Nghèo là vấn đề quan trọng của Việt Nam trong định hướng Xã hội Chủ
nghĩa, nghiên cứu về nghèo đói giúp các nhà làm chính sách có cơ sở đểra
các quyết định vềphát triển kinh tế- xã hội nói chung cũng như XĐGN
nói riêng. Do đó, yêu cầu bức thiết là phải có thêm nhiều nghiên cứu nghèo
đói ởcấp vùng và cấp địa phương với nhiều cách tiếp cận khác nhau kểcả
định tính và định lượng. Thực hiện nhiều nghiên cứu hơn với những thông
tin chi tiết hơn, chính xác hơn sẽlà bước đầu tiên quan trọng trong mọi
chiến lược phát triển ởViệt Nam.
Với ý nghĩa đó, chúng tôi tiến hành thực hiện đềtài nghiên cứu Các nhân
tốtác động đến nghèo đói ởvùng ven biển ĐBSCL giai đoạn 2003-2004
nhằm xác định các nhân tốchủyếu (mang tính đặc trưng) ảnh hưởng đến
xác suất rơi vào nghèo đói của hộgia đình, từ đó gợi ý chính sách XĐGN
cho Vùng.
72 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3197 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các nhân tố tác động nghèo đói ở vùng ven biển Đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2003-2004, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Nghèo là vấn đề quan trọng của Việt Nam trong định hướng Xã hội Chủ
nghĩa, nghiên cứu về nghèo đói giúp các nhà làm chính sách có cơ sở để ra
các quyết định về phát triển kinh tế - xã hội nói chung cũng như XĐGN
nói riêng. Do đó, yêu cầu bức thiết là phải có thêm nhiều nghiên cứu nghèo
đói ở cấp vùng và cấp địa phương với nhiều cách tiếp cận khác nhau kể cả
định tính và định lượng. Thực hiện nhiều nghiên cứu hơn với những thông
tin chi tiết hơn, chính xác hơn sẽ là bước đầu tiên quan trọng trong mọi
chiến lược phát triển ở Việt Nam.
Với ý nghĩa đó, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài nghiên cứu Các nhân
tố tác động đến nghèo đói ở vùng ven biển ĐBSCL giai đoạn 2003-2004
nhằm xác định các nhân tố chủ yếu (mang tính đặc trưng) ảnh hưởng đến
xác suất rơi vào nghèo đói của hộ gia đình, từ đó gợi ý chính sách XĐGN
cho Vùng.
1
CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU
1.1 Vấn đề nghiên cứu
Việt Nam đạt được nhiều thành tựu về xóa đói giảm nghèo. Tỷ lệ nghèo giảm nhanh từ
58,1% năm 1993 xuống còn 19,5% năm 2004, tương đương 24 triệu người đã thoát
nghèo sau 11 năm. Nếu so với Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc là
giảm tỷ lệ nghèo đói xuống còn một nửa trong giai đoạn dài hơn là 1990-2015 thì quả là
một thành tích đặc biệt. Thế nhưng Việt Nam đang là nước có thu nhập bình quân đầu
người thấp, năm 2004 là 550 USD/người (GSO, 2004) và thoát khỏi nghèo đói vẫn còn là
giấc mơ của hàng triệu người dân. Đại bộ phận dân cư có mức thu nhập chỉ trên ngưỡng
nghèo chút ít nên rất dễ bị tái nghèo nếu có những chấn động kinh tế từ bên ngoài (Báo
cáo cập nhật nghèo, 2006).
Theo GSO (2004), hơn 90% người nghèo sống và làm việc ở nông thôn và 45% dân nông
thôn sống dưới mức nghèo). Họ là những người sản xuất nhỏ hoặc là nông dân không đất
đi làm thuê. Tối đa hoá lợi ích và giảm thiểu rủi ro; đảm bảo rằng người nghèo cũng được
tiếp cận với các cơ hội mới và được hưởng lợi từ quá trình gia nhập WTO cũng như
chống tái nghèo, xuất hiện hình thái nghèo mới là một thách thức lớn lao cho Việt Nam.
