Trong mấy thập kỷ qua, môi trường ngày càng có chiều hướng biến đổi phức tạp. Chất lượng không khí, nguồn nước, tài nguyên, hệ sinh thái. nhiều nơi ở mức báo động. Ô nhiễm môi trường và áp lực với thiên nhiên đang diễn ra hàng ngày và ở nhiều nơi. Vấn đề ô nhiễm môi trường sống, sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên, quá trình thay đổi khí hậu toàn cầu đang là những thách thức đối với quá trình phát triển kinh tế bền vững. Trước những nguy cơ đó, hội nghị Liên Hợp Quốc về môi trường và phát triển đã được tổ chức tại Jio de Janeiro-Braxin tháng 6/1992 và Hội nghị thượng đỉnh Thế Giới về phát triển bền vững tại Joharnesburg – Nam Phi tháng 8/2002; gần đây nhất là Hội nghị thế giới về khí hậu - Copenhagen diễn ra tại Đan Mạch từ ngày 7 đến 18/12/2009 và nhiều Điều ước quốc tế song phương, đa phương về bảo vệ môi trường đã được ký kết. Việt Nam đã tham gia một số Điều ước như: Công ước về bảo vệ di sản văn hóa và tự nhiên của thế giới, 1972 (19/10/1987); Công ước về thông báo sớm sự cố hạn nhân (IAEA), 1985 (30/10/1987); Công ước về các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế đặc biệt như là nơi cư trú của loài chim nước (RAMSAR), 1971 (20/9/1989); Công ước khung về biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc (UNFCCC), 1992 (16/11/1994); Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), 1982 [22]
Được sự quan tâm của Đảng và nhà nước, trong thời gian qua công tác bảo vệ môi trường của Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định, ý thức của nhân dân về bảo vệ môi trường đã được nâng lên một bước; hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường đã được xây dựng và từng bước đi vào cuộc sống.
Tuy nhiên, thực tiễn hiện nay cho thấy tình trạng vi phạm hành chính (VPHC) trong lĩnh vực bảo vệ môi trường vẫn xảy ra tương đối phổ biến, công tác xử lý vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường cũng chưa triệt để, có nhiều vụ vi phạm không được phát hiện kịp thời hoặc được phát hiện nhưng xử lý chưa thỏa đáng.
Những bất cập trên đây có nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân về mặt pháp luật; nhất là kể từ khi Pháp lệnh xử lý VPHC sửa đổi, bổ sung năm 2008 (Pháp lệnh 2008) có hiệu lực, thì sự mâu thuẫn giữa pháp lệnh và pháp luật về xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường cụ thể là Nghị định số 81/2006/NĐ-CP càng làm tăng khó khăn cho việc áp dụng pháp luật. Trước tình hình đó, ngày 31/12/2009 Chính Phủ đã ban hành Nghị định số 177/2009/QĐ-CP về xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường (Nghị định 177 - có hiệu lực vào 01/03/2010), đánh dấu một bước phát triển mới của pháp luật về xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và nhất là pháp luật về các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường đã có thay đổi đáng kể.
Trước tình hình đó, em đã chọn đề tài “Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và thực tiễn thi hành” làm khóa luận tốt nghiệp, với mong muốn góp phần nâng cao hiểu biết của các tổ chức, cá nhân về các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, nhất là những quy định mới về vấn đề này trong Nghị định 177.
Khóa luận có phạm vi nghiên cứu giới hạn trong các quy định hiện hành của Luật bảo vệ môi trường, Pháp lệnh xử lý VPHC, Nghị định hướng dẫn thi hành Pháp lệnh xử lý VPHC, tham khảo một số bài viết trên báo, tạp chí chuyên ngành và phân tích một số vụ việc xử lý VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường xảy ra trong thời gian gần đây. Bằng việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phân tích, tổng hợp, những yêu cầu mà đề tài đặt ra đã dần được làm sáng tỏ trong khóa luận.
Ngoài Lời mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận được kết cấu thành 3 chương:
Chương I. Cơ sở lý luận về các biện pháp xử phạt vi phạm VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Chương II. Thực trạng pháp luật về các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và thực tiễn áp dụng.
Chương III. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình nghiên cứu hoàn thành khóa luận, nhưng với thời gian, điều kiện và khả năng có hạn nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế.Vì vậy, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn.
