Trong bối cảnh Việt Nam đang trong xu hướng đổi mới và hội nhập Quốc tế một cách sâu rộng. Việt Nam đã mở rộng quan hệ ngoại giao với nhiều nước, với nhiều tổ chức quốc tế. Việt Nam đã trở thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Việc hội nhập với quốc tế vừa là cơ hội lớn nhưng cũng đặt ra những là thách thức lớn. Và một trong những thách thức lớn là về sự thay đổi kiến trúc quy hoạch trong cả nước trong đó có sự thay đổi về việc hình thành các khu đô thị mới. Đây là một sự ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của đất nước, thể hiện sự bố trí kiến trúc của đất nước nên việc hình thành khu đô thị mới là điều tất yếu không thể thiếu được đáp ứng nhu cầu phát triển của đô thị. Vinaconex là một trong trong những công ty được mang trọng trách và sứ mệnh tạo nên một kiến trúc đô thị đẹp cho đất nước, từ khi thành lập đến nay đã và đang xây dựng những khu đô thị mang tầm cỡ như: Trung Hòa Nhân Chính; Thảo Điền; Bắc An Khánh… đóng góp cho đất nước cả về mặt kinh tế lẫn xã hội. Thấy được vấn đề về nhu cầu đầu tư khu đô thị mới và những vấn đề còn tồn đọng trong việc tiến hành đầu tư nên em chọn đề tài “Các dự án đầu tư phát triển khu đô thị mới tại tổng công ty XNK & XD Việt Nam (Vinaconex)”.
50 trang |
Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 2130 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các dự án đầu tư phát triển khu đô thị mới tại tổng công ty XNK & XD Việt Nam (Vinaconex), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh Việt Nam đang trong xu hướng đổi mới và hội nhập Quốc tế một cách sâu rộng. Việt Nam đã mở rộng quan hệ ngoại giao với nhiều nước, với nhiều tổ chức quốc tế... Việt Nam đã trở thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)... Việc hội nhập với quốc tế vừa là cơ hội lớn nhưng cũng đặt ra những là thách thức lớn. Và một trong những thách thức lớn là về sự thay đổi kiến trúc quy hoạch trong cả nước trong đó có sự thay đổi về việc hình thành các khu đô thị mới. Đây là một sự ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của đất nước, thể hiện sự bố trí kiến trúc của đất nước nên việc hình thành khu đô thị mới là điều tất yếu không thể thiếu được đáp ứng nhu cầu phát triển của đô thị. Vinaconex là một trong trong những công ty được mang trọng trách và sứ mệnh tạo nên một kiến trúc đô thị đẹp cho đất nước, từ khi thành lập đến nay đã và đang xây dựng những khu đô thị mang tầm cỡ như: Trung Hòa Nhân Chính; Thảo Điền; Bắc An Khánh… đóng góp cho đất nước cả về mặt kinh tế lẫn xã hội. Thấy được vấn đề về nhu cầu đầu tư khu đô thị mới và những vấn đề còn tồn đọng trong việc tiến hành đầu tư nên em chọn đề tài “Các dự án đầu tư phát triển khu đô thị mới tại tổng công ty XNK & XD Việt Nam (Vinaconex)”. Trong đề tài có gì sai sót mong cô đóng góp ý kiến.
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN KHU ĐÔ THỊ MỚI TẠI TỔNG CÔNG TY XNK & XD VIỆT NAM (VINACONEX)
1.1. VAI TRÒ CỦA CÁC TỔNG CÔNG XÂY DỰNG VIỆT NAM VỚI HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN KHU ĐÔ THỊ MỚI.
