Hiện nay, Việt Nam đang từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, các thành phần kinh tế được mở rộng và đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Trong điều kiện kinh tế như vậy thông tin tài chính của doanh nghiệp không chỉ báo cáo cho các cơ quan quản lý nhà nước để kiểm tra và xét duyệt.
Để đáp ứng yêu cầu đó của nền kinh tế theo cơ chế thị trường, hoạt động kiểm toán độc lập ra đời, trở thành bộ phận cần thiết và quan trọng không thể thiếu trong đời sống các hoạt động kinh tế. Kiểm toán ra đời và đặc biệt là sự ra đời của kiểm toán độc lập có ý nghĩa rất quan trọng đối với các doanh nghiệp, các Nhà đầu tư trong mọi thành phần kinh tế của nền kinh tế quốc dân và đặc biệt là sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Để tìm hiểu kỹ hơn về kiểm toán độc lập em xin chọn đề tài:" Các kiểm toán viên bên ngoài có thực sự độc lập không?" để nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận về kiểm toán độc lập.
27 trang |
Chia sẻ: tranhieu.10 | Lượt xem: 1989 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các kiểm toán viên bên ngoài có thực sự độc lập không, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, Việt Nam đang từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, các thành phần kinh tế được mở rộng và đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Trong điều kiện kinh tế như vậy thông tin tài chính của doanh nghiệp không chỉ báo cáo cho các cơ quan quản lý nhà nước để kiểm tra và xét duyệt.
Để đáp ứng yêu cầu đó của nền kinh tế theo cơ chế thị trường, hoạt động kiểm toán độc lập ra đời, trở thành bộ phận cần thiết và quan trọng không thể thiếu trong đời sống các hoạt động kinh tế. Kiểm toán ra đời và đặc biệt là sự ra đời của kiểm toán độc lập có ý nghĩa rất quan trọng đối với các doanh nghiệp, các Nhà đầu tư trong mọi thành phần kinh tế của nền kinh tế quốc dân và đặc biệt là sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Để tìm hiểu kỹ hơn về kiểm toán độc lập em xin chọn đề tài:" Các kiểm toán viên bên ngoài có thực sự độc lập không?" để nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận về kiểm toán độc lập.
CHƯƠNG I
NHŨNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP
1.1. Định nghĩa và chức năng của kiểm toán
1.1.1. Khái niệm
Trên thế giớ thuật ngữ kiểm toán đã có từ lâu, theo tiếng Latinh là Auditus. Có rất nhiều khái niềm về kiêm toán. Theo định nghĩa của Liên đoàn quốc tế các nhà kế toán thì “ kiểm toán là việc các nhà kiểm toán viên đôc lập kiểm tra và trình bày ý kiền của mình về các bản báo cáo tài chính”. Trong giáo trình kiểm toán của các tác giả Alvin A.Rens và James K.Loebbecker đã định nghĩa: “ Kiểm toán là quá trình các chuyên gia độc lập và có thẩm quyền thu nhập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin có thể định lượng được của một đơn vị cụ thể nhằm mục đích xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được thiết lập”...
Theo qui chế về kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân ban hành kèm theo Nghị định số 07/CP của Chính phủ ngày 29/1/94 có nêu: “Kiểm toán độc lập là việc kiểm tra và xác nhận của kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán về tính trung thực và hợp lý của các tài liệu, số liệu kế toán và báo cáo tài chính của các doanh nghiệp, tổ chức (gọi chung là đơn vị được kiểm toán) khi có yêu cầu của các đơn vị này.”
1.1.2. Quá trình hình thành phát triển kiểm toán độc lập trên thế giới
Hoạt động kiểm toán độc lập trên thế giới đã xuất hiện trên 100 năm. Kiểm toán đã hình thành và phát triển từ thế kỷ XV, ở châu Âu và ngày càng phát triển mạnh mẽ. tuy nhiên hình thức tổ chức của các tổ chức kiểm toán ở các nước không hoàn toàn giống nhau,nó xuất hiện và phát triển theo nhu cầu tự thân của doanh nghiệp và nhà đầu tư, sau đó được Nhà nước thừa nhận do hiệu quả và tính chất xã hội của nó. Ngày nay, hoạt động kiểm toán độc lập đã được quốc tế hóa, thể hiện ở chỗ có tổ chức Liên đoàn Kế toán quốc tế (IFAC), có chuẩn mực kiểm toán quốc tế, có chứng chỉ hành nghề kiểm toán được hầu hết các nước thừa nhận; có nhiều tập đoàn kiểm toán toàn cầu (Big 4) mà mỗi tập đoàn có hàng trăm nghìn nhân viên, có hàng trăm văn phòng trên khắp thế giới.
