Sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật, những thành tựu mới của công nghiệp hóa, cơ giới hóa đã làm thế giới ngày càng văn minh, hiện đại hơn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy nó cũng kéo theo sự gia tăng các tai nạn mang tính khách quan nhiều khi nằm ngoài sự chi phối, điều khiển của con người, đe dọa tới sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản của các chủ thể trong xã hội. Có những sự vật như máy móc, phương tiện, hệ thống điện, dây chuyền sản xuất trong nhà máy bản thân hoạt động của nó luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại cho môi trường xung quanh. Mặc dù con người luôn tìm mọi cách kiểm soát, vận hành nó một cách an toàn nhưng vẫn có những thiệt hại khách quan bất ngờ có thể xảy ra nằm ngoài sự kiểm soát đó.
Xuất phát từ lý do này, dưới góc độ khoa học pháp lý, nguồn nguy hiểm cao độ đã được biết đến với nhận định là sự tiềm ẩn nguy cơ gây ra thiệt hại. Trên cơ sở đánh giá sự tiềm ẩn nguy cơ này với sự nhận định mối liên quan giữa hành vi của con người với thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, pháp luật dân sự đã đề cập đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
18 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4596 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật, những thành tựu mới của công nghiệp hóa, cơ giới hóa đã làm thế giới ngày càng văn minh, hiện đại hơn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy nó cũng kéo theo sự gia tăng các tai nạn mang tính khách quan nhiều khi nằm ngoài sự chi phối, điều khiển của con người, đe dọa tới sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản… của các chủ thể trong xã hội. Có những sự vật như máy móc, phương tiện, hệ thống điện, dây chuyền sản xuất trong nhà máy… bản thân hoạt động của nó luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại cho môi trường xung quanh. Mặc dù con người luôn tìm mọi cách kiểm soát, vận hành nó một cách an toàn nhưng vẫn có những thiệt hại khách quan bất ngờ có thể xảy ra nằm ngoài sự kiểm soát đó.
Xuất phát từ lý do này, dưới góc độ khoa học pháp lý, nguồn nguy hiểm cao độ đã được biết đến với nhận định là sự tiềm ẩn nguy cơ gây ra thiệt hại. Trên cơ sở đánh giá sự tiềm ẩn nguy cơ này với sự nhận định mối liên quan giữa hành vi của con người với thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, pháp luật dân sự đã đề cập đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Vì vậy, để có thể hiểu sâu hơn về vấn đề này, trong bài viết này em xin trình bày vấn đề: “Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”.
NỘI DUNG: BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGUỒN NGUY HIỂM CAO ĐỘ GÂY RA – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.
I. Một số vấn đề lý luận về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Có thể nói, nguồn nguy hiểm cao độ luôn tạo ra mối nguy hiểm cho những người xung quanh, mặc dù chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ đã áp dụng các biện pháp phòng ngừa nhưng không thể kiểm soát được một cách tuyệt đối khả năng gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ. Vậy nguồn nguy hiểm cao độ là gì? Thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được phát sinh trên cơ sở những điều kiện gì và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được giải quyết như thế nào?
1. Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ.
Theo quy định tại Điều 623 BLDS năm 2005 quy định: “Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.”, đồng thời dựa theo Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ – HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, như vậy pháp luật pháp luật không đưa ra khái niệm tổng quát về nguồn nguy hiểm cao độ mà chỉ định nghĩa dưới dạng liệt kê. Trên cơ sở xem xét, đánh giá về các loại tài sản được coi là nguồn nguy hiểm cao độ trong các văn bản hướng dẫn, có thể hiểu: “Nguồn nguy hiểm cao độ là những vật chất nhất định do pháp luật quy định luôn tiềm ẩn nguy cơ gây thiệt hại cho con người, con người không thể kiểm soát được một cách tuyệt đối”.
Xuất phát từ đặc điểm của nguồn nguy hiểm cao độ là luôn tiềm ẩn trong nó khả năng gây thiệt hại nên BLDS quy định chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải tuân thủ các quy định bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp luật (Khoản 1 Điều 623 BLDS năm 2005). Vì vậy khi để xảy ra thiệt hại sẽ phát sinh vấn đề bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ.
2. Khái niệm trách nhiệm và đặc điểm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
2.1 Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Trách nhiệm BTTH được đề cập rất sớm trong hệ thống pháp luật của nhà nước ta. Tuy nhiên, chỉ đến khi BLDS 1995 ra đời thì các quy định về trách nhiệm BTTH mới được quy định một cách chi tiết. Tiếp đó, BLDS 2005 hoàn thiện hơn nữa các quy định về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng, cụ thể được quy định tại Điều 604 BLDS 2005. Trên cơ sở tại khoản 2 Điều 604 BLDS năm 2005 quy định: “Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó’’, BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chính là một trong những trường hợp pháp luật quy định. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được hiểu là trách nhiệm của chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho người khác, phải bồi thường thiệt hại kể cả trong trường hợp chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ không có lỗi .