1.1.1 Vai trò của các tổng công ty xây dựng đối với hoạt động đầy tư xây dựng khu đô thị mới tại Việt Nam.
Xây dựng là một ngành không thể thiếu được trong sự phát triển kinh tế, các công ty xây dựng đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho xã hội đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội. Như ta đã biết ngày xưa khi vừa thoát khỏi chiến tranh bước vào xây dựng đất nước thì việc nhà ở là quan trọng cho các thành viên trong xã hội vì thế nhà nước chủ trương xây các căn hộ tập thể cho công nhân viên chức ở nhưng đến xu hướng hiện nay thì các căn hộ tập thể bằng những chung cư cao tầng, các khu đô thị mới thoáng hơn, sang trọng hơn đáp ứng nhu cầu về nhà ở cho xã hội, như ta đã thấy những năm vừa qua vô số những công trình dự án khu đô thị mới được hình thành như các khu đô thị Linh Đàm, Khu đô thị Văn Quán, khu đô thị Trung Hòa Nhân Chính, Làng Thăng Long quốc tế, Khu đô thị Định Công… góp phần phát triển đất nước đáp ứng một phần nào đó nhu cầu của người dân.
Các tổng công ty xây dựng được thành lập từ năm 90 trở về trước đa số đều thuộc sự quản lý của nhà nước và sau chuyển đổi sang cơ chế thị trường nhà nước đã giảm bớt một phần nắm giữ bằng cách cổ phần hóa các tổng công ty giảm xuống nắm giữ 51% số cổ phần, trong đó Vinaconex cũng là một trong những thành viên trực thuộc sự quản lý của nhà nước và các tổng công ty xây dựng với sứ mệnh mà nhà nước trao cho trọng trách kiến thiết và xây dựng đất nước có những nhiệm vụ như sau:
Tiếp nhận và thực hiện quyền chủ sở hữu vốn nhà nước và với vai trò sử dụng vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp tạo ra hiệu quả tối đa (đối với các dự án sử dụng vốn nhà nước), tổ chức vốn huy động trong nước và quốc tế thể hiện năng lực của nhà đầu tư cho nền kinh tế, thay cho việc chỉ trông chờ vào vốn ngân sách nhà nước, hoặc chỉ trông mong vào các dự án sẵn có của nhà nước.
Thực hiện kinh đầu tư, kinh doanh một cách có hiệu quả vào cách ngành nghề lĩnh vực đặc biết là đối với ngành xây dựng, sử dụng vốn có hiệu quả đảm bảo cho nền kinh tế phát triển.
Và mục tiêu của các tổng công ty xây dựng:
Làm tốt vai trò của doanh nghiệp được thể hiện trong việc tiến hành đầu tư, thay đổi phương thức lãnh đạo phù hợp. Chú trọng đến việc phát triển bền vững gia tăng giá trị của công ty. Chuyển đổi cơ cấu đầu tư sao cho phù hợp với thị trường và phù hợp với năng lực của công ty.
Thực hiện vai trò đầu tư có chiến lực hiệu quả huy động và tập trung nguồn lực đầu tư vào các lĩnh vực then chốt như hiện nay là đầu tư vào các khu đô thị mới để đảm bảo cho việc quy hoạch phân bố lại dân cư cho hợp lý. Từ đó tạo giá trị bền vững động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế tăng năng lực cạnh tranh với các tập đoàn xây dựng trên thế giới, liên kết hợp tác với các công ty trong và ngoài nước để học hỏi kinh nghiệp xây dựng giá trị thương hiệu Việt ngày càng nâng cao.
Xây dựng các tổng công ty xây dựng thành các tập đoàn riêng biệt theo tiêu chuẩn quốc tế, có đội ngũ lao động tiên tiến, áp dụng khoa học kỹ thuật cao, luôn đi tiên phong về sự thay đổi sáng tạo.
Và vai trò của các công ty xây dựng đối việc đầu tư vào khu đô thị mới như sau:
Hiện cả nước có 288 khu đô thị mới đã, đang được xây dựng. Riêng trên địa bàn Hà Nội, con số này là 40 với khoảng 6 triệu m2 vuông nhà ở xây mới (gồm hơn 400 chung cư cao tầng, còn lại là thấp tầng như: biệt thự, nhà vườn, chia lô, liên kế...). Đây là con số tại thủ đô nói riêng, cả nước nói chung đã phấn, kể từ "cái mốc" Linh Đàm - đô thị mới đầu tiên được khởi công xây dựng.