Tất cả các nước phát triển như Anh, Mỹ, Canada, cộng đồng châu Âu đều có luật hoặc các điều khoản luật về kiểm toán độc lập hoặc luật kế toán viên công chứng.
Tại Anh, Mỹ, việc quy định về báo cáo tài chính và kiểm toán được quy định cụ thể trong 1 chương của Luật Công ty. Tại Liên bang Nga có Luật Kiểm toán được Hội đồng Liên bang phê duyệt từ năm 2001. Ở Nhật, Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore đều có Luật Kế toán viên công chứng được ban hành từ nhiều năm qua trong đó đều có các qui định chung về các qui tắc hoạt động của các kế toán viên công chứng.
Luật Kiểm toán viên công chứng của Trung Quốc được ban hành nhằm qui định vai trò của kế toán viên công chứng (CPA)" các kiểm toán viên độc lập - trong nền kinh tế và xã hội, tăng cường quản lý hoạt động của kiểm toán độc lập, qua đó bảo vệ lợi ích của cộng đồng cũng như quyền lợi hợp pháp của các nhà đầu tư, thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế.
Còn Luật Kiểm toán viên Công chứng của Hàn Quốc được ban hành nhằm xây dựng vững chắc một hệ thống cho các kế toán viên công chứng nhằm góp phần vào việc bảo vệ quyền và lợi ích của người dân, quản lý tốt các doanh nghiệp, và phát triển nền kinh tế quốc gia.
1.1.3. Bản chất và chức năng của kiểm toán.
1.1.3.1. Kiểm tra, kiểm soát - một chức năng của quản lý
Nói một cách chung nhất, quản lý là một quá trình định hướng và tổ chức thực hiện các định hướng đã định trên cơ sơ những nguồn lực xác định nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Quá trình này bao gồm nhiều chức năng và có thể chia thành nhiều giai đoạn, ở giai đoạn định hướng cần có những dự báo về nguồn lực và mục tiêu cần và có thể đạt tới, kiểm tra lại các thông tin về nguồn lực và mục tiêu, xây dựng các trương trình, kế hoạch. . . Sau đó có thể đưa ra các quyết định cụ thể để tổ chức thực hiện. Trong giai đoạn tổ chức thực hiện, cần kết hợp các nguồn lực theo các phương án tối ưu, đồng thời thường xuyên kiểm tra diễn biến và kết quả của các quá trình để điều hoà các mối quan hệ, điều chỉnh các định mức và mục tiêu trên quan điểm tối ưu hoá kết quả hoạt động. Nhưng kiểm tra không phải là một giai đoạn của quản lý mà nó được thực hiện ở tất cả các giai đoạn của quá trình này, bởi vậy cần phải quan niệm kiểm tra là một chức năng của quản lý. Tuy nhiên chức năng này được thể hiện rất khác nhau tuỳ thuộc vào cơ chế kinh tế và cấp quản lý, vào loại hình hoạt động cụ thể, vào truyền thống văn hoá và những điều kiện kinh tế xã hội trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể.
Về phân cấp quản lý, có nhiều mô hình khác nhau nhưng thường là phân thành quản lý vĩ mô của Nhà nước và quản lý vi mô của các đơn vị cơ sở. Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra của mình hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp. Nhà nước trực tiếp kiểm tra mục tiêu chương trình, kế hoạch, kiểm tra các nguồn lực, kiểm tra quá trình và kết quả thực hiện các mục tiêu của các đơn vị, kiểm tra tính trung thực của các thông tin và tính pháp lý của việc thực hiện các nghiệp vụ. Mặt khác Nhà nước có thể sử dụng kết quả kiểm tra của các chuyên gia hoặc các tổ chức kiểm tra độc lập để thực hiện điều tiết vĩ mô qua các chính sách của mình hoặc tham gia đầu tư hay với cương vị là khách hàng của đơn vị. Đối với các đơn vị cơ sơ để đảm bảo hiệu quả hoạt động thì cơ sở đều phải tự kiểm tra mọi hoạt động của mình trong tất cả các khâu: Rà soát các tiềm lực, xem xét lại các dự báo, các mục tiêu và định mức, đối chiếu và truy tìm các thông số về sự kết hợp soát xét lại các thông tin thực hiện để điều chỉnh kịp thời trên quan điểm bảo đảm hiệu năng của mọi nguồn lực và hiệu quả kinh tế cuối cùng cuả các hoạt động.