Vùng ven biển ĐBSCL, phần lớn là nông thôn, kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp
(trồng lúa và thủy sản) nên tính dễ bị tổn thương đối với nông dân và nông nghiệp ở đây
là rất lớn trong bối cảnh Việt Nam hội nhập WTO. (Tổn thương thường do cạnh tranh
khốc liệt dẫn đến giá nông sản giảm mạnh, nông dân không có trình độ chuyên môn - kỹ
thuật nên khó tìm việc làm phi nông nghiệp… ). Hệ quả là nguy cơ xuất hiện hình thái
nghèo mới khó chữa hơn, chi phí cho thoát nghèo cũng lớn hơn. Do đó, nghiên cứu
nghèo ở vùng này trở nên rất cần thiết cho Chính phủ, Chính quyền địa phương, tổ chức
Chính phủ, và NGOs, từ đó có chính sách XĐGN phù hợp cho Vùng.
Ở Việt Nam, bộ số liệu ĐTMSHGĐ 2004 (do GSO thực hiện năm 2004) cung cấp thông
tin để mô tả tổng quát về đời sống kinh tế - xã hội của hộ gia đình. Ngoài ra, bộ số liệu
này cho phép chúng ta nghiên cứu các chủ đề liên quan đến tình trạng nghèo đói của hộ
-2-
cũng như xem xét liệu một hộ gia đình có khả năng thoát khỏi tình trạng nghèo đói hay
không.
Có nhiều nghiên cứu về nghèo đói cho ĐBSCL với cách tiếp cận thiên về định tính, mô tả
thay vì tiếp cận định lượng nhằm lượng hóa các nhân tố tác động đến khả năng nghèo đói
của hộ gia đình. Với ý nghĩa đó, đề tài “Các nhân tố tác động nghèo đói ở vùng ven
biển Đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2003-2004” sử dụng phương pháp định
lượng xác định các nhân tố tác động đến xác suất nghèo đói của hộ gia đình, từ đó gợi ý
chính sách xóa đói giảm nghèo cho Vùng.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá tình trạng nghèo đói và phân tích nguyên nhân dẫn đến nghèo đói của vùng
ven biển ÐBSCL trong giai đoạn 2003-2004.
Xác định các nhân tố tác động đến xác suất rơi vào nghèo đói của các hộ gia đình
trong Vùng.
Gợi ý chính sách xóa đói giảm nghèo cho Vùng.
1.3 Các giả thuyết nghiên cứu
Khi nghiên cứu về tình trạng nghèo đói của hộ gia đình vùng ven biển ĐBSCL, chúng tôi
giả thuyết rằng nhóm nhân tố kinh tế, xã hội sau sẽ tác động đến xác suất nghèo đói của
hộ:
Nhóm các đặc điểm của hộ gia đình:
• Điều kiện kinh tế của hộ bao gồm tình trạng việc làm của hộ (có việc làm hay thất
nghiệp), loại ngành nghề (nông nghiệp hay phi nông nghiệp);
• Quan hệ xã hội của hộ thể hiện qua trình độ giáo dục phổ thông (số năm đi học,
bằng cấp cao nhất của chủ hộ…); thuộc nhóm dân tộc thiểu số hay không; chủ hộ
là nam hay nữ…
-3-
Nhóm các nhân tố có liên quan đến vai trò Chính phủ:
• Khả năng tiếp cận hạ tầng cơ sở như đường giao thông, trường học, cơ sở y tế…
• Phân bổ đất canh tác, hệ thống tín dụng chính thức ở nông thôn.
Nghiên cứu này sẽ tiến hành phân tích các nhân tố trên và kiểm định tác động của từng
nhân tố đến xác suất rơi vào nghèo đói của hộ.
1.4 Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là các huyện ven biển ở vùng ĐBSCL.
Đơn vị nghiên cứu là các hộ dân cư sống ở vùng ven biển ĐBSCL.
1.5 Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp định lượng: xây dựng mô hình kinh tế lượng xác định những nhân tố
kinh tế, xã hội chủ yếu tác động đến xác suất rơi vào ngưỡng nghèo của hộ gia đình.