Khu dịch vụ tổng hợp và nhà ở hồ Linh Đàm - đô thị mới đầu tiên của Thủ đô
Chặng đường hơn một thập kỷ phát triển các khu đô thị mới của Việt Nam đã kinh qua tất thảy các cơn bĩ cực, thái lai, nhận đủ lỗ, lãi, khen, chê, thành công, thất bại. Đây là một khu đô thị đầu tiên ra đời với quy mô lớn thể hiện sự sáng tạo của các công ty xây dựng, đây là sự khởi xướng cho những công trình đô thị mới về sau, tiếp nối sau đó sẽ là những công trình vĩ đại hơn, phá vỡ lối sống cũng của người dân: Đó là dự án xây dựng khu dịch vụ tổng hợp và nhà ở hồ Linh Đàm của công ty Phát triển nhà và đô thị (nay là Tổng Công ty Đầu tư phát triển nhà và đô thị HUD). Ngày 15/6/1997 chung cư 9 tầng đầu tiên mang ký hiệu CT4 thuộc dự án thành phần khu đô thị mới Bắc Linh Đàm được khởi công.
Thế nhưng, chỉ sang năm 2000, rồi 2001, 2002 và các năm sau đó - đột nhiên những dự án khu đô thị mới thi nhau hình thành như "nấm mọc sau mưa". Không chỉ dừng lại ở Linh Đàm, Mỹ Đình, Xuân Phương (Hà Nội), HUD đã "mang chuông đi đánh xứ người": Văn Quán - Yên Phúc (Hà Tây); Long Thọ - Phước An, Biên Hoà (Đồng Nai); Chánh Mỹ, Tân An (Bình Dương), Hiệp Bình Phước, Đông Tăng Long (TP.HCM)...
Khu đô thị mới Mễ Trì Hạ khởi công năm 2003 ven trục đường Phạm Hùng, Hà Nội. Ảnh: Hoàng Huy
Nhiều chủ đầu tư khác cũng "trăm hoa đua nở": công ty Tu tạo và Phát triển nhà Hà Nội xây Mễ Trì Hạ, Tổng công ty Xây dựng Hà Nội triển khai Làng Quốc tế Thăng Long, Vinaconex xây Trung Hòa - Nhân Chính, công ty Việt Hưng bắt tay vào khu đô thị, thương mại và du lịch Văn Giang... Đến nay, hàng trăm khu mới đã ra đời với đủ loại: như khu đô thị dành cho người có thu nhập, dành cho người có thu nhập cao, khu đô thị dành cho tầng lớp đại gia…
Nói về hiệu quả các dự án này, Bộ trưởng Quân cho rằng không nên chỉ đánh giá bằng cách đếm số mét vuông sàn nhà xây mới đã hoàn thành, mà quan trọng nhất là các đô thị mới đã góp phần tạo nên một nếp nghĩ mới, không chỉ của người dân mà của nhiều cơ quan công quyền, lãnh đạo: "Nhiều người nghĩ rằng, tạo ra những khu đô thị hoành tráng như ngày hôm nay là do Nhà nước làm”, do sự đóng góp không nhỏ của các tổng công ty xây dựng.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu 95/125 khu đô thị mới đã hoàn thành, đưa vào sử dụng, Vụ Kiến trúc - Quy hoạch (Bộ Xây dựng) nhận định: Các dự án hình thành về sau, có thể tiện nghi hơn về không gian căn hộ, về trang thiết bị nội ngoại thất... so với các dự án đi trước nhưng lại kém hơn về không gian dành cho cộng đồng, độ thân thiện với môi trường, cảnh quan.