64 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3225 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và thực tiễn thi hành, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
T
LỜI MỞ ĐẦU
rong mấy thập kỷ qua, môi trường ngày càng có chiều hướng biến đổi phức tạp. Chất lượng không khí, nguồn nước, tài nguyên, hệ sinh thái... nhiều nơi ở mức báo động. Ô nhiễm môi trường và áp lực với thiên nhiên đang diễn ra hàng ngày và ở nhiều nơi. Vấn đề ô nhiễm môi trường sống, sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên, quá trình thay đổi khí hậu toàn cầu đang là những thách thức đối với quá trình phát triển kinh tế bền vững. Trước những nguy cơ đó, hội nghị Liên Hợp Quốc về môi trường và phát triển đã được tổ chức tại Jio de Janeiro-Braxin tháng 6/1992 và Hội nghị thượng đỉnh Thế Giới về phát triển bền vững tại Joharnesburg – Nam Phi tháng 8/2002; gần đây nhất là Hội nghị thế giới về khí hậu - Copenhagen diễn ra tại Đan Mạch từ ngày 7 đến 18/12/2009 và nhiều Điều ước quốc tế song phương, đa phương về bảo vệ môi trường đã được ký kết. Việt Nam đã tham gia một số Điều ước như: Công ước về bảo vệ di sản văn hóa và tự nhiên của thế giới, 1972 (19/10/1987); Công ước về thông báo sớm sự cố hạn nhân (IAEA), 1985 (30/10/1987); Công ước về các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế đặc biệt như là nơi cư trú của loài chim nước (RAMSAR), 1971 (20/9/1989); Công ước khung về biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc (UNFCCC), 1992 (16/11/1994); Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), 1982…[22]
Được sự quan tâm của Đảng và nhà nước, trong thời gian qua công tác bảo vệ môi trường của Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định, ý thức của nhân dân về bảo vệ môi trường đã được nâng lên một bước; hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường đã được xây dựng và từng bước đi vào cuộc sống.
Tuy nhiên, thực tiễn hiện nay cho thấy tình trạng vi phạm hành chính (VPHC) trong lĩnh vực bảo vệ môi trường vẫn xảy ra tương đối phổ biến, công tác xử lý vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường cũng chưa triệt để, có nhiều vụ vi phạm không được phát hiện kịp thời hoặc được phát hiện nhưng xử lý chưa thỏa đáng.
Những bất cập trên đây có nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân về mặt pháp luật; nhất là kể từ khi Pháp lệnh xử lý VPHC sửa đổi, bổ sung năm 2008 (Pháp lệnh 2008) có hiệu lực, thì sự mâu thuẫn giữa pháp lệnh và pháp luật về xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường cụ thể là Nghị định số 81/2006/NĐ-CP càng làm tăng khó khăn cho việc áp dụng pháp luật. Trước tình hình đó, ngày 31/12/2009 Chính Phủ đã ban hành Nghị định số 177/2009/QĐ-CP về xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường (Nghị định 177 - có hiệu lực vào 01/03/2010), đánh dấu một bước phát triển mới của pháp luật về xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và nhất là pháp luật về các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường đã có thay đổi đáng kể.
Trước tình hình đó, em đã chọn đề tài “Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và thực tiễn thi hành” làm khóa luận tốt nghiệp, với mong muốn góp phần nâng cao hiểu biết của các tổ chức, cá nhân về các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, nhất là những quy định mới về vấn đề này trong Nghị định 177.
Khóa luận có phạm vi nghiên cứu giới hạn trong các quy định hiện hành của Luật bảo vệ môi trường, Pháp lệnh xử lý VPHC, Nghị định hướng dẫn thi hành Pháp lệnh xử lý VPHC, tham khảo một số bài viết trên báo, tạp chí chuyên ngành và phân tích một số vụ việc xử lý VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường xảy ra trong thời gian gần đây. Bằng việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phân tích, tổng hợp, những yêu cầu mà đề tài đặt ra đã dần được làm sáng tỏ trong khóa luận.
Ngoài Lời mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận được kết cấu thành 3 chương:
Chương I. Cơ sở lý luận về các biện pháp xử phạt vi phạm VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Chương II. Thực trạng pháp luật về các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và thực tiễn áp dụng.
