vi phạm pháp luật hình sự, hành chính, dân sự, kể cả những hành vi vi phạm đường lối, chính sách của Đảng, nhà nước, vi phạm các quy tắc sinh hoạt trong từng cộng đồng dân cư…
Hành vi gây thiệt hại thông thường thể hiện dưới dạng hành động. Chủ thể đã thực hiện hành vi mà đáng ra không được thực hiện những hành vi đó
c. Có lỗi của người gây ra thiệt hại
Người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm dân sự khi họ có lỗi. Xét về hình thức, lỗi là thái độ tâm lí của người có hành vi gây ra thiệt hại, lỗi được thể hiện dưới dạng cố ý hay vô ý. Con người phải chịu trách nhiệm khi họ có lỗi, có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Bởi vậy, những người không có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình được coi là không có lỗi trong việc thực hiện các hành vi đó
d. Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật
Thiệt hại xảy ra là kết quả của hành vi trái pháp luật hay ngược lại là hành vi trái pháp luật là nguyên nhân của thiệt hại xảy ra. Ở đây chúng ta có thể thấy hành vi “xâm phạm” đến tính mạng, tài sản… là nguyên nhân và thiệt hại là hậu quả của hành vi đó. Tuy nhiên, xác định mối tương quan nhân quả là một vấn đề vô cùng phức tạp. Nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả và kết quả là hậu quả của nguyên nhân. Do đó, cần xem xét phân tích, đánh giá tất cả các sự kiện liên quan một cách thận trọng, khách quan và toàn diện. Từ đó mới có thể kết luận chính xác về nguyên nhân, xác định đúng trách nhiệm của người gây ra thiệt hại.
II. BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGUỒN NGUY HIỂM CAO ĐỘ GÂY RA - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN
Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là loại trách nhiệm đặc biệt bởi lẽ thiệt hại xảy ra không phải do hành vi và do lỗi của con người mà do hoạt động của những sự vật mà hoạt động của chúng luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại. Mặc dù chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ có thể không có lỗi đối với thiệt hại nhưng để bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho người bị thiệt hại, pháp luật vẫn buộc họ có trách nhiệm bồi thường. Pháp luật dân sự thế giới cũng như Việt Nam không có bất kỳ một khái niệm đầy đủ nào về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra nhưng có thể hiểu một cách khái quát, đó là loại trách nhiệm phát sinh cho người sở hữu, chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ khi hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho môi trường và những người xung quanh.
1.Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
1.1 Có hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ
Khoản 1 Điều 623 Bộ luật dân sự 2005 không đưa ra một định nghĩa khái quát về nguồn nguy hiểm cao độ mà chỉ có quy định mang tính liệt kê: “Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định”.
Khái niệm cụ thể của những loại nguồn nguy hiểm trên được quy định trong nhiều văn bản khác nhau[1]. Nguồn nguy hiểm cao độ theo Điều 623 được hiểu là những vật đang tồn tại hiện hữu mà hoạt động vận hành, sản xuất, vận chuyển, bảo quản… chúng luôn chứa đựng khả năng gây thiệt hại cho môi trường và những người xung quanh. Tính nguy hiểm của nó còn thể hiện ở chỗ con người không thể kiểm soát được một cách tuyệt đối nguy cơ gây thiệt hại.
Thiệt hại liên quan đến các loại nguồn nguy hiểm rất đa dạng và do nhiều nguyên nhân khác nhau. Tuy nhiên, chỉ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra khi thỏa mãn hai dấu hiệu sau:
Thứ nhất: Những sự vật được coi là nguồn nguy hiểm cao độ phải đang trong tình trạng vận hành, hoạt động như: phương tiện giao thông vận tải cơ giới đang tham gia giao thông trên đường; cháy, chập hệ thống tải điện; nhà máy công nghiệp đang hoạt động… Trường hợp thiệt hại xảy ra khi nguồn nguy hiểm cao độ đang ở trạng thái “tĩnh” – không hoạt động thì không thể coi là thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, ví dụ: xe ô tô dừng đỗ trên đỉnh dốc nhưng theo quán tính trượt xuống chân dốc gây thiệt hại; cột điện bị đổ trong lúc đang thi công, chưa có điện; thú dữ chết thối rữa gây dịch bệnh…
Thứ hai: thiệt hại phải do chính sự tác động của bản thân nguồn nguy hiểm cao độ hoặc do hoạt động nội tại của nguồn nguy hiểm gây ra.