Các tổng công ty đã đóng góp không ít công sức để xây dựng nên những khu đô thị như vậy giải quyết chỗ ở cho người dân, bố trí một cách hợp lý vừa tạo ra cảnh quan cuộc sống vừa tiết kiệm diện tích đất xây dựng, phù hợp với xu thế phát triển của kinh tế thế giới, sự ra đời của các khu đô thị đã giải quyết cho hơn 1,5 triệu người có nhà ở.
Như khu đô thị Trung Hòa Nhân Chính của tổng công ty Vinaconex làm chủ dự án đầu tư. Dự án đã giải quyết được hơn 15.000 chỗ ở và làm việc. Và cũng không dừng ở đó Tổng công ty còn thực hiện nhiều dự án khu đô thị mới với quy mô lớn hơn đạt cả lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội. Công ty đã xây dựng các khu nhà ở cho người có thu nhập thấp giảm một bớt gánh nặng cho nhà nước để đảm bảo cho nhu cầu sinh hoạt của người lao động có thu nhập thấp, đây là một sự đóng góp vô cùng to lớn của công ty đối với nhà nước.
1.1.2 Sự cần thiết phải đầu tư
Nhu cầu về nhà ở tăng mạnh: theo số liệu của Cục quản lý nhà (bộ xây dựng), mỗi năm diện tích nhà ở tăng thêm khoảng 30 triệu m2, riêng trong năm 2008 con số này là 50 triệu m2. Tuy nhiên, thị trường nhà ở chỉ chú trọng vào nhóm nhà ở cao cấp, chưa đáp ứng được nhu cầu đang có mức thu nhập thấp, trong khu nhu cầu nhà ở của người dân ngày càng tăng. Chỉ tính riêng khối sinh viên, trong khoảng 600 trường đại học và cao đẳng, dự kiến đến năm 2015. tổng số sinh viên có thể lên đến con số gần 3 triệu. Dự kiến tổng vốn đầu te để giải quyết nhà ở là 21000 tỷ đồng.về công nhân lao động trong 194 khu công nghiệp (KCN)được thành lập, và hiện có khoảng 1 triệu lao động trực tiếo và 1.5 triệu lao động gián tiếp. Trong số đó khoảng 20% có nhà ở, 2% được trọ ở nhà họ hàng. Trên 30% các hộ gia đình có nhà dưới 36 m2.
Nhu cầu về các nhà ở cao cấp cũng tăng: mức sống xã hội ngày càng tăng thì việc chi trả cho những căn nhà có giá trị không thành vẫn đề đối với xã hội, những căn nhà được các dự án khi vừa khởi công đã thu hút đông đảo nhiều nhà đầu tư sẵn sàng đặt tiền mua, ta biết rằng nhu cầu con người thì ngày càng tăng, dân số thì ngày càng tăng với tốc độ tăng hơn 1 triệu người/ năm mà diện tích đất thì không thể nở ra trong khi đó kiến trúc của những ngôi nhà, những khu tập thể trước thì ngày càng xuống cấp vì thế việc hình thành và phát triển các khu đô thị mới nhằm đáp ứng về ở, nhu cầu thẩm mỹ, mức sống của người dân là tất yếu.
Phát triển nhà ở theo kiểu khu đô thị mới có ý nghĩa là đảm bảo sự đồng bộ về kiến trúc – quy hoạch, về kết cấu hạ tầng kỹ thuật, xã hội đảm bảo tính đồng bộ và hiện đại của khu đô thị mới. Huy động được các nguồn vốn của phát triển nhà ở như vốn đầu tư cùa nhà nước, vốn tự có của doanh nghiệp, vốn của cán bộ công nhân viên và nhân dân đóng góp. Đây là mô hình đang được áp dụng rộng rãi chủ yếu ở các thành phố lớn trong nước và thể hiện một xu thế vượt trội so với các mô hình trước đây, việc áp hình thức đầu tư khu đô thị mới này ngoài sự nỗ lực chủ quan từ phía cơ quan quản lý nhà nước quan trọng hơn là phản ánh đúng nhu cầu khách quan trong vấn đề nhà ở tại các thành phố lớn.
