TTQT là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả và hưởng quyền lợi về tiền tệ phát sinh trên cơ sở các hoạt động kinh tế và phi kinh tế giữa các tổ chức, cá nhân nước này với tổ chức, các nhân nước khác, hay hiữa một quốc gia với một tổ chức quốc tế, thông qua quan hệ các ngân hàng của các nước có liên quan.
Trong thương mại quốc tế, không phải lúc nào các nhà xuất nhập khẩu cũng trực tiếp thanh toán tiền hàng với nhau, mà phải thông qua các NHTM, thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán. Ngày nay, hoạt động thương mại quốc tế luôn cần đến sự hỗ trợ, tham gia của NHTM để đảm bảo an toàn và quyền lợi cảu cả bên mua và bán.
21 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2654 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các kiến nghị nhằm hoàn thiện hoạt động thanh toán quốc tế tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THANH TOÁN QUỐC TẾ (TTQT) CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI (NHTM) 3
1. Khái niệm TTQT 3
2. Đặc điểm của Thanh toán quốc tế 3
3. Vai trò của TTQT với hoạt động của các NHTM 3
4. Các phương thức TTQT chủ yếu của các NHTM 4
a. Phương thức chuyển tiền 4
b. Phương thức nhờ thu 4
(1) Nhờ thu phiếu trơn 5
(2) Nhờ thu kèm chứng từ 5
c. Phương thức tín dụng chứng từ (L/C) 5
II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN CỦA CÁC NHTM VIỆT NAM 6
1. Phát triển mạnh mẽ trong thời gian gần đây 6
2. Tồn tại những bất cập 7
a. Trong bản thân các NHTM 7
(1) Tốc độ chu chuyển thanh toán còn chậm, xảy ra khiếu kiện 7
(2) Các qui trình, thể lệ, nghiệp vụ trong TTQT chưa chấp hành nghiêm chỉnh và khả năng kiểm soát của ngân hàng chưa cao 7
(3) Các ngân hàng còn gặp khó khăn trong việc triển khai mảng nghiệp vụ thanh toán quốc tế tại các thị trường xuất khẩu mới 8
(4) Đối với hàng nhập khẩu, còn thiếu ngoại tệ để thanh toán làm giảm lòng tin đối với các đối tác nước ngoài. 9
b. Từ phía DN 9
(1) Các doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu kinh nghiệm và hiểu biết trong hoạt động xuất nhập khẩu. 9
(2) Doanh nghiệp Vịêt Nam chưa có những hiểu biết cần thiết về luật pháp trong kinh doanh quốc tế 9
c. Từ phía nhà nước 10
(1) Chính sách thương mại chưa ổn định 10
(2) Các thủ tục hành chính trong hoạt động XNK còn rườm rà 10
(3) Một số văn bản của ngân hàng nhà nước quy định chưa cụ thể 10
III. CÁC KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG TTQT TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM 11
1. Về phía NHTM 11
a. Phát triển quan hệ hợp tác với các NH đại lý nước ngoài. 11
b. Phát triển nguồn nhân lực 12
c. Tích cực huy động ngoại tệ phục vụ TTQT. 13
d. Phát huy hiệu quả của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng 13
e. Nâng cao chất lượng sản phẩm và quảng bá dịch vụ. 13
f. Hiện đại hóa công nghệ hoạt động TTQT của ngân hàng theo mặt bằng trình độ quốc tế. 14
g. Đẩy mạnh công tác tư vấn cho khách hàng 15
h. Nâng cao năng lực TTQT ở các chi nhánh 16
2. Về phía doanh nghiệp 16
3. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước 16
4. Kiến nghị đối với Chính phủ và các bộ ngành có liên quan 17
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO 18
1. Giáo trình: 18
2. Website: 18
3. Tài liệu khác: 18
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THANH TOÁN QUỐC TẾ (TTQT) CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI (NHTM)
Khái niệm TTQT
TTQT là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả và hưởng quyền lợi về tiền tệ phát sinh trên cơ sở các hoạt động kinh tế và phi kinh tế giữa các tổ chức, cá nhân nước này với tổ chức, các nhân nước khác, hay hiữa một quốc gia với một tổ chức quốc tế, thông qua quan hệ các ngân hàng của các nước có liên quan.