Như vậy :
- Kiểm tra gắn liền với quản lý, đồng thời gắn liền với mọi hoạt động ở đâu có quản lý thì ở đó có kiểm tra
- Quản lý gắn với cơ chế kinh tế, với điều kiện xã hội cụ thể . . . Khi các điều kiện tiền đề thay đổi thì hoạt động kiểm tra cũng thay đổi theo
- Kiểm tra nảy sinh và phát triển từ chính nhu cầu quản lý. Khi nhu cầu kiểm tra chưa nhiều, chưa phức tạp, kiểm tra được thực hiện đồng thời với các chức năng quản lý khác trên cùng một bộ máy thống nhất và khi nhu cầu thay đổi tới mức độ cao, kiểm tra cũng cần được tách ra thành một hoạt động độc lập và được thực hiện bằng một hệ thống chuyên môn độc lập
1.1.3.2. Bản chất của kiểm toán.
Kiểm toán đó là một lĩnh vực còn mới mẻ do vây việc nêu ra kiểm toán là gì còn là một vấn đề phải bàn luận. Đã có nhiều quan điểm về kiểm toán chẳng hạn có 3 quan điểm sau:
Quan điểm 1: Quan điểm về kiểm toán của Vương Quốc Anh.
“ Kiểm toán đó là một sự kiểm tra độc lập và là sự bày tỏ ý kiến về những bản khai tài chính của một xí nghiệp do một kiểm toán viên được bổ nhiệm để thực hiện những công việc đó theo đúng với bất cứ nghĩa vụ pháp định có liên quan ”
Với nội dung trên, định nghĩa đã nêu khá đầy đủ các mặt đặc trưng cơ bản của kiểm toán. Tuy nhiên, quan niệm này chỉ phù hợp với kiểm toán tài chính có đối tượng là bản khai tài chính, do kiểm toán viên độc lập hoặc được bổ nhiệm tiến hành trên cơ sở các chuẩn mực chung.
Quan điểm 2: kiểm toán được đồng nghĩa với kiểm tra kế toán, một chức năng của bản thân kế toán, một thuộc tính cố hữu của kế toán, nội dung của hoạt động này là rà soát các thông tin kế toán từ chứng từ kế toán, định khoản và ghi sổ kế toán, tính giá các đối tượng kế toán và tổng hợp cân đối kế toán.
Quan điểm này mang tính truyền thống trong điều kiện kiểm toán chưa phát triển và trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Trong cơ chế này Nhà nước vừa là chủ sở hữu, vừa lãnh đạo trực tiếp nền kinh tế. Do đó, chức năng kiểm tra của Nhà nước được thực hiện trực tiếp với mọi thực thể kinh tế xã hội thông qua nhiều khâu kể cả kiểm tra kế hoạch, kiểm tra tài chính thường xuyên qua giám sát viên của Nhà nước đặt tại xí nghiệp, đó là kế toán trưởng, đến việc quyết toán và thanh tra các nghiệp vụ cụ thể. Tuy nhiên quan điểm này mâu thuẫn với việc công nhận kiểm toán là một hoạt động độc lập có phương pháp riêng và được thực hiện bởi một bộ máy riêng biệt.
Quan điểm 3 : Quan điểm hiện đại.
Ta thấy trong quá trình phát triển kiểm toán không chỉ giới hạn ở kiểm toán bảng khai tài chính hay tài liệu kế toán mà còn thâm nhập vào nhiều lĩnh vực khác như hiệu quả của hoạt động kinh tế, hiệu năng quản lý, hiệu lực của hệ thống pháp lý trong từng loại hoạt động. . . Vì vậy, theo quan điểm hiện đại thì phạm vi của kiểm toán rất rộng gồm những lĩnh vực chủ yếu sau :
Lĩnh vực 1: Kiểm toán thông tin hướng vào việc đánh giá tính trung thực và hợp pháp của các tài liệu là cơ sở pháp lý cho việc giải quyết các mối quan hệ về kinh tế, tạo niềm tin cho những người quan tâm đến tài liệu đó.
Lĩnh vực 2: Kiểm toán quy tắc hướng vào việc đánh giá tình hình thực hiện các thể lệ, chế độ, luật pháp ở đơn vị được kiểm toán trong quá trình hoạt động.