Chương III. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình nghiên cứu hoàn thành khóa luận, nhưng với thời gian, điều kiện và khả năng có hạn nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế.Vì vậy, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÁC BIỆN PHÁP XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG.
1.1. Khái niệm môi trường và các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
1.1.1. Khái niệm, vai trò của môi trường đối với cuộc sống.
a. Khái niệm.
Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hoá học, sinh học, tồn tại ngoài ý muốn của con người, nhưng cũng ít nhiều chịu tác động của con người [4]. Đó là ánh sáng mặt trời, núi sông, biển cả, không khí, động, thực vật, đất, nước... Môi trường tự nhiên cho ta không khí để thở, đất để xây dựng nhà cửa, trồng cấy, chăn nuôi, cung cấp cho con người các loại tài nguyên khoáng sản cần cho sản xuất, tiêu thụ và là nơi chứa đựng, đồng hoá các chất thải, cung cấp cho ta cảnh đẹp để giải trí, làm cho cuộc sống con người thêm phong phú.
Môi trường xã hội là tổng thể các quan hệ giữa người với người. Đó là những luật lệ, thể chế, cam kết, quy định, ước định... ở các cấp khác nhau như: Liên Hợp Quốc, Hiệp hội các nước, quốc gia, tỉnh, huyện, cơ quan, làng xã, họ tộc, gia đình, tổ nhóm, các tổ chức tôn giáo, tổ chức đoàn thể,... Môi trường xã hội định hướng hoạt động của con người theo một khuôn khổ nhất định, tạo nên sức mạnh tập thể thuận lợi cho sự phát triển, làm cho cuộc sống của con người khác với các sinh vật khác.
Ngoài ra, người ta còn phân biệt khái niệm môi trường nhân tạo, bao gồm tất cả các nhân tố do con người tạo nên, làm thành những tiện nghi trong cuộc sống, như ôtô, máy bay, nhà ở, công sở, các khu vực đô thị, công viên nhân tạo...
Môi trường theo nghĩa rộng là tất cả các nhân tố tự nhiên và xã hội cần thiết cho sự sinh sống, sản xuất của con người, như tài nguyên thiên nhiên, không khí, đất, nước, ánh sáng, cảnh quan, quan hệ xã hội...
Môi trường theo nghĩa hẹp không xét tới tài nguyên thiên nhiên, mà chỉ bao gồm các nhân tố tự nhiên và xã hội trực tiếp liên quan tới chất lượng cuộc sống con người. Ví dụ: Môi trường của học sinh gồm nhà trường với thầy giáo, bạn bè, nội quy của trường, lớp học, sân chơi, phòng thí nghiệm, vườn trường, tổ chức xã hội như Đoàn, Đội với các điều lệ hay gia đình, họ tộc, làng xóm với những quy định không thành văn, thi hành và các cơ quan hành chính các cấp với luật pháp, nghị định, thông tư, quy định.
Tóm lại, môi trường là tất cả những gì có xung quanh ta, cho ta cơ sở để sống và phát triển.
b. Vai trò của môi trường đối với cuộc sống.
Môi trường có các vai trò cơ bản sau:
- Môi trường là không gian sống của con người và các loài sinh vật.
- Môi trường là nơi cung cấp tài nguyên cần thiết cho cuộc sống và hoạt động sản xuất của con người.
- Môi trường là nơi chứa đựng các chất phế thải do con người tạo ra trong cuộc sống và hoạt động sản xuất của mình.
- Môi trường là nơi giảm nhẹ các tác động có hại của thiên nhiên tới con người và sinh vật trên trái đất.
- Môi trường là nơi lưu trữ và cung cấp thông tin cho con người.
Con người luôn cần một khoảng không gian dành cho nhà ở, sản xuất lương thực và tái tạo môi trường. Con người có thể gia tăng không gian sống cần thiết cho mình bằng việc khai thác và chuyển đổi chức năng sử dụng của các loại không gian khác như khai hoang, phá rừng, cải tạo các vùng đất và nước mới. Việc khai thác quá mức không gian và các dạng tài nguyên thiên nhiên có thể làm cho chất lượng không gian sống mất đi khả năng tự phục hồi.
Môi trường là nơi con người khai thác nguồn vật liệu và năng lượng cần thiết cho hoạt động sản xuất và cuộc sống như đất, nước, không khí, khoáng sản và các dạng năng lượng như gỗ, củi, nắng, gió,... Các sản phẩm công, nông, lâm, ngư nghiệp và văn hoá, du lịch của con người đều bắt nguồn từ các dạng vật chất tồn tại trên trái đất và không gian bao quanh trái đất.