Trong thương mại quốc tế, không phải lúc nào các nhà xuất nhập khẩu cũng trực tiếp thanh toán tiền hàng với nhau, mà phải thông qua các NHTM, thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán. Ngày nay, hoạt động thương mại quốc tế luôn cần đến sự hỗ trợ, tham gia của NHTM để đảm bảo an toàn và quyền lợi cảu cả bên mua và bán.
Đặc điểm của Thanh toán quốc tế
Thanh toán liên quan tới đồng tiền, địa điểm, phương tiện, phương thức và thời gian thanh toán
Thanh toán quốc tế phục vụ chủ yếu cho hoạt động kinh tế đối ngoại
Gặp nhiều rủi ro do có sự biến động về tiền tệ
Vai trò của TTQT với hoạt động của các NHTM
TTQT là hoạt động trực tiếp tạo ra một khoản lợi nhuận lớn của ngân hàng từ việc thu phí các dịch vụ như: chuyển tiền, phí thanh toán L/C, phí bảo lãnh,… Thực tế cho thấy, đối với các NHTM hiện đại, thu nhập từ phí dịch vụ có xu hướng ngày một tăng cả về số lượng và tỷ trọng trong tổng thu nhập của ngân hàng. Đây cũng chính là mục tiêu mà các NHTM luôn vươn tới.
TTQT tạo môi trường ứng dụng công nghệ thông tin tiên tiến
NHTM có thể tăng cường khả năng thu hút vốn ngoại tệ từ việc thực hiện thanh toán thu tiền về cho khách hàng đến việc quản lý nguồn ngoại tệ tạm thời nhàn rỗi trên tài khoản tiền gửi của khách hàng, từ đó đáp ứng được nhu cầu vay và thanh toán bằng ngoại tệ của khách hàng.
TTQT phát triển góp phần tăng cường khả năng cạnh tranh của ngân hàng trong cơ chế thị trường, đồng thời giúp cho hoạt động ngân hàng vượt ra khỏi phạm vi quốc gia và hoà nhập với cộng đồng ngân hàng thế giới
Mở rộng quan hệ với các ngân hàng nước ngoài
Thanh toán quốc tế được coi là một trong những đòn bẩy làm cho hoạt động thương mại quốc tế ở các NHTM ngày càng phát triển mạnh mẽ
Trong kinh doanh ngày nay, thanh toán quốc tế đang ngày trở nên phổ biến. Những phương thức thanh toán truyền thống như tiền mặt đã dần được thay thế bằng những phương thức thanh toán hiện đại hơn, nhanh chóng hơn
Các phương thức TTQT chủ yếu của các NHTM
Phương thức chuyển tiền
Chuyển tiền là phương thức TTQT, trong đó một khách hàng của ngân hàng yêu cầu ngân hàng cảu mình chuyển một số tiền nhất định cho người khác ở một địa điểm nhất định trong một thời gian nhất định bằng phương tiện chuyển tiền do khách hàng yêu cầu. Thực hiện bằng hai cách:
- Chuyển tiền bằng điện
- Chuyển tiền bằng thư
Trong đó, chuyển tiền bằng điện nhanh hơn chuyển tiền bằng thư, nhưng chi phí chuyển tiền bằng điện cao hơn.
Phương thức nhờ thu
Nhờ thu là một phương thức thanh toán, trong đó, người bán sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hoặc cung ứng một dịch vụ cho khách hàng, uỷ thác cho ngân hàng phục vụ mình xuất trình bộ chứng từ thông qua ngân hàng thu hộ bên mua để được thanh toán, chấp nhận hối phiếu hay chấp nhận các điều kiện và điều khoản khác.