Trước khi đi vào nghiên cứu chi tiết ta cần hiểu thế nào là đầu tư phát triển khu đô thị mới hay nói cách khác thế nào thì được gọi là đầu tư một dự án nhà ở?
“Dự án đầu tư phát triển khu đô thị mới là các dự án đầu tư xây dựng nhà ở, nhằm tạo ra quỹ nhà ở, các khu vực đồng bộ về hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội the quy hoạch chi tiết được các cấp có thẩm quyền phê duyệt (trong đó bao gồm cả văn phòng cho thuê).” (nghị định 71/2001/NĐ - CP).
Do đó việc đầu tư nhà theo khu đô thị mới sẽ khác với những mô hình trước đây như:
Xây dựng để cung cấp cho những đối tượng có nhu cầu, và góp phần dãn khu dân cư tập trung ở trung tâm thành phố, bố trí một cách phân bổ hợp lý mật độ dân cư.
Mọi hoạt động xây dựng đều được tiến hành một cách quy hoạch tổng thể và chi tiết. Vì các khu đô thị này được thiết kế theo một kiến trúc khép kín.
Các khu đô thị bắt buộc phải có cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội đồng bộ phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của người dân.
Từ đó ta có thể thấy:
Hầu hết các dự án tiến hành xây dựng nhà hiện này đều phải tiến hành theo kiểu xây dựng thành một quy mô khu đô thị mới.
Có hai loại hình nhà ở phổ biến trong các khu đô thị mới là chung cư cao tầng và nhà biệt thự. Trong đề án nghiên cứu về tổng công ty nói về khu đô thị mới bao gồm cả hai loại này nên vấn đề được tôi đề cập ở cả hai loại.
Dự án chỉ được coi là hoàn hảo nếu đảm bảo các yếu tố về hạ tầng kỹ thuật và xã hội do đó nguồn vốn đầu tư không chỉ là chủ đầu tư.
Những đặc điểm trên được trình bày chi tiết dưới đây:
1.1.2.1 Hướng đầu tư phát triển nhà ở các khu đô thị mới:
Việc cải tạo nâng cấp diện tích nhà ở hiện có là việc thường xuyên và cần thiết nhằm đảm bảo chất lượng cho quỹ nhà tuy nhiên nó không đáp ứng được nhu cầu tăng thêm hàng ngày, hàng giờ về nhà ở do quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng. Do vậy việc mở rộng không gian hành chính ở các thành phố lớn đặc biệt như Hà Nội, Thành Phố Hồ Chí Minh,… cùng với việc hình thành những khu đô thị mới thu hút sự tập trung dân cư không những trong nội thành mà còn cả dân nhập cư mới từ ngoại thành là tất yếu.
Sự ra đời của các khu đô thị giải quyết được các vấn đề sau:
o Dãn dân trong khu vực trung tâm, cải thiện điều kiện giao thông, sinh hoạt, môi trường tại đây.
o Có điều kiện thiết lập đồng bộ về hạ tầng xã hội và hạ tầng kỹ thuật trong xây dựng phát triển nhà nhằm đạt mục đích phục vụ sinh hoạt vật chất và tinh thần của cư dân đô thị ngày càng cao.
o Tạo hướng mở, giải quyết nhu cầu nhà ở trong tương lai.