Phương pháp thống kê mô tả kết hợp với so sánh và tổng hợp dữ liệu sơ và thứ cấp.
1.6 Đề tài có kết cấu
Ngoài chương mở đầu (chương 1 - giới thiệu), đề tài còn có 4 chương khác.
Chương 2 - Khung lý thuyết về nghèo - trình bày tổng quan các lý thuyết về nghèo đói
liên quan đến các khái niệm, các phương pháp xác định nghèo, các nguyên nhân dẫn đến
nghèo đói theo tiêu chuẩn quốc tế và tiêu chuẩn Việt Nam, từ đó rút ra khung lý thuyết để
làm cơ sở xây dựng mô hình nghiên cứu nghèo đói cho Vùng.
Chương 3 – Phương pháp nghiên cứu – chương này mô tả sơ lược về vùng nghiên cứu,
phương pháp nghiên cứu và nguồn dữ liệu cần thiết cho các mô hình kinh tế lượng.
Chương 4 - Kết quả phân tích – trình bày kết quả phân tích các nhân tố kinh tế, xã hội
liên quan đến nghèo đói Vùng trong mối tương quan với vùng ĐBSCL.
Chương 5 - Gợi ý chính sách XĐGN - nêu ra những gợi ý chính sách về xóa đói giảm
nghèo cho Vùng.
-4-
CHƯƠNG 2 KHUNG LÝ THUYẾT VỀ NGHÈO
2.1 Khái niệm nghèo đói
Nghiên cứu này không hướng đến mục tiêu đưa ra một định nghĩa về nghèo. Vì vậy, phần
này chỉ nhằm lược khảo một số quan điểm về nghèo.
Một khái niệm thường được sử dụng ở Việt Nam là: “nghèo đói là tình trạng một bộ
phận dân cư không có khả năng thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà
những nhu cầu ấy phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, phong tục tập quán
của từng vùng và những phong tục ấy được xã hội thừa nhận.” Khái niệm này được đưa
ra tại hội nghị về chống nghèo đói do Ủy ban kinh tế - xã hội khu vực châu Á - Thái Bình
Dương tổ chức ở Thái Lan năm 1993).
Nhà kinh tế học người Mỹ Galbraith: “Con người bị coi là nghèo khổ khi mà thu nhập
của họ, ngay dù khi thích đáng để họ tồn tại, rơi xuống rõ rệt dưới mức thu nhập của cộng
đồng. Khi đó, họ không thể có những gì mà đa số trong cộng đồng coi như là cái cần thiết
tối thiểu để sống một cách đúng mức.” (Bộ LĐTBXH, 2003)
Tại hội nghị Thượng đỉnh thế giới và phát triển xã hội tổ chức tại Copenhagen, Đan
Mạch năm 1995: “Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn dưới 1 USD một
ngày cho mỗi người, số tiền được coi như đủ để mua những sản phẩm thiết yếu để tồn
tại”.
WB (1990), định nghĩa nghèo là tình trạng “không có khả năng có mức sống tối thiểu”.
Chúng bao gồm tình trạng thiếu thốn các sản phẩm và dịch vụ thiết yếu như giáo dục, y
tế, dinh dưỡng. Nghèo còn là tình trạng bị gạt ra bên lề xã hội hay tình dễ bị tổn thương:
“Xét về mặt phúc lợi, nghèo có nghĩa là khốn cùng. Nghèo có nghĩa là đói, không có nhà
cửa, quần áo, ốm đau và không có ai chăm sóc, mù chữ và không được đến trường.
Nhưng đối với người nghèo, sống trong cảnh bần hàn còn mang nhiều ý nghĩa hơn thế.
Người nghèo đặc biệt dễ bị tổn thương trước những sự kiện bất thường nằm ngoài khả
năng kiểm soát của họ. Họ thường bị các thể chế của nhà nước và xã hội đối xử tàn tệ, bị
-5-
gạt ra bên lề xã hội nên không có tiếng nói và quyền lực trong các thể chế đó” (WB
2001).