Nhờ thu phiếu trơn
Quy trình nhờ thu trơn
(3)
(6)
(2) (7) (5) (4)
(1)
Người xuất khẩu sau khi xuất chuyển hàng hoá, lập các chứng từ hàng hoá gửi trực tiếp cho người nhập khẩu (không qua ngân hàng), đồng thời uỷ thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền trên cơ sở hối phiếu do mình lập ra.
Phương thức thanh toán này ít được sử dụng trong thanh toán thương mại quốc tế vì nó không đảm bảo quyền lợi cho người xuất khẩu.
Nhờ thu kèm chứng từ
Quy trình nhờ thu kèm chứng từ
(4)
(8)
(3) (9) (7) (6) (5)
(1)
(2)
Người xuất khẩu uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở người nhập khẩu, không những chỉ căn cứ vào hối phiếu mà còn căn cứ vào bộ chứng từ hàng hoá, gửi kèm theo với điều kiện là người nhập khẩu trả tiền hoặc chấp nhận hối phiếu có kỳ hạn, thì ngân hàng mới trao bộ chứng từ hàng hoá để đi nhận hàng.
Phương thức tín dụng chứng từ (L/C)
Quy trình thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ
(3)
(8)
(9)
(11) (12) (2) (7) (6) (4)
(1)
(5)
Tín dụng chứng từ là một thoả thuận bất kì, cho dù được mô tả hoặc gọi tên như thế nào, thể hiện một cam kết chắc chắn và không huỷ ngang của ngân hàng phát hành về việc thanh toán khi xuất trình phù hợp.
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN CỦA CÁC NHTM VIỆT NAM
Phát triển mạnh mẽ trong thời gian gần đây
Từ năm 1991, Nhà nước cho phép các NH có thể mở rộng hoạt động của mình sang lĩnh vực hoạt động kinh tế đối ngoại. Các ngân hàng bước vào lĩnh vực này và tìm mọi cách để kéo khách hàng về phía mình như chế độ cho vay tài trợ XK với thủ tục đơn giản, giải ngân nhanh chóng, chi phí thấp. Nhiều NHTM có doanh số hoạt động thanh toán hàng xuất nhập khẩu lớn như: Eximbank, Techcombank, Ngân hàng Á Châu, Ngân hàng Đông Á,…Hơn nữa, trong thời kì hội nhập, việc đổi mới tư duy về kinh tế đối ngoại đã thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu đạt được những thành tựu to lớn. Kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng (tổng kim ngạch xuất khẩu), vì vậy khuyến khích được các thành phần kinh tế tham gia sản xuất hàng xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu cũng được mở rộng từ các thị trường chủ yếu như Trung Quốc và một số nước châu Á sang các thị trường mới EU, Mỹ,...
Hoạt động xuất nhập khẩu phát triển đòi hỏi sự phát triển của hoạt động thanh toán quốc tế của các ngân hàng. Dưới đây là một ví dụ chứng minh sự phát triển của hoạt động TTQT tại NHTM
Doanh số thực hiện thanh toán xuất nhập khẩu tại ngân hàng Vietinbank
Năm
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
Doanh số TT XNK(triệu USD)
3.416
4.434
5.651
6.790
7.695
11.270
12.489
15.960
Tốc độ
30%
27%
20%
13%
46%
11%
28%
( nguồn: báo cáo thường niên Vietin Bank , năm 2007, 2008, 2009, 2010)
Tồn tại những bất cập
Trong bản thân các NHTM
Tốc độ chu chuyển thanh toán còn chậm, xảy ra khiếu kiện
Chúng ta có thể nhận thấy hệ thống đại lý của các ngân hàng thương mại Việt Nam ở nước ngoài còn chưa phát triển nếu so sánh với Tập đoàn HSBC của Anh có khoảng 8.000 văn phòng tại 88 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Ngân hàng
VCB
Agribank
VietinBank
BIDV
Eximbank
Seabank
Số lượng đại lí
1400
931
850
800
600
200
(nguồn:www.VCB.com ;www.agribank.com ;www.vietinbank.com ;www.BIDV.com; www.Eximbank.com; www.Seabank.com)
Hơn nữa, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng làm cho số lượng ngân hàng đại lý và ngân hàng có quan hệ tài khoản của các ngân hàng thương mại Việt Nam giảm xuống. Đồng thời nhiều ngân hàng trong nước đã rút tiền về hoặc cắt giảm nhiều tài khoản tiền gửi thanh toán tại các ngân hàng nước ngoài do lãi suất thấp và uy tín của các ngân hàng nước ngoài bị giảm sút.
