Hợp đồng, còn được gọi là “khế ước” chiếm vị trí quan trọng trong lịch sử nhân loại. Bất kỳ ai nếu muốn sinh tồn trong xã hội hiện đại đều không thể không dùng hình thức hợp đồng để gây lòng tin hoặc đặt lòng tin với người khác và tiến hành giao dịch. Trong cuộc đời của những con người hiện đại không ngừng thành lập hợp đồng và thực hiện hợp đồng giống như một chu kỳ tuần hoàn không dứt. Bởi vậy nên, đã có người gọi xã hội nay là “xã hội khế ước” và gọi nền kinh tế hiện đại là “kinh tế khế ước”. Dưới điều kiện nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động giao dịch đều tiến hành thông qua giao kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng các chủ thể căn cứ vào nhu cầu của mình mà giao kết với người khác, chuyển nhượng hàng hóa hoặc dịch vụ để thỏa mãn nhu cầu của mình. Dưới góc độ sự phát triển kinh tế và xã hội, hợp đồng là cầu nối đã làm cho những tài nguyên xã hội được phân phối một cách tối ưu, đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế và xã hội. Vô số các giao dịch đã cấu thành một thị trường hoàn chỉnh. Vì vậy, quan hệ hợp đồng là quan hệ pháp luật cơ bản của hợp đồng. Chế định hợp đồng cũng đã trở thành quy phạm pháp luật tối cơ bản mà điều chỉnh quan hệ kinh tế thị trường. Do đó, việc tìm hiểu các điều kiện để một hợp đồng dân sự có hiệu lực là vấn đề quan trọng và có ý nghĩa lớn trên thực tế.
23 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2952 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ BÀI SỐ : 05
Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành
A./LỜI MỞ ĐẦU
Hợp đồng, còn được gọi là “khế ước” chiếm vị trí quan trọng trong lịch sử nhân loại. Bất kỳ ai nếu muốn sinh tồn trong xã hội hiện đại đều không thể không dùng hình thức hợp đồng để gây lòng tin hoặc đặt lòng tin với người khác và tiến hành giao dịch. Trong cuộc đời của những con người hiện đại không ngừng thành lập hợp đồng và thực hiện hợp đồng giống như một chu kỳ tuần hoàn không dứt. Bởi vậy nên, đã có người gọi xã hội nay là “xã hội khế ước” và gọi nền kinh tế hiện đại là “kinh tế khế ước”. Dưới điều kiện nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động giao dịch đều tiến hành thông qua giao kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng các chủ thể căn cứ vào nhu cầu của mình mà giao kết với người khác, chuyển nhượng hàng hóa hoặc dịch vụ để thỏa mãn nhu cầu của mình. Dưới góc độ sự phát triển kinh tế và xã hội, hợp đồng là cầu nối đã làm cho những tài nguyên xã hội được phân phối một cách tối ưu, đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế và xã hội. Vô số các giao dịch đã cấu thành một thị trường hoàn chỉnh. Vì vậy, quan hệ hợp đồng là quan hệ pháp luật cơ bản của hợp đồng. Chế định hợp đồng cũng đã trở thành quy phạm pháp luật tối cơ bản mà điều chỉnh quan hệ kinh tế thị trường. Do đó, việc tìm hiểu các điều kiện để một hợp đồng dân sự có hiệu lực là vấn đề quan trọng và có ý nghĩa lớn trên thực tế.
B.NỘI DUNG
I./ Khái quát chung về hợp đồng dân sự
1./ Khái niệm
Điều 388 Bộ luật dân sự (BLDS) quy định: “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.
Qua khái niệm về hợp đồng dân sự, có thể thấy để hình thành hợp đồng dân sự phải có những yếu tố cơ bản sau đây:
Hợp đồng dân sự phải có sự tham gia của các bên: Hợp đồng là sự thỏa thuận của các chủ thể liên quan đến xác lập các quyền, nghĩa vụ nhằm đem lại lợi ích cho mình hoặc đem lại lợi ích cho người khác. Nếu như hành vi pháp lý đơn phương chỉ là sự tuyên bố ý chí công khai của một phía chủ thể thì khi tham gia quan hệ hợp đồng, ít nhất phải có hai chủ thể đứng về hai phía của hợp đồng. Ngoài ra trong một số trường hợp, việc tham gia quan hệ hợp đồng có thể có sự xuất hiện của bên thứ ba (hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba).