Lĩnh vực 3: Kiểm toán hiệu quả có đối tượng trực tiếp là sự kết hợp giữa các yếu tố, các nguồn lực trong từng loại nghiệp vụ kinh doanh : mua, bán, sản xuất hay dịch vụ. . . Giúp ích trực tiếp cho việc hoạch định chính sách và phương hướng, giải pháp cho việc hoàn thiện hay cải tổ hoạt động kinh doanh của đơn vị được kiểm toán.
Như vậy quan điểm hiện đại đã khắc phục được các yếu điểm của 2 quan điểm trên đó là không chỉ giới hạn ở các bản khai Tài chính, các Tài liệu kế toán mà còn đi sâu vào các lĩnh vực khác
1.1.3.3. Chức năng của kiểm toán.
Kiểm toán có 2 chức năng cơ bản đó là chức năng xác minh và chức năng bày tỏ ý kiến, đây là 2 chức năng quan trọng để đưa ra những ý kiến thuyết phục, tạo niềm tin cho những người quan tâm vào những kết luận của kiểm toán cho dù là kiểm toán hướng vào lĩnh vực nào trong 4 lĩnh vực chủ yếu trên.
Chức năng xác minh nhằm khẳng định mức độ trung thực của tài liệu và tính pháp lý của việc thực hiện các nghiệp vụ hay việc lập các bản khai tài chính. . . xem có tuân thủ theo chế độ tài chính hiện hành hay không .
Theo thông lệ Quốc tế thì chức năng xác minh được cụ thể hoá thành các mục tiêu và tuỳ thuộc vào đối tượng hay loại hình kiểm toán mà mục tiêu có thể khác nhau :
VD có 6 mục tiêu về kiểm toán bản khai tài chính :
- Xác minh tính hiệu lực
- Xác minh tính trọn vẹn
- Xác minh việc phân loại và trình bày
- Xác minh về nguyên tắc tính giá
- Xác minh về quyền và nghĩa vụ
- Xác minh về tính chính xác, máy móc.
Và 7 mục tiêu về kiểm toán nội bộ :
- Xác minh tính hiệu lực
- Xác minh tính trọn vẹn
- Xác minh về việc phân loại
- Xác minh về việc tính giá
- Xác minh về tính cho phép hay được phép
- Xác minh về việc ghi sổ và cộng sổ kịp thời so với thời gian quy định
- Xác minh về việc đảm bảo các nghiệp vụ đều hợp lý.
Chức năng bày tỏ ý kiến được thể hiện dưới 2 góc độ.
Góc độ tư vấn đưa ra các lời khuyên trong thư quản lý về vấn đề thực hiện các quy tắc kế toán về hoạch định các chính sách, thực thi các chế độ, pháp luật, về hiệu quả kinh tế và hiệu năng quản lý bày tỏ ý kiến được thể hiện qua việc phán xử như một quan toà hoặc kết hợp với xử lý tại chỗ như công việc của thanh tra.
Như vậy có thể nói : “ Kiểm toán là xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động được kiểm toán bằng hệ thống các phương pháp kỹ thuật của kiểm toán chứng từ và ngoài chứng từ do các kiểm toán viên có nghiệp vụ tương xứng trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực :
1.2. Kiểm toán độc lập
Kiểm toán độc lập là một loại hình kiểm toán được phân theo chủ thể kiểm toán (ngoài ra còn có kiểm toán nhà nước và kiểm toán nội bộ).Kiểm toán độc lập là một tổ chức kinh doanh dịch vụ kiểm toán và tư vấn theo yêu cầu của khách hàng .Kiểm toán độc lập là hoạt động đặc trưng của nền kinh tế thị trường.Đây là loại hình dịch vụ được pháp luật thừa nhận và bo hộ,được qun lý chặt chẽ bởi các hiệp hội chuyên ngành về kế toán.Quan hệ giữa chủ thể và khách thể kiểm toán là quan hệ mua bán dịch vụ,đn vị kinh tế được kiểm toán phi tr phí dịch vụ cho kiểm toán viên theo hoạt động kiểm toán - đây là điểm khác biệt giữa kiểm toán độc lập với kiểm toán nhà nước và kiểm toán nội bộ.