Tuy nhiên, không phải mọi thiệt hại do vật gây ra đều có sự tác động của con người. Nhiều trường hợp, hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ nằm ngoài sự kiểm soát, chế ngự của con người và tự thân nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại. Việc xác định thiệt hại là do “tác động của người” hay “tác động của vật” có ý nghĩa vô cùng quan trọng khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Những trường hợp thiệt hại có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ nhưng do “tác động của con người”, do hành vi của con người gây ra thì chỉ cần áp dụng nguyên tắc chung của trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trên thực tế thì hầu hết những vụ tai nạn… đều có phương tiện làm công cụ, tuy nhiên, đây là do hành vi cố ý của con người nên không thể xét là tự than nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Trường hợp thiệt hại xảy ra do hoạt động nội tại của nguồn nguy hiểm cao độ, hoàn toàn độc lập và nằm ngoài sự quản lý, kiểm soát của con người thì sẽ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra như: xe ô tô đang chạy với tốc độ cao đột nhiên mất phanh, mất lái hoặc nổ lốp gây ra thiệt hại; cháy, chập đường dây tải điện; cháy nổ trong nhà máy do trục trặc kỹ thuật…
Một điểm cần lưu ý là hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ phải có tính trái pháp luật. Hoạt động của xe cần trục, xe ủi… khi phá dỡ các công trình xây dựng trái phép không thể coi là trái pháp luật. Có nhiều trường hợp do đặc tính của nguồn nguy hiểm cao độ mà việc gây thiệt hại của những phương tiện này không bị coi là trái pháp luật. Ví dụ, để bảo đảm an toàn giao thông đường sắt, những thiệt hại trên đường sắt do tàu hỏa gây ra cho các chủ thể khác không bị coi là trái pháp luật và ngành đường sắt không có trách nhiệm bồi thường.
Bên cạnh đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cũng loại trừ các trường hợp thiệt hại xảy ra do lỗi cố ý của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng, tình thế cấp thiết (Theo Điều 623 Bộ luật dân sự). Nói tóm lại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là trách nhiệm đối với sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ chứ không phải thiệt hại do hành vi của con người.
1.2 Có thiệt hại xảy ra
Nguồn nguy hiểm cao độ do tính chất nguy hiểm của nó có thể gây thiệt hại cho bất kỳ ai: chủ sở hữu, người đang chiếm hữu, vận hành, những người không có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ… nên BLDS quy định: “ Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải tuân thủ các quy định bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp luật”.
Đối với chủ sở hữu, họ phải tự chịu mọi rủi ro đối với thiệt hại do tài sản của mình gây ra. Đối với người bị thiệt hại trong khi sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo nghĩa vụ lao động, họ sẽ được hưởng bồi thường theo chế độ bảo hiểm tai nạn lao động. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ chỉ được đặt ra khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho những “người xung quanh”- là những người khi xảy ra thiệt hại không có quan hệ lao động hoặc sở hữu liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ nhằm để bảo vệ quyền được bồi thường cho những người này.
Do đặc điểm của nguồn nguy hiểm cao độ là những loại tài sản có khả năng gây ra thiệt hại trong quá trình vận hành, sử dụng chúng, thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ có thể là những thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe. Thiệt hại về danh dự, uy tín, nhân phẩm – là những thiệt hại chỉ có thể phát sinh do hành vi của con người nên không thuộc phạm vi tác động của nguồn nguy hiểm cao độ.
1.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra
Điều kiện này đòi hỏi hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ là nguyên nhân tất yếu, nguyên nhân có ý nghĩa quyết định dẫn đến thiệt hại và thiệt hại xảy ra là kết quả của hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ. Khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, điểm mấu chốt quan trọng là xác định thiệt hại đó do nguyên nhân nào gây ra. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ được áp dụng khi tự than nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại.