Ta có thể thấy như ở Hà nội đã xác định được cho mình định hướng tổ chức không gian trong những năm sau: ngoài khu vực hạn chế phát triển thì không gian sẽ được mở rộng theo hai hướng:
Phát triển và mở rộng theo phía hữu ngạn sông Hồng: hướng này bao gồm các quận Tây Hồ, Cầu Giấy, và Thanh Trì tại đây là những khu vực Nam Quận Hai Bà Trưng, huyện Từ Liêm và Thanh Trì. Hiện tại đây là những khu vực có tốc độ đô thị hóa mạnh với 2.271,3 ha xây dựng. Khu đô thị mới mở rộng phía hữu ngạn sông Hồng được phân ra.
o Khu vực Tây Bắc Hồ (một phần nằm trong quận Tây Hồ và một phần nằm trong phía Nam Thăng Long): định hướng khu đô thị mới hiện nay xây dựng đồng bộ phát triển theo các dự án.
o Khu vực Tây Nam Hồ Tây (nằm trong khu vực phía Nam đường Minh Khai) đẩy nhanh đô thị hóa, xây dựng mới khu cây xanh và khu đầu mới kỹ thuật.
o Khu Thanh Trì – Từ Liêm (thuộc quận Thanh Xuân) phát triển trung tâm đô thị chuyên ngành, nghỉ dưỡng…
o Khu Từ Liêm: khu đô thị mới hiện đại, công nghiệp và dân cư.
Khu vực phát triển xây dựng phía Bắc sông Hồng: khu vực đã có khoảng 246,6 ngàn người (cả dân đô thị và nông thôn dự kiến năm 2010 là 1000 ngàn người với 12.820ha).
Như vậy việc mở rộng không gian đô thị, phát triển những khu đô thị mới đã giải quyết được nhu cầu về nhà ở của dân cư đô thị trước mắt và trong lâu dài.
1.1.2.2 Đầu tư khu đô thị mới theo dự án và sự đồng bộ về kiến trúc, quy hoạch, về kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội.
Khắc phục những tồn tại của những mô hình trước là hầu hết thiếu đồng bộ trong kiến trúc, quy hoạch, kết cấu hạ tầng và xã hội dẫn đến những bất tiện trong sinh hoạt và làm việc. Điều đó đòi hỏi mỗi khu đô thị phải có sự phù hợp môi trường xung quanh nó về kiến trúc, quy mô, ngược lại môi trường xung quanh hay cụ thể hơn là hạ tầng xã hội và kỹ thuật phải đáp ứng được những nhu cầu thiết yếu và ngày càng nâng cao của mọi cư dân trong mỗi căn nhà như đi lại, học hành, ăn uống, vui chơi, giải trí…
Nhận thấy việc phát triển các khu đô thị là một trong những định hướng của Việt Nam nên tổng công ty Vinaconex đã sáng suốt chuyển hướng chủ yếu sang việc đầu tư khu đô thị mới. Mặc dù còn nhiều khó khăn vì những dự án về khu đô thị đòi hỏi quy mô vốn lớn nhưng công ty đã bước đầu vượt qua những khó khăn và bắt nhịp với sự chuyển mình của nền kinh tế Việt Nam.
1.2. GIỚI THIỆU VỀ TCT.
1.2.1 Vài nét về Tổng công ty CP VINACONEX
Quá trình thành lập và phát triển:
Sinh ra trong thời kỳ đổi mới và dưới ánh sáng đường lối đổi mới của đảng, Tổng công ty cổ phần xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam- VINACONEX không ngừng phát triển cùng với sự phát triển kỳ diệu của đất nước. Đến nay, VINACONEX đã trở thành một trong những công ty đa doanh vững mạnh hàng đầu của ngành xây dựng Việt Nam, đã khẳng định được năng lực, uy tín, vị thế trong trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh quyết liệt.
Quá trình hoạt động và trưởng thành gần 20 năm qua của tổng công ty là quá trình phát triển đi lên của một doanh nghiệp nhà nước từ xuất phát điểm là một đơn vị rất nhỏ bé không được cấp vốn, không có tài sản, với hoàn cảnh khách quan và chủ quan đầy khó khăn phức tạp. Trong một thời gian ngắn từ ngày đầu thành lập, vượt qua những thử thách gay go ác liệt, trụ vững trước sự thay đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, nhanh chóng chọn được mô hình tổ chức và phương thức hoạt động, nắm bắt và tận dụng được thời cơ và điều kiện khách quan, vừa thay đổi và ổn định tổ chức và phương thức hoạt động, nắm bắt và tận dụng được thời cơ và điều kiện khách quan và nỗ lực chủ quan, vừa thay đổi và ổn định tổ chức vừa triển khai hoạt động sản xuất kinh doanh đạt nhiều thành quả ngày càng cao.