2.2. Đặc điểm của bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một trong những trường hợp BTTH ngoài hợp đồng, do đó ngoài những đặc điểm chung thì BTTTH do nguồn nguy hiểm cao độ cũng có những đặc điểm riêng.
+ Thứ nhất, BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một trường hợp BTTH do tài sản gây ra. Tức là thiệt hại xảy ra có nguyên nhân chính được xuất phát từ tài sản mà không phải là hành vi của con người.
+ Thứ hai, BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phải là trường hợp người bồi thường phải bồi thường cho người bị thiệt hại ngay cả khi mình không có lỗi. Đây là điểm khác biệt rất cơ bản với bồi thường thiệt hại do hành vi của con người gây ra.
3. Các điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Để xác định một người có phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra hay không cần phải căn cứ vào các điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
3.1. Có hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ.
Thiệt hại liên quan đến các loại nguồn nguy hiểm rất đa dạng và do nhiều nguyên nhân khác nhau. Tuy nhiên, chỉ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra khi thỏa mãn hai dấu hiệu sau:
+Thứ nhất: Những sự vật được coi là nguồn nguy hiểm cao độ phải đang trong tình trạng vận hành, hoạt động như: phương tiện giao thông vận tải cơ giới đang tham gia giao thông trên đường; cháy, chập hệ thống tải điện; nhà máy công nghiệp đang hoạt động… Trường hợp thiệt hại xảy ra khi nguồn nguy hiểm cao độ đang ở trạng thái “tĩnh” – không hoạt động thì không thể coi là thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, ví dụ: xe ô tô dừng đỗ trên đỉnh dốc nhưng theo quán tính trượt xuống chân dốc gây thiệt hại; cột điện bị đổ trong lúc đang thi công, chưa có điện; thú dữ chết thối rữa gây dịch bệnh…
+ Thứ hai: thiệt hại phải do chính sự tác động của bản thân nguồn nguy hiểm cao độ hoặc do hoạt động nội tại của nguồn nguy hiểm gây ra. Nhiều trường hợp, hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ nằm ngoài sự kiểm soát, chế ngự của con người và tự thân nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại. Việc xác định thiệt hại là do “tác động của người” hay “tác động của vật” có ý nghĩa vô cùng quan trọng khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Trường hợp thiệt hại xảy ra do hoạt động nội tại của nguồn nguy hiểm cao độ, hoàn toàn độc lập và nằm ngoài sự quản lý, kiểm soát của con người thì sẽ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra như: xe ô tô đang chạy với tốc độ cao đột nhiên mất phanh, mất lái hoặc nổ lốp gây ra thiệt hại; cháy, chập đường dây tải điện; cháy nổ trong nhà máy do trục trặc kỹ thuật… Lưu ý: hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ phải có tính trái pháp luật. Có nhiều trường hợp do đặc tính của nguồn nguy hiểm cao độ mà việc gây thiệt hại của những phương tiện này không bị coi là trái pháp luật. Ví dụ, để bảo đảm an toàn giao thông đường sắt, những thiệt hại trên đường sắt do tàu hỏa gây ra cho các chủ thể khác không bị coi là trái pháp luật và ngành đường sắt không có trách nhiệm bồi thường. Bên cạnh đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cũng loại trừ các trường hợp thiệt hại xảy ra do lỗi cố ý của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng, tình thế cấp thiết (Theo Điều 623 Bộ luật dân sự). Nói tóm lại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là trách nhiệm đối với sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ chứ không phải thiệt hại do hành vi của con người.
3.2. Nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho “người xung quanh”.
Nguồn nguy hiểm cao độ do tính chất nguy hiểm của nó có thể gây thiệt hại cho bất kỳ ai: chủ sở hữu, người đang chiếm hữu, vận hành, những người không có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ… Có những chủ thể do mối quan hệ sở hữu, lao động mà họ trực tiếp tiếp xúc với nguồn nguy hiểm cao độ. Đối với chủ sở hữu, họ phải tự chịu mọi rủi ro đối với thiệt hại do tài sản của mình gây ra. Đối với người bị thiệt hại trong khi sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo nghĩa vụ lao động, họ sẽ được hưởng bồi thường theo chế độ bảo hiểm tai nạn lao động. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ chỉ được đặt ra khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho những “người xung quanh”- là những người khi xảy ra thiệt hại không có quan hệ lao động hoặc sở hữu liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ nhằm để bảo vệ quyền được bồi thường cho những người này.