Hợp đồng dân sự được hình thành dựa trên cơ sở thỏa thuận và thống nhất ý chí giữa các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng đó. Thỏa thuận và thống nhất ý chí là yếu tố cốt lõi để hình thành quan hệ hợp đồng giữa các chủ thể, thiếu sự thỏa thuận này thì hợp đồng sẽ không có hiệu lực.
Hậu quả pháp lý của sự thỏa thuận giữa các bên trong quan hệ hợp đồng là nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự.
Sự thỏa thuận giữa các bên không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như giả tạo, nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa.
Định nghĩa trên đây của BLDS 2005 được xem là hợp lý và thuyết phục nhất ở Việt Nam từ trước đến nay vì có nội dung ngắn gọn, chuẩn xác; vừa mang tính khái quát cao, phản ánh đúng bản chất của thuật ngữ ‘hợp đồng’, vừa thể hiện rõ vai trò của hợp đồng như là một căn cứ pháp lý (phổ biến) làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ (dân sự) của các bên.
2/.Bản chất của hợp đồng
Như đã thể hiện trong khái niệm hợp đồng, bản chất của hợp đồng được tạo nên bởi hai yếu tố pháp lý là sự thỏa thuận và sự ràng buộc pháp lý giữa các bên.
a./Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên
Hợp đồng là một giao dịch có nhiều bên tham gia để tạo lập sự ràng buộc pháp lý với nhau dựa trên sự cam kết, thỏa thuận. Bởi vậy, mặc dù trong luật thực định và trong lý luận có nhiều định nghĩa khác nhau về hợp đồng, nhưng chung quy lại, tất cả các định nghĩa đó đều thể hiện một quan điểm nhất quán là luôn xem sự thỏa thuận giữa các bên là một trong các yếu tố thể hiện bản chất của hợp đồng. Yếu tố thỏa thuận vừa là nguồn gốc, vừa là cơ sở nền tảng tạo nên hợp đồng. Không có hợp đồng nào mà không do thỏa thuận và không có hợp đồng nào được tạo ra mà thiếu yếu tố thỏa thuận. Bởi vậy, có ý kiến cho rằng :“yếu tố thỏa thuận giữa các chủ thể là tiền đề của hợp đồng và được xem là tuyệt đối”. Theo nghĩa thông thường, thỏa thuận là “nhất trí, đồng ý với nhau sau khi bàn bạc”.
Trên phương diện pháp lý, để có thể hình thành nên hợp đồng, pháp luật quy định các bên tham gia cùng thương lượng, trao đổi, bàn bạc để đi đến sự nhất trí chung, dựa trên sự đề nghị của một bên và sự chấp nhận hoàn toàn của bên kia. Nhưng sự thỏa thuận với tư cách là một yếu tố thể hiện bản chất của hợp đồng còn có ý nghĩa tích cực hơn so với các khái niệm thương lượng, bàn bạc, đồng ý. Nếu khái niệm “thương lượng” hay “bàn bạc” dùng để chỉ quá trình thương thuyết, giao dịch giữa các bên và khái niệm “đồng ý” dùng để chỉ kết quả của quá trình đó, thì khái niệm “thỏa thuận” ở đây được hiểu là toàn bộ quá trình, từ sự thương lượng đến sự thống nhất ý chí. Đó là quá trình dung hòa giữa ý chí các bên, đi từ sự đồng ý của từng bên đến sự gặp gỡ ý chí của hai hay nhiều bên khác nhau, nhằm đạt được sự nhất trí chung hay sự đồng thuận giữa hai hay nhiều bên đó.