Các nguồn năng lượng, vật liệu, thông tin sau mỗi lần sử dụng được tuần hoàn quay trở lại dạng ban đầu được gọi là tài nguyên tái tạo. Ví dụ như nước ngọt, đất, sinh vật, v.v... là loại tài nguyên mà sau một chu trình sử dụng sẽ trở lại dạng ban đầu.
Trái lại, các nguồn năng lượng, vật liệu, thông tin bị mất mát, biến đổi hoặc suy thoái không trở lại dạng ban đầu thì được gọi là tài nguyên không tái tạo. Ví dụ như tài nguyên khoáng sản, gen di truyền. Tài nguyên khoáng sản sau khi khai thác từ mỏ, sẽ được chế biến thành các vật liệu của con người, do đó sẽ cạn kiệt theo thời gian. Tài nguyên gen di truyền của các loài sinh vật quý hiếm, có thể mất đi cùng với sự khai thác quá mức và các thay đổi về môi trường sống.
Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, con người ngày càng tăng cường khai thác các dạng tài nguyên mới và gia tăng số lượng khai thác, tạo ra các dạng sản phẩm mới có tác động mạnh mẽ tới chất lượng môi trường sống.
1.1.2. Khái niệm các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Cưỡng chế nhà nước gồm nhiều nhóm biện pháp cưỡng chế khác nhau, như: nhóm các biện pháp cưỡng chế mang tính trừng phạt được xác định trong chế tài pháp luật; nhóm các biện pháp cưỡng chế nhằm ngăn chặn, phòng ngừa vi phạm pháp luật và bảo đảm việc áp dụng các chế tài pháp luật; nhóm các biện pháp cưỡng chế nhà nước được áp dụng vì mục đích đảm bảo lợi ích của cộng đồng hoặc vì lí do an ninh quốc gia... Các biện pháp xử phạt hành chính về môi trường thuộc nhóm biện pháp cưỡng chế mang tính trừng phạt được xác định trong chế tài pháp luật.
Các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là biện pháp pháp luật nhằm đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật, bảo vệ môi trường. Xử phạt hành chính là công cụ cưỡng chế Nhà nước có tác dụng to lớn trong việc phòng chống VPHC để bảo vệ trật tự quản lý Nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Tính cưỡng chế thể hiện ở chỗ hoạt động áp dụng các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường luôn được các cơ quan hoặc cán bộ Nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp luật. Chỉ có cơ quan hoặc cán bộ Nhà nước được Nhà nước trao quyền xử phạt hành chính về bảo vệ môi trường mới có quyền áp dụng các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Các chủ thể được sử dụng quyền lực Nhà nước, có quyền lựa chọn các biện pháp xử phạt VPHC phù hợp mang tính trừng phạt, giáo dục; trực tiếp tác động đến tinh thần hay vật chất; buộc các đối tượng bị xử phạt phải gánh chịu những tổn hại về tài sản hoặc bị hạn chế một số quyền.
Các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường được xác định trong chế tài của quy phạm pháp luật và được áp dụng khi có vi phạm hành chính về môi trường. VPHC nói chung và VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường nói riêng cũng như mọi vi phạm pháp luật khác đều là các hành vi nguy hiểm cho xã hội, nó trực tiếp xâm hại đến những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng không nhỏ đến quyền lợi hợp pháp của các tổ chức, cá nhân. Đấu tranh với các VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường được thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau: tổ chức - chính trị, giáo dục, công nghệ, kinh tế, pháp lý. [3, tr 18]
Quy phạm pháp luật xác định các biện pháp xử phạt hành chính đối với chủ thể thực hiện vi phạm hành chính về môi trường thuộc ngành Luật Hành chính. Về nguyên tắc chung, cũng giống như các quy phạm luật khác, cấu trúc gồm ba phần: giả định, qui định, chế tài. Thông thường phần giả định chỉ ra các điều kiện về chủ thể, không gian, thời gian có hiệu lực của quy định. Phần quy định xác định nội dung quy tắc hành vi dưới dạng các quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ pháp luật môi trường. Còn chế tài ấn định các biện pháp cưỡng chế nhà nước bảo đảm cho các nghĩa vụ trong quy định được thực hiện và luôn liên quan đến nhân tố vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, không phải lúc nào các phần của qui phạm pháp luật cũng thể hiện trong một Điều luật hoặc trong cùng một văn bản pháp luật.