Do đặc điểm của nguồn nguy hiểm cao độ là những loại tài sản có khả năng gây ra thiệt hại trong quá trình vận hành, sử dụng chúng, thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ có thể là những thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe. Thiệt hại về danh dự, uy tín, nhân phẩm – là những thiệt hại chỉ có thể phát sinh do hành vi của con người nên không thuộc phạm vi tác động của nguồn nguy hiểm cao độ.
3.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra
Điều kiện này đòi hỏi hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ là nguyên nhân tất yếu, nguyên nhân có ý nghĩa quyết định dẫn đến thiệt hại và thiệt hại xảy ra là kết quả của hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ. Khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, điểm mấu chốt quan trọng là xác định thiệt hại đó do nguyên nhân nào gây ra. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ được áp dụng
3.4. Lỗi đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Thông thường, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ đặt ra khi có điều kiện lỗi. Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường. Chỉ khi nào một người do lỗi của mình mà gây thiệt hại, xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của người khác thì mới phải bồi thường. Cơ sở để người bị thiệt hại yêu cầu bồi thường là họ phải chứng minh lỗi của người gây thiệt hại. Điều kiện này trong nhiều trường hợp thực tế là không thể thực hiện được khi thiệt hại xảy ra không phải do lỗi của ai cả. Khuynh hướng xác định trách nhiệm bồi thường dựa trên ý niệm lỗi nhiều khi không bảo đảm được một cách hiệu quả quyền lợi cho nạn nhân trong khi việc bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại là một đòi hỏi cấp thiết và chính đáng
Để bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ nạn nhân chống lại việc gây ra tai nạn, có quan điểm cho rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong một số trường hợp có thể phát sinh mà không cần điều kiện lỗi. Thực tế cho thấy các tai nạn mang tính khách quan nhiều khi nằm ngoài sự chi phối, điều khiển của con người ngày càng gia tăng cùng với sự phát triển của công nghiệp hóa, cơ giới hóa, đe dọa tới sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản của con người. Nếu trong mọi trường hợp xảy ra thiệt hại đều buộc người bị hại dẫn chứng lỗi thì không khác gì gián tiếp bác bỏ quyền đòi bồi thường thiệt hại của nạn nhân. Vì vậy, khi có việc gây thiệt hại, người bị thiệt hại được bảo đảm bồi thường ngay cả trong trường hợp người gây thiệt hại không có lỗi. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một trong những trường hợp đặc biệt, theo đó, trách nhiệm bồi thường phát sinh khi không cần xem xét đến điều kiện lỗi. Khoản 3 Điều 623 Bộ luật dân sự quy định “Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi”. Quy định này trên thực tế hiện nay dẫn đến những cách hiểu khác nhau.
Quan điểm thứ nhất căn cứ vào nguyên nhân gây ra thiệt hại, theo đó, nếu thiệt hại có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ thì áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra bất kể có lỗi hay không có lỗi của người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ. Như vậy, những thiệt hại do phương tiện giao thông, công trình, thú dữ, do sử dụng vũ khí, chất nổ, chất cháy, điện… gây ra đều được áp dụng trách nhiệm bồi thường do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Trường hợp thiệt hại do hành vi của con người, không liên quan đến các loại nguồn nguy hiểm cao độ thì áp dụng nguyên tắc chung của trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Việc xác định trách nhiệm theo quan điểm này có ưu điểm bảo vệ được quyền lợi cho nạn nhân nhưng lại có khuynh hướng đè nặng trách nhiệm cho người sở hữu, người chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ, bởi lẽ có nhiều trường hợp thiệt hại xảy ra là do hành vi trái pháp luật, do lỗi của người khác. Ví dụ: Do có mối thù với A, B đã bí mật tháo phanh xe ô tô của A với mục đích gây tai nạn cho A. Khi A đang lái xe trên đường, do xe mất phanh nên A gây tai nạn cho C là người đang tham gia giao thông. Trong trường hợp này, A là chủ sở hữu đồng thời là người đang chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ nên theo quan điểm trên, A có trách nhiệm bồi thường. Cách xác định trách nhiệm bồi thường như vậy là không hợp lý và xác định không chính xác người phải gánh chịu trách nhiệm bồi thường.
Quan điểm thứ hai cho rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là loại trách nhiệm hoàn toàn loại trừ yếu tố lỗi của người sở hữu, người chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ. Nếu thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra nhưng có một phần lỗi của người đang trông giữ, vận hành, quản lý nguồn nguy hiểm cao độ thì áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung. Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn không có lỗi của con người thì mới áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Trên thực tế rất khó xác định thiệt hại xảy ra hoàn toàn không có lỗi của con người và như vậy, dường như quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra khó có thể áp dụng trên thực tế.