1.4. Bàn về điều kiện lỗi đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường. Chỉ khi nào một người do lỗi của mình mà gây thiệt hại, xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của người khác thì mới phải bồi thường. Cơ sở để người bị thiệt hại yêu cầu bồi thường là họ phải chứng minh lỗi của người gây thiệt hại. Điều kiện này trong nhiều trường hợp thực tế là không thể thực hiện được khi thiệt hại xảy ra không phải do lỗi của ai cả. Khuynh hướng xác định trách nhiệm bồi thường dựa trên ý niệm lỗi nhiều khi không bảo đảm được một cách hiệu quả quyền lợi cho nạn nhân trong khi việc bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại là một đòi hỏi cấp thiết và chính đáng. Do đó, điều kiện về lỗi không có ý nghĩa đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra bởi đây là loại “trách nhiệm pháp lí nâng cao” . Thậm chí kể cả khi chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ không có lỗi vẫn phải bồi thường trừ trường hợp do pháp luật quy đinh (khoản 3 Điều 623).
2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
Thiệt hại do chính nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
VD: Xe ôtô đang vận hành bị mất phanh, nổ lốp…thú đang biểu diễn xiếc thì nhảy ra gây thiệt hại cho khan giả…
Chủ thể phải bồi thường thiệt hại: Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng (mượn, thuê…) thì những người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
Trên nguyên tắc chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ (cho thuê, cho mượn…) phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra kể cả khi không có lỗi (trách nhiệm nâng cao). Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ sở hữu, người được giao chiếm hữu , sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ được loại trừ nếu xuất hiện một trong lí do sau:
+) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại: Lao vào ôtô tự tử, bị thiệt hại trong hành lang an toàn đường sắt như thiệt hại đối với súc vật thả rông, người qua lại…
+) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng, tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xác định đối với chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ khi nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại kể cả trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu trái pháp luật. Do đó, khoản 4 Điều 623 BLDS quy định: “ Trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì nguời chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật phải bồi thường thiệt hại”.
III. THỰC TIỄN TRONG VIỆC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGUỒN NGUY HIỂM CAO ĐỘ GÂY RA
Thực tiễn áp dụng pháp luật trong thời gian vừa qua cho thấy vẫn còn có có những trường hợp có sự nhầm lẫn giữa bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của con người gây ra liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ với bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Dưới đây, xin nêu một ví dụ cụ thể:
Nội dung vụ án như sau: Công ty cổ phần An Sinh (CTCPAS) có trụ sở tại quận Cầu Giấy, TP Hà Nội ký hợp đồng với Xí nghiệp Xây dựng công trình 1 thuộc Công ty Cầu 75 (XNXDCT1). Theo đó, CTCPAS cho XNXDCT1 thuê một chiếc xe ô tô chở bê tông với thời gian thuê là 12 tháng, kể từ ngày 18/5/2006 đến hết ngày 18/5/2007 với giá 22 triệu đồng/tháng, giá này đã bao gồm thuế VAT, lương lái xe. Đồng thời CTCPAS điều động Nguyễn Trung Dĩ (là lái xe của CTCPAS, có ký hợp đồng lao động với CTCPAS từ ngày 11/5/2005 đến hết ngày 11/5/2008) đi lái chiếc xe mang biển số 29U – 4578 để vận chuyển bê tông cho XNXDCT1.