Các kiểm toán viên độc lập là đội ngũ hành nghề chuyên nghiệp có kĩ năng nghề nghiệp và đạo đức và phi tri qua kì thi quốc gia để đạt chứng chỉ kiểm toán viên độc lập theo qui định.Khách thể của kiểm toán độc lập bao gồm: các doanh nghiệp và xí nghiệp tư,các doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài,các hợp tác xã và doanh nghiệp cổ phần,các chưng trình dự án có vốn đầu tư ngoài ngân sách nhà nước.Ngoài ra có một khách thể tự nguyện với số lượng ngày càng tăng ở nước ta:đó là các doanh nghiệp nhà nước.Kiểm toán độc lập hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực kiểm toán báo cáo tài chính.Ngoài ra theo yêu cầu của khách hàng,kiểm toán độc lập còn có thể kiểm toán hoạt động,kiểm toán tuân thủ hoặc tiến hành các dịch vụ tư vấn tài chính kế toán như tư vấn về thuế,tư vấn về đầu tư,lập báo cáo tài chính,cung cấp các phần mềm kế toán...
Cũng như kiểm toán nói chung kiểm toán độc lập có hai chức năng.Chức năng xác minh tính trung thực hợp lý,hợp pháp của các nghiệp vụ hoặc việc lập các bng khai tài chính.Sn phẩm của chức năng này là "báo cáo kiểm toán".Chức năng thứ hai là bày tỏ ý kiến,được hiểu rộng với ý nghĩa c về khối lượng và chất lượng th"ng tin.Chức năng này thể hiện cũng khác nhau giữa các khách thể kiểm toán,các c sở pháp lý,kinh tế khác nhau.Sn phẩm của chức năng này là "thư qun lý".Với bn chất và chức năng này kiểm toán độc lập phi thực hiện mọi hoạt động kiểm tra,kiểm soát những vấn đề liên quan đến thực trạng tài sn,các nghiệp vụ tài chính và sự phn ánh của nó trên sổ sách kế toán cùng hiệu qu đạt được.Nói cách khác doanh nghiệp chính là các khách thể chủ yếu của kiểm toán độc lập và kiểm toán độc lập cung cấp dịch vụ kiểm tra tình hình hoạt động của các doanh nghiệp theo nhu cầu tự nguyện của các doanh nghiệp đó.
Ngày nay trên thế giới quy mô và chất lượng của các tổ chức kiểm toán độc lập ngày càng lớn mạnh, điều đó được thể hiện qua các tổ chức kiểm toán độc lập điển hình sau.
Công ty kiểm toán Deloitte Touche Tohmastu (DTTI)
Đây là một công ty trong 6 công ty kiểm toán lớn nhất Thế giới, hiện có khoảng 600 văn phòng trên thế giới, cung cấp các dịch vụ kế toán, kiểm toán và tư vấn Tài chính, thuế, cổ phần hoá, đầu tư, quản lý doanh nghiệp.
Từ năm 1992, DTTI đã vào Việt nam từ văn phòng DTT quốc tế khu vực Châu á - Thái Bình Dương. DTTI đã giúp Bộ tài chính và công ty kiểm toán VACO tổ chức các khoá đào tạo kế toán, kiểm toán quốc tế tại Việt nam, trợ giúp cho các chuyên gia của Việt nam tiếp cận với thị trường thế giới và các nguyên tắc chuẩn mực kiểm toán quốc tế, cung cấp các thông tin chuyên nghành cho Bộ tài chính nhằm truyền bá các kiến thức quốc tế vào Việt nam. Cùng với công ty VACO triển khai các dịch vụ tư vấn và kiểm toán ở Việt nam
Đến tháng 12/1993 DTT được phép đặt văn phòng đại diện tại Việt nam và tháng 04/1995 DTT đã được phép thành lập công ty liên doanh với công ty kiểm toán Việt nam (VACO) tại Việt nam đây là một kết quả, một lỗ lực quan trọng nhằm hiểu rõ các phong tục tập quán, các chính sách pháp luật và nhiều các lĩnh vực khác để các cuộc kiểm toán đạt được kết quả cao.
Công ty Price Waterhouse (PW)
Đây cũng là 1 trong 6 công ty kiểm toán quốc tế lớn nhất thế giới, hiện công ty có khoảng trên 450 văn phòng nhằm cung cấp các dịch vụ kế toán, kiểm toán và tư vấn trên khắp thế giới.
PW vào Việt nam từ chi nhánh Hồng Kông năm 1992 đã giúp Bộ tài chính và công ty VACO tổ chức hội thảo về thuế, kế toán, kiểm toán, trợ giúp các chuyên gia Việt nam tiếp cận thị trường thế giới trong lĩnh vực chuyên ngành, tổ chức các khoá đào tạo tại Việt nam cùng với công ty VACO, PW đã cung cấp các dịch vụ nghề nghiệp cho các khách hàng ở Việt nam.