Quan điểm thứ ba theo hướng dung hòa hai quan điểm trên. Nếu như các trường hợp bồi thường thiệt hại thông thường dựa trên sự suy đoán lỗi thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra dựa trên sự suy đoán trách nhiệm đối với người có nghĩa vụ quản lý nguồn nguy hiểm cao độ. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ được áp dụng khi hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ nằm ngoài khả năng kiểm soát, điều khiển của người chiếm hữu, vận hành và là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thiệt hại. Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của con người trong việc trông giữ, bảo quản, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ thì không áp dụng trách nhiệm này mà sẽ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra không loại trừ khả năng thiệt hại cũng có thể có một phần lỗi của người quản lý, trông giữ, bảo quản, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ nhưng hành vi của người trông giữ, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ không phải nguyên nhân có tính quyết định đến thiệt hại. Chủ sở hữu, người đang chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ không được miễn trừ trách nhiệm bồi thường kể cả trong trường hợp họ chứng minh được mình không có lỗi trong việc trông giữ, bảo quản, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ.
Như vậy, yếu tố lỗi không phải là một điều kiện tiên quyết làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra do đó quan điểm thứ ba là hợp lý nhất. Có thể thấy dấu hiệu quan trọng nhất để xác định trách nhiệm này là hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ chính là nguyên nhân trực tiếp, là yếu tố quyết định dẫn đến thiệt hại. Hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ có thể hoàn toàn không có lỗi của con người (như xe đang chạy trên đường bất ngờ nổ lốp trước dẫn đến đổi hưởng đột ngột gây thiệt hại) hoặc cũng có thể có một phần lỗi của người quản lý, điều khiển, tuy nhiên lỗi ở đây chỉ đóng vai trò thứ yếu đối với thiệt hại (như trước khi xuống dốc, lái xe không kiểm tra lại phanh; lốp mòn nhưng chưa thay do chủ quan nghĩ rằng xe vẫn vận hành tốt…). Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi, do hành vi của người điều khiển nguồn nguy hiểm cao độ thì không áp dụng trách nhiệm này.
4. Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Trước hết, phải khẳng định chỉ xác định được ai đó có là chủ thể và đảm bảo điều kiện trong trường hợp đó họ được xác lập tư cách đương sự trong tố tụng dân sự thì mới bàn đến việc người đó có lỗi hay không có lỗi. Do vậy cần xác định NLHVDS của các chủ thể chịu TNBTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Căn cứ vào khoản 2, 3, 4 Điều 623 Bộ luật dân sự 2005 và Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra có thể được áp dụng với các chủ thể sau:
- Chủ sở hữu;
- Người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ;
- Người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ.
Việc xác định ai trong số các chủ thể trên phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể. Điều 165 Bộ luật dân sự quy định nguyên tắc thực hiện quyền sở hữu, theo đó “Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”. Khi có thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, trước tiên người ta nghĩ đến nghĩa vụ của chủ sở hữu trong việc tôn trọng và bảo vệ lợi ích chung, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, vì vậy, trách nhiệm bồi thường trước hết được đặt ra cho chủ sở hữu, trừ trường hợp chủ sở hữu chứng minh được trách nhiệm thuộc về người khác. Chúng ta có thể xem xét các trường hợp sau:
- Trường hợp 1: Chủ sở hữu đang trực tiếp chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ.Theo quy định của pháp luật, chủ sở hữu là người có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản theo ý chí của mình. Việc thực hiện quyền sở hữu của chủ sở hữu không được gây tổn hại tới lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Vì vậy, nếu nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho người khác trong trường hợp chủ sở hữu đang trực tiếp chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ.
- Trường hợp 2: chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác chiếm hữu, sử dụng theo ý chí của chủ sở hữu. Về lý luận, quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản của người không phải là chủ sở hữu tài sản được quy định tại Điều 182, 185 (chiếm hữu theo ủy quyền), Điều 186 (chiếm hữu do giao dịch dân sự), còn quyền sử dụng tài sản của người không phải là chủ sở hữu được quy định tại Điều 192, 194 BLDS năm 2005. Khi cho thuê, cho mượn hay chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ theo nghĩa vụ lao động, mặc dù chủ sở hữu không trực tiếp khai thác công dụng của tài sản nhưng đó cũng là một hình thức chủ sở hữu thực hiện quyền sử dụng tài sản, cụ thể là khai thác lợi ích kinh tế từ tài sản. Bộ luật dân sự năm 2005 Khoản 2 Điều 623 quy định “nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sư dụng thì những người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
Pháp luật quy định cho dù chủ sở hữu hoặc người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ hợp pháp phải bồi thường thiệt hại khi nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cho người khác kể cả khi họ không có lỗi. Nguyên tắc xác định người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra không áp dụng trong các trường hợp theo Khoản 3 Điều 623 BLDS năm 2