Thời gian xử lí giao dịch thanh toán còn chậm do phụ thuộc nhiều vào thao tác của con người; hệ thống máy tính, đường truyền thông phát triển không theo kịp khối lượng giao dịch, gây nên sự tắc nghẽn đường truyền, lỗi hệ thống. Do vậy mà việc thanh toán của các DN sẽ mất thời gian hơn, chậm trễ hơn, chịu lãi suất cao hơn, rủi ro cao hơn.
Các qui trình, thể lệ, nghiệp vụ trong TTQT chưa chấp hành nghiêm chỉnh và khả năng kiểm soát của ngân hàng chưa cao
Theo thống kê của sở giao dịch của Agribank, năm 2006 có khoảng 18% bộ chứng từ của nhà xuất khẩu nước ngoài xuất trình theo L/C do các chi nhánh của sở GD này có sự khác biệt, mà các lỗi chứng từ đối với hàng nhập khẩu của sở GD xuất hiện chủ yếu ở khâu tiếp cận và kiểm tra chứng từ. Dưới đây là ví dụ về sai sót trong việc xử lí chứng từ:
Ngân hàng Techcombank nhận được bộ chứng từ nhờ thu với chỉ dẫn là D/P 30 days after sight (giao chứng từ trên cơ sở thanh toán 30 ngày sau ngày nhận được chứng từ). Khi nhìn thấy cụm từ “30 days after sight”, cán bộ thực hiện đã không đọc kỹ “D/P”, cho rằng đây là bộ chứng từ trả chậm 30 ngày, nên đã xử lý như chứng từ D/A, nghĩa là chỉ yêu cầu khách hàng chấp nhận hối phiếu trả chậm và trả chứng từ. Đến thời hạn 30 ngày phải thanh toán, nhà nhập khẩu từ chối thanh toán vì hàng không đúng chất lượng quy định. Khi làm điện thông báo từ chối gửi tới ngân hàng gửi chứng từ nhờ thu, Techcombank đã nhận được điện phản hồi yêu cầu thanh toán vì đó là chứng từ D/P. Do không thực hiện đúng chỉ dẫn nhờ thu, NH đã bị rủi ro khi phải trích tiền của ngân hàng để thanh toán thay cho nhà nhập khẩu. Việc đòi lại tiền từ nhà nhập khẩu gặp rất nhiều khó khăn, tốn thời gian và chi phí.
Doanh nghiệp xuất khẩu thảm đay xuất trình bộ chứng từ L/C xuất sang thị trường Bỉ, trị giá USD 50.000, trong đó có một điều khoản của L/C qui định: "chứng nhận của người hưởng rằng: bộ chứng từ không thể thương lượng được gửi cho người mua sau 15 ngày kể từ ngày B/L" nhưng trong chứng từ này của khách hàng xuất khẩu lại ghi:" bộ chứng từ không thể thương lượng được gửi cho người mua trong vòng 15 ngày kể từ ngày B/L". Chi nhánh NHCTVN đã bỏ qua lỗi này, ngân hàng nước ngoài viện cớ từ chối thanh toán. Sau khi thương lượng, công ty xuất khẩu thảm đay Việt Nam đã phải giảm giá 15% với lý do hàng mất phẩm chất.