Hiện nay PW đã có chi nhánh ở Hà nội và TPHCM với tên gọi : Công ty trách nhiệm hữu hạn Price Waterhouse Việt nam.
Công ty Arthur Andersen (AA).
Cũng là 1 công ty trong 6 công ty kiểm toán lớn nhất thế giới với khoảng 300 văn phòng trên thế giới. AA cung cấp các dịch vụ kế toán, kiểm toán, tư vấn như mọi công ty kiểm toán quốc tế lớn khác.
AA vào Việt nam từ tháng 05/1991 thông qua chi nhánh Philippin và Thái lan, công ty giúp Việt nam đào tạo các khoá về đào tạo kiểm toán và kế toán. Kết hợp với thực hiện một số dịch vụ chuyên ngành ở Việt nam. Tháng 08/1995 AA được phép thành lập chi nhánh ở Việt nam có tên Công ty trách nhiệm hữu hạn Arthur Andersen Việt nam.
Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC).
IFAC được thành lập từ năm 1977 có khoảng 100 tổ chức thành viên với mục tiêu là phát triển và tăng cường sự phối hợp nghiệp vụ kế toán và kiểm toán độc lập trên phạm vi toàn thế giới với những nguyên tắc và chuẩn mực phổ biến, tiến dần thành thông lệ của hầu hết các nước trên thế giới, đáp ứng được yêu cầu của các chính phủ, các doanh nghiệp, các Nhà tín dụng, các cổ đông cũng như đáp ứng mối quan tâm của công chúng trên thế giới. Mục tiêu của IFAC là thúc đẩy các nước trên thế giới tiến dần đến sự thống nhất và hoà hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới với các tập đoàn xuyên quốc gia, toàn cầu.
Ngày 13/05/1991 công ty kiểm toán Việt nam (VACO) chính thức được thành lập và một loạt các tổ chức kiểm toán độc lập khác như : Công ty dịch vụ kế toán, kiểm toán và tư vấn Tài chính (AASC), công ty tư vấn và kiểm toán (A and C), công ty kiểm toán đà nẵng (ĐAC), công ty kiểm toán và dịch vụ tin học (ATSC), công ty kiểm toán Hạ long (HAACO). Các công ty 100% vốn nước ngoài gồm :Cong ty Ernst and Young (E and Y), KPMG Peat Marwick Việt nam, Price waterhouse Việt nam (PW), Arthur Andersen Việt nam (AA), các công ty liên doanh như VACO-DTTI, và công ty Coopers and Lybrand AISE.
CHƯƠNG II
QUAN ĐIỂM VỀ SỰ ĐỘC LẬP CỦA CÁC KIỂM TOÁN VIÊN
2.1. Khái niệm và vai trò của chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp đối với kiểm toán viên.
Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp là những quy tắc để hướng dẫn cho kiểm toán viên ứng xử và hoạt động một cách trung thực phục vụ cho lợi ích chung của nghề nghiệp và xã hội. Nói cách khác, đạo đức nghề nghiệp là những chỉ dẫn để các thành viên luôn duy trì thái độ nghề nghiệp đúng đắn.
Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên có vai trò rất quan trọng. Nó là một trong những nguyên tắc cơ bản của hoạt động kiểm toán. Một kiểm toán viên cần phải có đạo đức và một công ty kiểm toán cần phải là một cộng đồng các kiểm toán viên có đạo đức. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường thì nhu cầu đối với nghề kiểm toán đáng tin cậy và được công nhận trở nên lớn hơn bao giờ hết. Hơn nữa, những người chịu trách nhiệm lập báo cáo tài chính nếu không có đạo đức thì dễ có thể làm cho thông tin báo cáo kiểm toán tài chính không tin tưởng dẫn đến hậu quả là sự mất lòng tin trong công chúng. Trong bối cảnh đó, nếu không có hoạt động kiểm toán để xác định tính tin cậy của các hệ thống thông tin tài chính thì sẽ gây cản trở lớn. Do vậy, những đòi hỏi về đạo đức nghề nghiệp đối với kiểm toán viên phải được xác định rõ ràng và được công bố để cho công chúng nói chung biết, qua đó họ có thể đòi hỏi các hành vi đạo đức của kiểm toán viên cũng như đánh giá các c