Những đoạn trích từ Báo cáo phát triển thế giới 2001 của WB dưới đây cho thấy cái mà
người nghèo nhận thức về cuộc sống nghèo khó của họ:
“Đừng hỏi tôi đói nghèo là gì vì ông đã thấy nó ngay từ bên ngoài nhà tôi. Hãy
quan sát ngôi nhà và xem nó có bao nhiêu lỗ thủng trên đó. Hãy nhìn những đồ
đạc trong nhà và những quần áo tôi đang mang trên người. Hãy quan sát tất cả
và ghi lại những gì ông thấy. Cái mà ông thấy chính là đói nghèo đó.”
Một người nghèo ở Kênia
Don’t ask me what poverty is because you have met it outside my house. Look at
the house and count the number of holes. Look at the utensils and the clothes I
am wearing. Look at everything and write what you see. What you see is poverty.
Poor man, Kenya
“Nghèo đói là sự hổ thẹn, cảm giác phải phụ thuộc vào người khác và buộc phải
chấp nhận sự bạo hành, sỉ nhục, thái độ thờ ơ khi tìm kiếm sự giúp đỡ.”
Một người nghèo ở Latvia
Poverty is humiliation, the sense of being dependent on them, and of being forced
to accept rudeness, insults, and indifference when we seek help.
Poor woman, Latvia
“Nghèo đói đồng nghĩa với nhà ở bằng tranh, tre, nứa, lá tạm bợ, xiêu vẹo, dột
nát; không đủ đất đai sản xuất, không có trâu bò, không có tivi, con cái thất học,
ốm đau không có tiền đi khám chữa bệnh… “
Một người nghèo ở Việt Nam
Tóm lại, tất cả những quan niệm về nghèo đói nêu trên đều phản ánh ba khía cạnh chủ
yếu của người nghèo:
-6-
• Có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân cư.
• Không được thụ hưởng những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu dành cho con người.
• Thiếu cơ hội lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng.
Nghiên cứu này sử dụng định nghĩa của Ngân hàng thế giới về nghèo, đó là tình trạng
“không có khả năng có mức sống tối thiểu”.
2.2 Xác định nghèo đói
Theo Sarah Bales (2001), tiêu chí chung nhất để xác định nghèo đói là mức chi tiêu (hay
thu nhập) để thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người về: ăn, ở, mặc, y tế, giáo dục,
văn hóa, đi lại và giao tiếp xã hội. Sự khác nhau chung nhất thường là ở chỗ thỏa mãn ở
mức cao hay thấp mà thôi, điều này phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội
cũng như phong tục tập quán của từng vùng, từng quốc gia.
Theo WB (2007), có 3 bước để xác định nghèo đói: (i) định nghĩa phúc lợi của hộ gia
đình / cá nhân, (ii) xác định một giá trị chuẩn (tối thiểu) để tách biệt 2 nhóm nghèo và
không nghèo (gọi là ngưỡng nghèo) và (iii) tính toán các chỉ số thống kê tổng hợp dựa
trên mối quan hệ giữa phúc lợi kinh tế và ngưỡng nghèo.
Đo lường phúc lợi nói chung thì phức tạp hơn nhiều, nó rộng hơn chỉ số phúc lợi kinh tế.
Bỡi lẽ phúc lợi còn bao gồm tuổi thọ, chế độ dinh dưỡng, điều kiện nhà ở, tỷ lệ trẻ em
đến trường, tỷ suất tử của trẻ em (WB, 2007). Cách tiếp cận phổ biến nhất trong đo lường
phúc lợi (kinh tế) là dựa vào chi tiêu tiêu dùng hay thu nhập của hộ gia đình. Nếu chúng
ta chia đều cho tất cả các thành viên trong hộ thì được chi tiêu tiêu dùng hay thu nhập
bình quân đầu người (chỉ số phúc lợi kinh tế của cá nhân).