Các ngân hàng còn gặp khó khăn trong việc triển khai mảng nghiệp vụ thanh toán quốc tế tại các thị trường xuất khẩu mới
Với các thị trường truyền thống như Trung Quốc, Hồng Kông, Singapore, Nga… doanh nghiệp và ngân hàng đều yên tâm vì đã có một quá trình giao dịch trước đó. Nhưng những thị trường này, do môi trường pháp lý minh bạch, cầu hàng hóa cao, hệ thống thanh toán tốt nên nhiều nước đẩy mạnh xuất khẩu vào đây, dẫn đến cạnh tranh hàng hóa gay gắt. Vì vậy phải chuyển hướng sang thị trường các nước châu Phi, Mỹ Latin và Trung Đông. Tuy vậy, những thị trường mới này cũng không hoàn toàn dễ đối với các ngân hàng thanh toán Việt Nam bởi những rủi ro muôn hình vạn trạng do chưa có một hệ thống thanh toán tin cậy, chưa có thông tin chính xác về các doanh nghiệp đối tác.
Nhiều lãnh đạo ngân hàng có nghiệp vụ thanh toán quốc tế đều khẳng định vai trò to lớn của các tham tán thương mại Việt Nam tại nước ngoài trong việc cung cấp thông tin về đối tác cho doanh nghiệp và ngân hàng thanh toán trong nước. Thế nhưng lâu nay, vai trò của tham tán trong vấn đề này hết sức mờ nhạt.
Có thể các tham tán có quan hệ mật thiết với nhà xuất khẩu nhưng với ngân hàng thanh toán thì không và Vietinbank đành phải tìm kiếm thông tin bằng cách mua nhưng không phải lúc nào cũng mua được “hàng” tốt!
Để có thể triển khai mảng nghiệp vụ thanh toán quốc tế tại các thị trường xuất khẩu mới, các ngân hàng không thể thiếu vắng sự hỗ trợ của các tham tán thương mại nước ngoài.
Đối với hàng nhập khẩu, còn thiếu ngoại tệ để thanh toán làm giảm lòng tin đối với các đối tác nước ngoài.
Đây là một khó khăn lớn trong việc thu hút nguồn ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu thanh toán hàng nhập khẩu. Hàng năm, các NHTM phải tìm nhiều biện pháp với chi phí cao để bù đắp phần thiếu hụt nguồn ngoại tệ trong thanh toán.
Ví dụ: Đã có những khi ngân hàng không thể đáp ứng đủ nguồn USD để bán cho khách hàng có nhu cầu, các ngân hàng đề xuất khách hàng doanh nghiệp của mình chuyển sang thanh toán bằng các ngoại tệ khác ngoài USD. Tuy nhiên các ngoại tệ khác thì không bị neo tỷ giá nên biến động nhanh hơn USD vì thế các doạnh nghiệp e ngại sử dụng phương thức này gây ra những khó khăn, hạn chế cho việc thanh toán
Ở Việt Nam đa số các doanh nghiệp xuất khẩu thu ngoại tệ về từ hoạt động XK chỉ gửi tiết kiệm trong ngân hàng nên ngân hàng không thể lấy đô la Mỹ của khách hàng gửi để bán cho doanh nghiệp nhập khẩu => gây ra nghịch lí trong thanh toán quốc tế.
Từ phía DN
Các doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu kinh nghiệm và hiểu biết trong hoạt động xuất nhập khẩu.
Hầu hết các doanh nghiệp VN khi thanh toán quốc tế không xem kỹ các chứng từ L/C, không hiểu biết đầy đủ các hợp đồng và điều khoản đi kèm; không nắm bắt được một cách đầy đủ về các thủ tục giao nhận hàng, nhận biết đơn hàng cũng như các biện pháp quản lý rủi ro về mặt chứng từ, lãi suất, tỷ giá.