Xét về nội dung, sự thỏa thuận không chỉ là sự nhất trí, đồng ý chung chung mà còn phải có nội dung cụ thể, mục đích rõ ràng, tức phải xác định được bản chất của quan hệ hợp đồng mà các bên muốn xác lập. Theo đó, các bên phải thống nhất về mục đích của hợp đồng là chuyển giao một vật hoặc làm một vật gì cụ thể. Nếu một bên thể hiện ý chí muốn bán một ngôi nhà mà bên kia chỉ muốn thuê ngôi nhà đó thì không thể có sự gặp gỡ ý chí. Hơn nữa, nếu các bên đồng ý cùng nhau mua bán một ngôi nhà, nhưng không nhất trí được với nhau về giá bán, thời điểm giao kết hợp đồng, thời hạn giao nhà, trả tiền thì hợp đồng chưa chắc được thiết lập.
Tóm lại, thông qua sự thỏa thuận các bên đã làm nên hợp đồng, tức làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong hợp đồng. Vì vậy, thỏa thuận vừa là tiền đề làm nên hợp đồng, vừa là yếu tố cơ bản cho sự tồn tại hợp đồng.
b. Hợp đồng là thỏa thuận để tạo ra sự ràng buộc pháp lý giữa các bên
một sự thỏa thuận không phải là hợp đồng nếu không tạo nên hiệu lực ràng buộc giữa các bên. Bởi vậy, dấu hiệu thứ hai thể hiện bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên phải nhằm tạo ra một sự ràng buộc pháp lý, tức là sáng tạo ra các quyền và nghĩa vụ mới ngoài những quyền và nghĩa vụ luật định hoặc làm thay đổi hay chấm dứt các quyền, nghĩa vụ ấy.
Một sự thỏa thuận mang tính chất xã giao hoặc một lời hứa danh dự, như lời hứa sẽ tặng quà nhân ngày sinh nhật, hay thỏa thuận sẽ đến dự tiệc ở nhà bạn, hay cùng đi ăn tối với người khác cũng không phải là hợp đồng, vì các thỏa thuận này không tạo ra sự ràng buộc quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên. Sự vi phạm lời hứa danh dự hoặc các cam kết mang tính chất xã giao như trên có thể làm cho người thất hứa bị mất uy tín, bị dư luận chê trách, nhưng không làm phát sinh trách nhiệm pháp lý và không thể bị áp dụng chế tài dân sự như trường hợp vi phạm hợp đồng.
Tóm lại, mọi hợp đồng đều là sự thỏa thuận giữa các bên, nhưng không phải sự thỏa thuận nào của các bên cũng là hợp đồng. Chỉ những thỏa thuận tạo ra một sự ràng buộc pháp lý mới được coi là hợp đồng. Bởi vậy, “sự thỏa thuận” và “sự tạo ra một ràng buộc pháp lý” là hai dấu hiệu cơ bản tạo nên bản chất của hợp đồng.
II. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nan hiện hành
1.Lý luận chung về hiệu lực hợp đồng dân sự
Nói về hiệu lực của hợp đồng, điều 1134 BLDS Pháp quy định rằng: “Hợp đồng được thiết lập hợp pháp có hiệu lực như pháp luật cho các bên giao kết ước”.
Hiệu lực hợp đồng, còn được gọi là hiệu lực pháp luật của hợp đồng, là để chỉ sự cưỡng chế của pháp luật đối với các bên đương sự tham gia hợp đồng và thậm chí cả bên thứ ba, theo quy định của pháp luật về vấn đề này có một số điểm cần lưu ý sau:
- Hiệu lực hợp đồng nhìn từ góc độ nguồn luật, là do pháp luật hợp đồng trao cho hợp đồng, đồng thời cũng là sự bảo đảm khả năng cưỡng chế của Nhà nước. Khi người vay nợ vi phạm hợp đồng, pháp luật căn cứ vào đơn yêu cầu của bên không vi phạm, cưỡng chế bên vi phạm hợp đồng thực hiện hợp đồng, hoặc phải chịu những hậu quả bất lợi khác. Như vậy có thể thấy rằng, hiệu lực hợp đồng không giống như sự ràng buộc của tình hữu nghị, hay ràng buộc của đạo đức.