Hầu hết các nước phát triển sử dụng thu nhập (income) để xác định nghèo đói, trong khi
các nước đang phát triển sử dụng chi tiêu (expenditure). Đối với các nước phát triển, thu
nhập phần lớn là từ tiền lương nên dễ xác định, trong khi chi tiêu dùng thì phức tạp và
khó xác định. Ngược lại, ở các nước đang phát triển thu nhập khó tính toán hết bỡi phần
-7-
lớn thu nhập đến từ công việc tự làm (self employment) nhưng rất khó tách biệt, trong khi
chi tiêu thì dễ thấy hơn, rõ ràng hơn (WB, 2005 – trang 36).
Theo Glewwe và Twum-Baah (1991), chi tiêu không những ít bị khai thấp hơn thu nhập
mà nó còn ổn định hơn từ năm này qua năm khác. Do đó, có đủ căn cứ lý thuyết để dùng
các thước đo chi tiêu nhằm phản ánh mức sống.
Theo Alderman và Paxson (1994) và Paxson (1993), ở các nước kém phát triển, thu nhập
của hộ thường biến động theo mùa vụ trong khi chi tiêu dùng tương đối ổn định giữa các
tháng trong năm. Vì thế, chi tiêu tiêu dùng phản ánh mức sống của hộ tốt hơn con số thu
nhập.
Hình 2.1
Đường thu nhập và chi tiêu trong năm của hộ gia đình
Nguồn: WB (2007).
Phương pháp xác định ngưỡng nghèo theo chuẩn quốc tế. Theo WB (1990), ngưỡng
nghèo đói ở mức thấp gọi là ngưỡng nghèo đói lương thực-thực phẩm (LT-TP). Ngưỡng
nghèo đói ở mức cao hơn gọi là ngưỡng nghèo đói chung (bao gồm cả mặt hàng LT-TP
và phi LT-TP).
Ngưỡng nghèo đói LT-TP đo lường mức chi tiêu cần thiết để đảm bảo một hộ gia đình có
thể đủ mua được một lượng LT-TP để cung cấp cho mỗi thành viên trong hộ một lượng
calo là 2100 calo 1 ngày. Ví dụ, nếu sử dụng chuẩn nghèo này thì Việt Nam có 10,9%
-8-
người nghèo năm 2002. Nhưng phương pháp này có hạn chế là nó không tính đến các
khoản chi tiêu cho việc tiêu dùng các hàng hóa phi LT-TP, mặc dù các hàng hóa này
cũng cần thiết cho các nhu cầu cơ bản của con người.
Ngưỡng nghèo chung đo lường chi phí để mua đủ một lượng hàng hóa LT-TP cung cấp
lượng calo là 2100 calo và một số mặt hàng phi LT-TP. Trở ngại ở đây là việc xác định
một cách phù hợp lượng hàng hóa LT-TP. Ví dụ, theo ngưỡng này Việt Nam có 28,9%
người nghèo, cao hơn so với ngưỡng nghèo LT-TP.
Ở Việt Nam, Bộ LĐTBXH dựa trên điều tra gồm những câu hỏi về tài sản và về thu nhập
từ các nguồn khác nhau. Thu nhập từ tất cả các nguồn này được cộng lại, chia cho số
người trong hộ, và so sánh với một trong ba chuẩn nghèo tùy theo xã đó thuộc vùng nào.
Năm 2001, chuẩn nghèo ở thành thị 150.000 VNĐ/tháng/người; nông thôn vùng đồng
bằng là 100.000 VNĐ, nông thôn miền núi, vùng sâu và hải đảo là 80.000 VNĐ. Tỷ lệ
nghèo có thể được tính bằng tỷ lệ dân số sống dưới chuẩn nghèo trong xã, huyện, hoặc
tỉnh. (Quyết định số 1143/2000/QĐ-LĐTBXH ngày 01/11/2000, áp dụng từ năm 2001).
Phương pháp này bị phê phán vì hai lý do: Thứ nhất, về mặt lý luận, các mốc thu nhập
dùng để phân loại hộ nghèo ở những loại xã khác nhau có tính chủ quan, và chưa chắc đã
so sánh được. Một hộ thành thị có thu nhập đầu người 150.000 VNĐ/tháng có thể nghèo
hơn hoặc giàu hơn một hộ có thu nhập là 80.000 đồng/tháng ở vùng sâu hay miền núi.