Trải qua gần hai thập kỷ phát triển và trưởng thành, Tổng công ty đã không ngừng mở rộng và phát triển với chức năng chính là: Kinh doanh bất động sản, xây lắp, tư vấn đầu tư- thiết kế- khảo sát quy hoạch, kinh doanh xuất nhập khẩu thiết bị, vật tư phục vụ ngành xây dựng và các ngành kinh tế khác, sản xuất công nghiệp và vật liệu xây dựng, xuất khẩu chuyên gia và lao động ra nước ngoài và các lĩnh vực kinh doanh khác.
Được thành lập ngày 27/09/1988, Tổng công ty Cổ phần xuất nhập khẩu và xây dựng Việt Nam (VINACONEX), tiền thân là công ty dịch vụ và xây dựng nước ngoài (có nhiệm vụ quản lý cán bộ, công nhân ngành xây dựng làm việc ở nước ngoài), và sau đó tổng công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam được thành lập, đã xác định mục tiêu đa doanh, đa lĩnh vực và đa sản phẩm là mục tiêu lâu dài. Tổng công ty hiện có trên 70 đơn vị đầu mối trực thuộc với hơn 40.000 cán bộ, kỹ sư, chuyên gia, công nhân có kiến thức chuyên sâu và giàu kinh nghiệm hoạt động trên khắp mọi miền của đất nước cũng như ở nước ngoài.
Để tận dụng được tiềm năng của thị trường vốn nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và năng lực sản xuất cũng như mở rộng quy mô, VINACONEX đã mạnh dạn đi đầu trong việc Cổ phần hoá, chuyển đổi hình thức sở hữu. Ngày 01/12/2006 được coi là 1 dấu ấn quan trọng cuat VINACONEX khi tổng công ty chuyển sang hoạt động theo mô hình tổng công ty cổ phần. Đây là 1 bước ngoặt ý nghĩa, đánh dấu 1 sự phát triển mới trong quá trình xây dựng tổng công ty trở thành một tập đoàn kinh doanhhàng đầu Việt Nam và khu vực.
Trong suốt quá trình hoạt động của mình, VINACONEX luôn coi trọng và xác định chữ tín với khác hàng là yếu tố vô cung quan trọng. Nhờ đó, đến nay, thương hiệu của VINACONEX đã được biết đến rộng rãi trên thương trường, được khách hàng trong và ngoài nước tôn trọng và đặt niềm tin khi thiết lập quan hệ hợp tác kinh doanh.
1.2.2 Cơ cấu tổ chức của công ty:
1.2.2.1 Mô hình tổ chức của toàn tổng công ty:
Hình 1: Mô hình hoạt động của tổng công ty
Ngày 5/10/2006 Bộ trưởng bộ xây dựng đã có quyết định số 1384/QĐ- BXD phê duyệt phương án cổ phần hoá Tổng công ty VINACONEX . Theo phương án được duyệt, VINACONEX được phép giữ nguyên phần vốn nhà nước hiện có, phát hành cổ phiếu để thu hút vốn. Tổng công ty cổ phần xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam VINACONEX là Công ty mẹ của tổ hợp công ty Mẹ- Công ty Con, hoạt động theo luật doanh nghiệp 2005, với vốn điều lệ là 1.500 tỷ đồng trong năm 2006 và đã tăng lên 2.000 và 3.000 tỷ vào tháng 7 năm 2008. Trong đó, tỷ trọng cổ phần nhà nước chiếm 63.35%, các cổ đông khác chiếm 36.65%