- Hiệu lực hợp đồng nhìn từ góc độ thể hiện của ý chí, đó là biểu hiện của sự thừa nhận của pháp luật đối với sự thống nhất về ý chí của các bên đương sự. Đồng thời cũng là căn cứ và ủng hộ các bên đương sự nhằm thỏa mãn yêu cầu muốn “ tìm kiếm” pháp luật. Nó cũng là kết quả của việc đưa ý chí của bản thân phù hợp với ý chí Nhà nước. Khi ý chí của các bên đương sự thống nhất hữu cơ với ý chí của Nhà nước, thì sự thể hiện cao nhất đó chính là thể hiện của đương sự. VD: Cho phép đương sự căn cứ theo ý muốn của bản thân hạn chế phạm vi hiệu lực của hợp đồng, cho phép đương sự tự do lựa chọn cách giao hàng, cho phép đương sụ sửa đổi hợp đồng hoặc chuyển nhượng nghĩa vụ quyền lợi... Tất cả những điều này thể hiện rõ hiệu lực hợp đồng chỉ là sự cụ thể hóa hiệu lực pháp luật, chứ không phải bản thân hiệu lực pháp luật
-Hiệu lực hợp đồng với tư cách là biểu hiện của pháp luật, đánh giá sự nhất trí của các bên đương sự , là một vấn đề hết sức phức tạp: Khi pháp luật khẳng định sự đánh giá vừa ý đối với các bên đương sự thì sẽ phát sinh hiệu quả pháp luật như đương sự mong muốn, các bên đương sự sẽ được hưởng quyền lợi, quyền lợi mà điều khoản hợp đồng ràng buộc, còn khi pháp luật phủ định sự vừa ý đối với các bên đương sự thì sẽ nảy sinh hậu quả không có hiệu lực của hợp đồng.
-Hiệu lực hợp đồng, tức là khả năng cưỡng chế của pháp luật đối với các đương sự có sự ràng buộc, thậm chí là bên thứ ba trong hợp đồng. Có thể chia thành sự ràng buộc giữa các bên đương sự và sự ràng buộc đối với bên thứ ba.
Sự ràng buộc của hợp đồng đối với các bên đương sự bao gồm:
+Nghĩa vụ thực hiện hợp đồng của các đương sự
+Bên vi phạm hợp đồng phải chịu trách nhiệm vi phạm theo hợp đồng
+Các bên đương sự không được tự ý thay đổi hoặc hủy hợp đồng, không thể tự ý chuyển nhượng quyền và nghĩa vụ của hợp đồng
+Đương sự có quyền lợi yêu cầu, trao đổi, quyền xử lý nợ
Hợp đông có hiệu lực đối với bên thứ ba, trong những trường hợp thông thường nó được thể hiện là bất kỳ một bên thứ ba nào cũng không được xâm hại quyền trong hợp đồng. Khi người có quyền trong hợp đồng tự hủy bỏ quyền hoặc ủy quyền cho bên thứ ba khi đó mới xác lập hiệu lực thực hiện hợp đồng cho bên thứ ba hoặc do bên thứ ba thực hiện.
2./Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành
Hợp đồng dân sự là một loại giao dịch dân sự nên muốn có hiệu lực, hợp đồng dân sự phải đáp ứng được các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự đã được quy định tại điều 122 BLDS năm 2005. Theo quy định trên, thì các hợp đồng dân sự được coi là có hiệu lực khi đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
-Điều kiện về chủ thể
-Điều kiện về mục đích và nội dung
-Điều kiện về ý chí của chủ thể
-Điều kiện về hình thức
a./Người tham gia giao dịch trong hợp đồng dân sự có năng lực hành vi dân sự
Chủ thể của hợp đồng là những người tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng, có quyền, nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng và phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đó. Để tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng, các hệ thống pháp luật đều quy định chủ thể phải có năng lực chủ thể nhất định. Theo đó, yêu cầu chủ thể tham gia hợp đồng “có năng lực hành vi dân sự” là một trong những điều kiện tiên quyết để hợp đồng có hiệu lực. Chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng bao gồm các cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, mặt khác năng lực hành vi dân sự để tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng của các chủ thể khác nhau là không giống nhau
*Đối với cá nhân: Tư cách chủ thể của cá nhân khi tham gia hợp đồng phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi dân sự của họ
-Đối với người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ: Đó là những người từ đủ 18 tuổi trở lên, không bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, không bị mất năng lực hành vi dân sự. Người có năng lực hành vi dân sự dầy đủ có toàn quyền trong việc xác lập, thực hiện các hợp đồng dân sự.