Doanh nghiệp Vịêt Nam chưa có những hiểu biết cần thiết về luật pháp trong kinh doanh quốc tế
Doanh nghiệp xuất - nhập khẩu thiếu hiểu biết về giao dịch bằng L/C cũng như các văn bản pháp luật quốc tế liên quan điều chỉnh về vấn đề thanh toán quốc tế và mua bán hàng hoá quốc tế như UCP, ISBP, Incortems….
Trong quá trình soạn thảo L/C, doanh nghiệp xuất khẩu thường mắc phải sai sót khi lập bộ chứng từ và được biết đến là “sai lầm 3 C” bao gồm các lỗi như: Lỗi không chính xác (not correct); lỗi không hoàn chỉnh (not complete); lỗi không nhất quán (not consistant)
Trong thanh toán xuất nhập khẩu hoặc mở L/C qua mạng, số đông các doanh nghiệp vẫn thiếu kinh nghiệm giao dịch vì vậy rất e ngại với thanh toán điện điều này gây ra khó khắn và nhiều rủi ro cho ngân hàng trong việc phát triển các hình thức TTQT.
Ví dụ: chi nhánh NHNN & PTNT Đà Nẵng đã bị tổn thất 1,1 triệu USD khi thực hiện thanh toán bộ L/C cho nhà xuất khẩu phân lân của Nhật Bản vào Việt Nam, do trình độ của nhà nhập khẩu Việt Nam còn nhiều hạn chế (doanh nghiệp nhà nước – Công ty bảo vệ thực vật và giống cây trồng Đà Nẵng) đã uỷ quyền toàn bộ thủ tục vận chuyển và mua bảo hiểm cho đối tác, trên đường vận chuyển do gặp bão làm ướt hàng hoá và không thể sử dụng được nhưng tài khoản của NHNN&PTNT Đà Nẵng tại ngân hàng đại lý vẫn bị trừ số tiền 1,1 triệu USD còn công ty bảo vệ thực vật và giống cây trồng Đà Nẵng cũng không thanh toán cho ngân hàng. Trong trường hợp này NHNN&PTNT Đà Nẵng là đơn vị chịu thiệt hại 100%.
Từ phía nhà nước
Chính sách thương mại chưa ổn định
Chính phủ và các bộ ngành có liên quan thường xuyên có những thay đổi về danh mục các mặt hàng được phép XNK, biểu thuế áp dụng đối với từng mặt hàng, điều kiện để doanh nghiệp được phép hoạt động XNK, song thời gian kể từ khi ra quyết định đến khi quyết định có hiệu lực thi hành thường là ngắn, không đủ thời gian cho các doanh nghiệp dự tính sắp xếp kế hoạch cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, dẫn tới bị động cho doanh nghiệp. Có những mặt hàng trước kia cho phép nhập khẩu, song do tình trạng hàng nhập về quá nhiều, ảnh hưởng đến sản xuất trong nước nên Chính phủ lại cấm nhập làm cho các doanh nghiệp rất khó khăn trong hướng giải quyết
Các thủ tục hành chính trong hoạt động XNK còn rườm rà
Chưa có sự liên kết phối hợp giữa các ban ngành, các quy định còn chồng chéo gây phiền toái cho khách hàng, tốn kém thời gian và chi phí. Chưa xác định rõ trách nhiệm và quyền lợi của ngân hàng khi tham gia hoạt độngXNK.
Một số văn bản của ngân hàng nhà nước quy định chưa cụ thể
Điều này gây ra sự hiểu biết khác nhau giữa thực tế diễn ra tại các ngân hàng và thanh tra Ngân hàng Nhà nước dẫn đến áp dụng không thống nhất tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng.