Sau khi xác định được ngưỡng nghèo, chúng ta tính toán một số chỉ tiêu thống kê tóm tắt
để mô tả quy mô, mức độ và tính nghiêm trọng của đói nghèo. Những thống kê này bao
gồm chỉ số đếm đầu người (xác định tỷ lệ đói nghèo), khoảng cách đói nghèo (xác định
mức độ sâu của đói nghèo), bình phương khoảng cách đói nghèo (xác định tính nghiêm
trọng của đói nghèo). Theo Foster, Greer và Thorbecke (1984) thì có 3 thước đo xác định
mức độ nghèo đói này có thể tính bằng công thức sau:
( )∑
= ⎥⎦
⎤⎢⎣
⎡ −=
P
i
i
z
yz
N
P
1
1 α
α (1)
-9-
Trong đó, yi là đại lượng xác định phúc lợi (thường là chi tiêu bình quân đầu người) cho
người thứ i , z là ngưỡng nghèo, N là số người có trong mẫu dân cư, P là số người nghèo
và α có thể diễn giải như là đại lượng đo mức độ quan tâm đến sự bất bình đẳng giữa
những người nghèo.
Khi α = 0, đẳng thức trên tương đương P/N, tức là bằng số người nghèo chia cho tổng số
người ở trong mẫu. Thước đo xác định quy mô đói nghèo được sử dụng rất phổ biến này
được gọi là tỷ số đếm đầu người hay chỉ số đếm đầu người khi chuyển sang tính dưới
dạng %. Mặc dù chỉ số đếm đầu người dễ được diễn giải song nó không nhạy cảm với
khoảng cách của những người nghèo so với ngưỡng nghèo.
Khi α = 1, ta có chỉ số khoảng cách nghèo đói. Chỉ số này cho biết sự thiếu hụt trong chi
tiêu của các hộ nghèo so với ngưỡng nghèo và nó được biểu hiện như mức trung bình của
tất cả mọi người trong tổng thể. Khoảng cách nghèo đói được tính đơn giản như là tổng
của tất cả các khoảng cách nghèo đói ở trong tổng thể, có thể được sử dụng để xác định
chi phí tối thiểu để xoá bỏ nghèo đói trong điều kiện mọi khoản chuyển nhượng được
chuyển đến đúng đối tượng.
Khi α = 2, ta có chỉ số bình phương khoảng cách nghèo đói. Chỉ số này thể hiện mức độ
nghiêm trọng của nghèo đói và làm tăng thêm trọng số cho nhóm người nghèo nhất trong
số những người nghèo (Nghèo, 2000).
2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến tình trạng nghèo đói
Theo WB (2007), các nhân tố có thể ảnh hưởng đến tình trạng nghèo đói được tóm tắt ở
bảng 2.1:
-10-
Bảng 2.1
Các nhân tố gây ra tình trạng nghèo đói
Phân theo đặc tính Các nhân tố
Cấp độ vùng
(Regional-level
characteristics)
• Sự cách biệt về địa lý/xã hội do thiếu hạ tầng cơ sở; hạn chế trong
việc tiếp cận các loại thị trường và các dịch vụ xã hội.
• Nguồn lực cơ bản như đất đai và chất lượng đất đai
• Điều kiện tự nhiên (thời tiết…)
• Quản lý Nhà nước
• Bất bình đẳng
Cấp độ cộng đồng
(Community level
characteristics)
• Hạ tầng cơ sở (điện, nước, đường giao thông…)
• Phân bổ đất đai
• Khả năng tiếp cận các hàng hóa và dịch vụ công (y tế, giáo dục)
Cấp độ hộ gia đình
(Household
characteristics)
• Quy mô hộ
• Tỷ lệ phụ thuộc (phần trăm số người trưởng thành không có hoạt
động taọ thu nhập)
• Giới tính của chủ hộ
• Tài sản của hộ gia đình: đất đai, phương tiện sản xuất, nhà cửa…
• Tỷ lệ có việc làm của những thành viên trưởng thành trong hộ,
loại việc làm chính, tự làm hay làm thuê…và theo nguồn thu nhập
nhập chính của hộ…
• Trình độ học vấn trung bình của hộ
-11-
Phân theo đặc tính Các nhân tố
Đặc điểm cá nhân
(Individual
characteristics)
• Tuổi
• Giáo dục (số năm đi học, bằng cấp cao nhất)
• Việc làm (tình trạng việc làm, loại công việc)
• Dân tộc (có hay không có thuộc nhóm dân tộc thiểu số)
Nguồn: WB (2007).