-Đối với người có năng lực hành vi dân sự một phần từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi: Khoản 2 điều 20 BLDS năm 2005 quy định: “Trong trường hợp người từ đủ 18 tuổi có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lâp, thực hiện hợp đồng dân sự mà không cần phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác ’’. Như vậy, nếu pháp luật có quy định khác thì giao dịch dân sự của người đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi ( mặc dù người này có tài sản riêng đủ để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ ) phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật.
Ngoài ra, nếu phjaps luật quy định với các giao dịch dân sự liên quan đến người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi (mặc dù có người đại diện) buộc phải được sự đồng ý bằng văn bản của người này thì hợp đồng cũng phải đáp ứng quy định này. Chẳng hạn, khoản 2 điều 109 BLDS năm 2005 quy định: “Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia đình phải được các thành viên từ đủ 15 tuổi trở lên đồng ý; đối với các loại tài sản chung khác phải được đa số thành viên từ đủ 15 tuổi trở lên đồng”.
-Đối với người có năng lực hành vi dân sự một phần từ đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi, người bị tòa án ra quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự: Người từ đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi được xác định là những người mà sự nhận thức và làm chủ hành vi của mình chưa được đầy đủ, do đó họ có thể có những hạn chế nhất định. Vì lẽ đó, trên cơ sở quy định tại điều 20 BLDS, chúng ta thấy rằng người từ đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi khi xác lập, thực hiện hợp đồng dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ các giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.
-Đối với người dưới 6 tuổi, người bị Tòa án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự: Những người này không được xác lập, thực hiện hợp đồng dân sự.
Ngoài ra, khi xem xét đến năng lực hành vi dân sự của cá nhân trong việc tham gia hợp đồng dân sự cũng cần chú ý đến những trường hợp riêng biệt do pháp luật quy định, đó là tham gia hợp đồng dân sự của người giám hộ, người đại diện ( vì lợi ích của người được giám hộ, người được đại diện) phải tuân theo các quy định về giám hộ, về đại diện trong BLDS.
*Đối với pháp nhân:
Pháp nhân là những tổ chức có đủ các điều kiện được qui định tại Điều 84 BLDS 2005. Các pháp nhân là chủ thể đầy đủ của quan hệ pháp luật dân sự có đủ năng lực chủ thể mang tính chuyên biệt, được tham gia xác lập, thực hiện các giao dịch phù hợp với mục đích và phạm vi hoạt động của pháp nhân. Mục đích và phạm vi hoạt động của pháp nhân được thể hiện trong điều lệ, hoặc quyết định thành lập pháp nhân.
Việc tham gia và thực hiện hợp đồng của pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền của pháp nhân đó. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có thể là người đứng đầu pháp nhân đó ( nếu pháp nhân đó là cơ quan nhà nước, đơn vị hành chính sự nghiệp), đối với pháp nhân là các doanh nghiệp thì đại diện theo pháp luật là chủ tịch hội đồng quản trị-chủ tịch hội đồng thành viên hoặc giám đốc, tổng giám đốc tùy thuộc vào quy định trong điều lệ và trong giấy phép đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp đó. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân tham gia giao kết các hợp đồng trong phạm vi thẩm quyền được xác định trổng quy định thành lập pháp nhân hoặc trong điều lệ, nội quy hoạt động của pháp nhân đó. Người đại diện theo ủy quyền của pháp nhân là người được đại diện theo pháp luật của pháp nhân ủy quyền, người này ủy quyền cho pháp nhân để tham gia các hợp đồng dân sự trong phạm vi được ủy quyền.