CÁC KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG TTQT TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM
Từ thực trạng đã đề cập, chúng ta có thể thấy hoạt động TTQT tại các NHTM của nước ta còn chưa thật sự hiệu quả và dễ gặp rủi ro. Vì vậy chứng ta cần phải đề ra nhiều biện pháp và quyết tâm hoàn thiện hoạt động này. Hiện nay các NHTM của Việt Nam cũng đang có những chính sách dần hoàn thiện mình. Nhưng để những giải pháp này đem lại hiệu quả nhanh chóng còn cần đến sự hỗ trợ từ phía doanh nhiệp, ngân hàng nhà nước và các cơ quan hữu quan khác.
Sau đây là những giải pháp đang được tiến hành và những giải pháp do nhóm đề xuất thêm:
Về phía NHTM
Phát triển quan hệ hợp tác với các NH đại lý nước ngoài.
Việc thiết lập và mở rộng quan hệ đại lý với ngân hàng các nước có ý nghĩa chiến lược trong việc phát triển nghiệp vụ TTQT ở các NHTM. Để hoạt động TTQT nhanh chóng, tiết kiệm chi phí cho khách hàng và nâng cao uy tín trong TTQT của NHTM, thì các ngân hàng cần thiết lập NHĐL nước ngoài với số lượng lớn và trải khắp các châu lục. Để phát triển mối quan hệ với các ngân hàng đại lý và có những thỏa thuận hợp tác toàn diện, đầy đủ với những NHĐL tại những quốc gia là thị trường XNK chủ lực của VN, NHTM nên thường xuyên có những hoạt động như: Tăng cường tiếp xúc và trao đổi học hỏi kinh nghiệm của các ngân hàng có uy tín và tiềm lực tài chính lớn mạnh, tiến hành cử nhân viên của mình sang tập huấn tại ngân hàng bạn để tiếp thu những kiến thức mới,..
Ví dụ như: Trong thời gian qua, nhiều ngân hàng trong nước đã có những cơ hội trong việc hợp tác với các ngân hàng nước ngoài trong việc góp vốn, mở rộng thị trường, phát triển các sản phẩm dịch vụ mới. Như Sacombank có đối tác chiến lược là ANZ của Australia nắm giữ 10% vốn cổ phần và 20% thuộc về Công ty tài chính quốc tế IFC thuộc WB và Dragon Financial Holdings của Anh. Standard Chartered bank của Anh mua 8,56% cổ phần của ACB, hơn 21% vốn cổ phần của đối tác nước ngoài còn lại thuộc về Connaught Investor (Jardine Mutheson Group) và IFC thuộc WB. Hay Citibank là một tập đoàn ngân hàng nổi tiếng, đứng hàng lớn nhất thế giới của Mỹ đã ký hợp đồng hợp tác với NH Đông Á phát triển dịch vụ bán lẻ, kết nối hệ thống thanh toán thẻ của Đông Á với hệ thống thẻ của Citibank, với sự hợp tác này tạo điều kiện cho Citibank có điều kiện mở rộng hoạt động dịch vụ ngân hàng hiện đại tiện ích ở Việt Nam, ngược lại phát triển khách hàng của Citibank tại Mỹ, nhất là Việt kiều chuyển kiều hối về nước qua Đông Á, cũng như mở rộng dịch vụ thẻ của Đông Á tại Mỹ.
Phát triển nguồn nhân lực
Thanh toán quốc tế là một nghiệp vụ phức tạp, nó đòi hỏi cán bội phải không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ, trình độ tiếng anh,... để đáp ứng nhu cầu của khách hàng và thực hiện được mục tiêu của ngân hàng. Để phát triển nguồn nhân lực cần:
Rà soát sắp xếp lại đội ngũ cán bộ làm TTQT, xây dựng tiêu chuẩn cán bộ TTQT, lên kế hoạch đào tạo và đào tạo lại cán bộ TTQT đảm bảo cho việc xử lý chứng từ t