2.3.1 Nghề nghiệp, tình trạng việc làm
Theo BCPTVN (2000), nghèo đói là một hiện tượng mang tính đặc thù của nông thôn,
các tính toán về tỷ lệ nghèo theo nghề nghiệp và theo loại chủ lao động cũng chỉ ra rằng
những người sống ở dưới ngưỡng nghèo thường là thành viên của những hộ có chủ hộ là
nông dân tự do. Trong năm 1998, gần 80% người nghèo làm việc trong nông nghiệp và là
những người lao động tự do.
Theo Sarah Bales (2001), tỷ lệ người nghèo năm 1998 trong ngành nông nghiệp ở mức
cao, 47% đối với lao động tự làm trong nông nghiệp và 55,4% đối với lao động làm thuê
trong nông nghiệp. Các ngành có tỷ lệ nghèo đói thấp nhất là dịch vụ, đặc biệt là ngành
thương mại, khách sạn – nhà hàng và công việc nhà nước. Các chỉ số về khoảng cách
nghèo đói P1 (biều hiện mức độ thiếu hụt) và chỉ số bình phương khoảng cách nghèo P2
(mức độ nghiêm trọng của vấn đề nghèo đói) cho thấy nghèo đói của những người làm
thuê trong nông nghiệp là lớn nhất, kế đến là những người tự làm nông nghiệp (bảng 2.2).
Như vậy, với tỷ trọng lao động trong nông nghiệp chiếm nhiều nhất và có tỷ lệ nghèo cao
nhất, người nghèo là nông dân vẫn chiếm phần lớn người nghèo ở Việt Nam.
-12-
Bảng 2.2
Thay đổi chỉ số nghèo đói của Việt Nam 1993-1998
Tỷ lệ nghèo đói (%)
1992-1993 1997-1998
P0 P1 P2 P0 P1 P2
Tự làm nông nghiệp 66,4 19,7 8,3 47,0 12,3 4,7
Làm thuê nông nghiệp 67,6 22,9 10,2 55,4 14,9 5,5
Tự làm công nghiệp, xây dựng 39,5 13,7 5,3 21,0 4,2 1,3
Làm thuê công nghiệp, xây dựng 36,4 12,8 4,9 20,6 4,4 1,4
Thương mại, khách sạn và nhà hàng 24,2 8,9 3,3 11,2 1,8 0,5
Chính phủ, Đảng và các tổ chức xã hội 21,0 6,1 2,2 9,1 1,7 05
Dịch vụ khác 30,1 10,7 4,2 15,4 3,4 1,2
Cả nước 53,3 16,6 6,8 34,6 8,7 3,2
Nguồn: Sarah Bales (2001).
Vũ Hoàng Đạt và các tác giả (2006) phát hiện thấy việc chuyển đổi trong nghề nghiệp của
chủ hộ gia đình từ nông nghiệp sang sản xuất phi nông nghiệp hoặc kinh doanh thương mại
làm giảm nguy cơ hộ gia đình rơi vào nghèo đói.
Theo MDPA (2004), nghèo đói có gắn chặt với nông nghiệp và lưu ý rằng phần lớn các
hộ nghèo sống ở nông thôn và chỉ trồng lúa. Một nghiên cứu của AusAID 2003 cũng cho
thấy rằng tỷ lệ nghèo đói cấp tỉnh ở vùng ĐBSCL có tương quan tỷ lệ thuận