Đêm ngày 24/1/2007, Nguyễn Trung Dĩ thực hiện nhiệm vụ điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 29 U – 4578 để chở bê tông cung cấp cho công trình thi công trụ sở tỉnh uỷ Hà Nam. Đến 2h15 phút ngày 25/1/2007, Nguyễn Trung Dĩ điều khiển xe theo hướng Phủ Lý đi Nam Định, đến Km số 4 + 600 thuộc quốc lộ 21A thuộc địa phận thôn Văn Lâm, xã Liêm Tiết, huyện Thanh Liêm nơi có đường bộ và đường sắt giao nhau để đổ bê tông thừa xuống đường. Trên xe do Dĩ điều khiển ngoài Dĩ còn có Đào Xuân Ánh, Nguyễn Trọng Thám (công nhân XNXDCT1) và anh Nguyễn Văn Hồng (trú tại thôn Đại Cầu, xã Tiên Tân, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam). Khi việc xả đổ bê tông vừa hoàn thành, hai bánh trước của xe ô tô vẫn đứng trên đường sắt thì đầu máy D19E – 902 kéo tàu Thống Nhất II của Tổng Công ty đường sắt Việt Nam do anh Nguyễn Mạnh Hải ở Xí nghiệp đầu máy Hà Nội điều khiển chạy hướng Nam Định – Phủ Lý đi tới đã đâm vào xe ô tô 29U – 4578, hất xe ô tô đổ văng xuống đường quốc lộ 21A làm anh Hoàng Văn Cương (phụ lái tàu Thống Nhất II), Đào Xuân Ánh, Nguyễn Trọng Thám, Nguyễn Xuân Hồng bị thương và được đưa đi cấp cứu tại bệnh viện. Hậu quả: Anh Đào Xuân Ánh, Nguyễn Trọng Thám bị chết (do vết thương quá nặng), Nguyễn Trung Dĩ, Nguyễn Văn Hồng và Hoàng Văn Cương bị thương, xe ô tô 29 U – 4578 và đầu máy D19E – 902 bị hư hỏng nặng.
Nguyễn Trung Dĩ bị VKSND huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam truy tố về tội “Vi phạm các qui định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo Khoản 3, Điều 202 – Bộ luật Hình sự năm 1999.
Ngày 26 tháng 9 năm 2007, TAND huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam đã mở phiên toà xét xử đối với Nguyễn Trung Dĩ. Trong vụ án này, ngoài bị cáo Nguyễn Trung Dĩ thì TAND huyện Thanh Liêm xác định tư cách tố tụng như sau: Tổng Công ty đường sắt Việt Nam là nguyên đơn dân sự, XNXDCT1 thuộc Công ty Cầu 75 là bị đơn dân sự, CTCPAS là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Trung Dĩ rõ ràng, tại phiên toà bị cáo đã khai nhận tội. Tuy nhiên, điều đáng bàn trong vụ án này liên quan đến “phần dân sự” – đó là phần bồi thường thiệt hại cho Tổng Công ty đường sắt Việt Nam. Hội đồng xét xử đã căn cứ vào Điều 608 (thiệt hại do tài sản bị xâm phạm) và Điều 623 (Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra) của Bộ luật Dân sự năm 2005 (BLDS 2005) quyết định: Buộc XNXDCT1 thuộc Công ty Cầu 75 bồi thường thiệt hại cho Tổng Công ty đường sắt Việt Nam 152.763.000 đồng (bao gồm chi phí sửa chữa đầu máy, thời gian chậm tàu…) và XNXDCT1 phải chịu 7.122.000 đồng án phí.
Nhận xét:
Việc Hội đồng xét xử áp dụng Điều 623 BLDS2005 để buộc XNXDCT1 thuộc Công ty Cầu 75 bồi thường thiệt hại cho Tổng Công ty đường sắt Việt Nam là không đúng qui định của pháp luật.Xe ô tô chở bê tông mang biển kiểm soát 29U – 4578 của CTCPAS đúng là “nguồn nguy hiểm cao độ”, tuy nhiên thiệt hại trong trường hợp này lại không phải do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra mà là thiệt hại liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ, do hành vi trái pháp luật của con người gây ra. Nguyễn Trung Dĩ là lái xe của CTCPAS đã điều khiển xe ô tô đến địa phận đường bộ và đường sắt giao nhau, đỗ xe ở đó và đổ bê tông thừa là vi phạm qui định của Luật Giao thông đường bộ. Điều 16, Khoản 2, Luật Giao thông đường bộ qui định: “Cấm lùi xe ở khu vực cấm dừng, trên phần đường dành cho người đi bộ qua đường, nơi đường bộ giao nhau, đường bộ giao cắt đường sắt, nơi tầm nhìn bị che khuất, trong hầm đường bộ.”
Như vậy, hành vi vi phạm của Nguyễn Trung Dĩ được xác định là trong khoảng thời gian thực thi nhiệm vụ của pháp nhân giao cho (CTCPAS điều động), do đó pháp nhân (CTCPAS) phải chịu trách nhiệm về hành vi của thành viên pháp nhân khi thành viên đó gây thiệt hại. Do đó, trường hợp này cần phải áp dụng Điều 618 BLDS 2005