*Đối với hộ gia đình:
Xuất phát từ việc hộ gia đình là chủ thể hạn chế của chủ thể hạn chế quan hệ pháp luật dân sự nên các hợp đồng dân sự mà các hộ gia đình tham gia phải là những hợp đồng dân sự được phép theo quy định của pháp luật. Hộ gia đình chỉ được tham gia các hợp đồng dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất, đến hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và trong một số lĩnh vực kinh doanh khác theo quy định của pháp luật. Khi tham gia hợp đồng dân sự, chủ hộ (là người đại diện theo pháp luật của hộ gia đình) cóa thể trực tiếp tham gia hoặc có thể ủy quyền cho thành viên khác đã thành niên làm đại diện cho hộ gia đình trong hợp đồng dân sự đó. Hộ gia đình chỉ được tham gia các hợp đồng dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất, đến hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và trong một số lĩnh vực kinh doanh khác theo quy định của pháp luật.
Thông thường, hợp đồng dân sự do chủ hộ hoặc thành viên đã thành viên khác được chủ hộ ủy quyền xác lập, thực hiện vì lợi ích của hộ gia đình sẽ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình tròn hợp đồng dân sự. Tuy nhiên, đối với việc định đoạt tư liệu sản xuất hoặc tài sản chung của hộ gia đình mà có giá trị lớn thì buộc phải có sự đồng ý của các thành viên trong hộ gia đình từ đủ 15 tuổi trở lên, đối với các loại tài sản chung khác phải được sự đồng ý của đa số các thành viên từ đủ 15 tuổi trở lên.
*Đối với tổ hợp tác:
Các hợp đồng dân sự tổ hợp tác tham gia cũng là những hợp đồng bị hạn chế theo quy định của pháp luật. Tổ hợp tác chỉ được tham gia các hợp đồng dân sự liên quan đến các hoạt đọng sản xuất kinh doanh của tổ. Khi tham gia hợp đồng dân sự , tổ trưởng tổ hợp tác là người đại diện theo pháp luật của tổ hợp tác. Ngoài việc trực tiếp đại diện cho tổ hợp tác tham gia hợp đồng dân sự, tổ trưởng tổ hợp tác có thể ủy quyền cho ủy viên thực hiện những công việc cần thiết cho tổ hợp tác. Tuy nhiên, việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất của tổ hợp tác phải được toàn thể tổ viên đồng ý, đối với các loại tài sản khác phải được đa số tổ viên đồng ý.
Nhìn chung, để có thể xác lập, thực hiện các hợp đồng, chủ thể là cá nhân phải có năng lực hành vi dân sự thích ứng với loại giao dịch hoặc loại hợp đồng mà chủ thể đó tham gia. Pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác xác lập, thực hiện hợp đồng thông qua người đại diện hợp pháp, nhưng phải đúng ‘phạm vi đại diện’ và phải phù hợp với giới hạn về ‘lĩnh vực hoạt động’ của các chủ thể.
b. /Mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội.
BLDS 2005 thừa nhận nguyên tắc tự do cam kết, thỏa thuận (Điều 4)
Nhưng để bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích của công cộng, quyền và lợi ích
hợp pháp của người khác, BLDS 2005 cũng qui định một số trường hợp hạn chế quyền tự do của cá cbên trong việc thiết lập hợp đồng. Theo đó, nội dung và mục đích của hợp đồng (giao dịch dân sự) “không được vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội” (Điểm b, khoản 1 Điều 122).
Mục đích của hợp đồng dân sự là những lợi ích vật chất hoặc tinh thần mà các bên mong muốn đạt dược khi xác lập hợp đồng đó. Để đạt được mục đích này, trong hợp đồng dân sự có thể ghi nhận các quyền và nghĩa vụ nhất định. Quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng dân sự có thể do một bên đưa ra, cũng có thể do các bên thỏa thuận. Tuy vậy, trong mọi trường hợp mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Hợp đồng (giao dịch dân sự) “có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu” (Điều 128).
Nội dung của hợp đồng là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể tham gia hợp đồng được thể hiện trong các điều khoản của hợp đồng. Mục đích của của giao dịch dân sự (hay hợp đồng) là “lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó”.
Điều cấm của pháp luật “là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định”. Và đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng”. Khái niệm nội dung của hợp đồng là một khái niệm rất rộng. Thường thì nội dung của hợp đồng gồm các điều khoản, như: đối