1.2. Đặc điểm các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
Các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là một trong các biện pháp cưỡng chế hành chính; vì vậy nó mang đầy đủ đặc điểm của cưỡng chế hành chính, đó là:
- Nội dung là sự hạn chế quyền hoặc bổ sung thêm nghĩa vụ đối với đối tượng vi phạm.
Khi tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, về nguyên tắc Nhà nước buộc họ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi nhất định (hạn chế quyền hoặc tài sản). Việc làm này nhằm khôi phục lại trật tự pháp luật bảo vệ môi trường đã bị xâm hại đồng thời giáo dục tổ chức, cá hân vi phạm cũng như toàn thể cộng đồng ý thức tuân thủ pháp luật bảo vệ môi trường.
- Mang tính giáo dục và tính trừng phạt.
Các biện pháp xử phạt hành chính về môi trường được áp dụng trên cơ sở có vi phạm hành chính về môi trường thể hiện sự phản ứng của nhà nước đối với những đối tượng đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật về môi tường. Các biện pháp xử phạt này mang tính giáo dục đồng thời cũng mang tính trùng phạt của Nhà nước đối với chủ thể vi phạm pháp luật về môi trường mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Sự trừng phạt biểu hiện ở việc buộc các chủ thể vi phạm phải gánh chịu những hậu quả bất lợi về vật chất và tinh thần. Đây là ý nghĩa quan trọng của các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, là ý nghĩa đầu tiên nhưng việc áp dụng các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường còn nhằm mục đích cao hơn là giáo dục ý thức pháp luật của các chủ thể. Thông qua việc áp dụng các biện pháp này trong các trường hợp vi phạm cụ thể Nhà nước tác động đến tâm lý của đối tượng vi phạm và các chủ thể khác, từ đó cho họ ý thức phải tuân thủ pháp luật về bảo vệ môi trường.
Pháp luật về các biện pháp xử phạt hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường cần đảm bảo tính phù hợp giữa tính răn đe giáo dục với tính trừng phạt mới có thể phát huy được hiệu quả. Tính trừng phạt trong các biện pháp xử phạt hành chính về môi trường sẽ phụ thuộc vào mức độ ảnh hưởng tiêu cực của hành vi vi phạm hành chính đối với môi trường.
- Các biện pháp xử phạt, mức phạt được pháp luật dự liệu. Các biện pháp này sẽ được áp dụng trong thực tiễn tùy thuộc vào tính chất, mức độ vi phạm, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng và nhân thân của đối tượng vi phạm.
Cùng một hành vi vi phạm pháp luật nhưng đối với mỗi trường hợp cụ thể lại có tính chất, mức độ khác nhau nên thiệt hại hay nguy cơ gây thiệt hại cho môi trường có sự khác nhau. Do đó, các biện pháp xử phạt được lựa chọn để áp dụng đối với mỗi trường hợp cụ thể là khác nhau. Ngoài ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của người vi phạm cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn các biện pháp xử phạt để áp dụng.
- Đối tượng áp dụng là tổ chức và cá nhân.
Cưỡng chế hình sự tác động đối với tội phạm, áp dụng nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự nên cưỡng chế này chỉ áp dụng đối với cá nhân mà không áp dụng với tổ chức.Cưỡng chế trong dân sự cũng như cưỡng chế trong hành chính được áp dụng cho cả cá nhân và tổ chức nhưng cưỡng chế hành chính thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân và Nhà nước, trong khi đó cưỡng chế dân sự thể hiện mối quan hệ giữa bên vi phạm với bên bị vi phạm dưới sự bảo đảm của Nhà nước.
Vì là biện pháp cưỡng chế trong một ngành luật cụ thể nên các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường cũng có các đặc điểm riêng sau:
- Được áp dụng khi có VPHC về môi trường.
Các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường chỉ có thể áp dụng khi có VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Mục đích trừng phạt của các biện pháp xử phạt VPHC có tác dụng khi tác động đến chủ thể thực hiện hành vi VPHC mà pháp luật đã quy định. Hơn nữa, VPHC xuất hiện trong tất cả các lĩnh vực quản lý Nhà nước. VPHC trong mỗi lĩnh vực lại có các đặc thù vì vậy các biện pháp xử phạt trong mỗi lĩnh vực cũng có những điểm riêng và chỉ được áp dụng đối với hành vi VPHC tương ứng đã được pháp luật qui định trong lĩnh vực đó.
- Do cơ quan Nhà nước về môi trường áp dụng.
Các cơ quan Nhà nước được chia nhỏ để quản lý các linh vực khác nhau, và có một bộ phận quản lý Nhà nước về môi trường. Những cơ quan này không những có điều kiện phát hiện vi phạm mà còn có đủ chuyên môn nghiệp vụ để xử lý VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường nghiêm minh, đúng pháp luật.
- Mức xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường thường nghiêm khắc hơn các biện pháp xử phạt VPHC trong các lĩnh vực khác.
Tất cả chúng ta đều biết, VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường thường gây thiệt hại hoặc có nguy cơ gây thiệt hại rất lớn đối với xã hội, Nhà nước hay các chủ thể khác; và khi VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường các chủ thể thường thu được lợi nhuận lớn. Vì vậy, để xử phạt có hiệu quả, các nhà làm luật thường đưa ra mức phạt nghiêm khắc hơn trong các lĩnh vực khác.
- Các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường được áp dụng theo một trình tự thủ tục phức tạp.
Về nguyên tắc, thủ tục áp dụng các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường cũng giống trong các lĩnh vực khác. Tuy nhiên; VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường thường phức tạp, để chứng minh một hành vi là hành vi VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường thì các cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành nhiều công đoạn như: xét nghiệm các thành phần môi trường, so sánh với tiêu chuẩn cho phép, xin ý kiến các chuyên gia…
1.3. Nguyên tắc xây dựng các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính trong pháp luật bảo vệ môi trường.
Nguyên tắc xây dựng các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là những tư tưởng chỉ đạo việc ban hành quy định pháp luật về các biện pháp xử phạt vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường được nhanh chóng, đúng pháp luật góp phần bảo vệ lợi ích của nhà nước; quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; tăng cường pháp chế Xã hội chủ nghĩa; nâng cao hiệu quả quản lý trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
- Đảm bảo tính giáo dục kết hợp với trừng phạt.
Xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường có mục đích trừng phạt, song đó là sự trừng phạt mang tính nhân đạo sâu sắc nếu xét đến lới ích chung của cộng đồng xã hội (nhằm bảo vệ môi trường), xét nó như một phương tiện tác động của Nhà nước làm cho người vi phạm và những người khác nhận thức đúng đắn giá trị của của pháp luật trong công cuộc bảo vệ môi trường.
Trong khi đó giáo dục là mục đích vốn có của pháp luật bảo vệ môi trường Việt Nam, nó bắt nguồn từ bản chất nhân đạo sâu sắc của xã hội ta – xã hội luôn tạo điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Không thể đối lập mục đích trùng phạt và mục đích giáo dục của các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Phương châm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta là luôn kết hợp trừng phạt và giáo dục. Mục đích giáo dục của các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường phải được cụ thể hóa trong quy định pháp luật về vấn đề này cũng như khi được áp dụng trên thực tế.
Hơn nữa, VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường có một đặc thù là thường gây ra hậu quả lớn, khó khắc phục vì vậy giáo dục với ý nghĩa giúp phòng ngừa VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường lại càng cần thiết.
- Đảm bảo ngăn chặn có hiệu quả VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường thường gây ra hậu quả lớn, hơn nữa lại khó có thể thấy được ngay tại thời điểm phát hiện vi phạm, nên việc ngăn chặn hiệu quả VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường có ý nghĩa vô cùng quan trọng, tránh được những thiệt hại đáng tiếc có thể xảy ra. Chính vì vậy khi xây dựng các quy định pháp luật về các biện pháp xử phạt VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, các nhà làm luật phải nghiên cứu thực tiễn để có thể đưa ra các quy định phù hợp, có tác dụng đối với các VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
- Đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất giữa các văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường.
Nguồn của pháp luật bảo vệ môi trường bao gồm một hệ thống những văn bản pháp luật do nhiều cơ quan có thẩm quyền ban hành. Nhiều quy phạm pháp luật môi trường được ban hà