Nền kinh tế Việt Nam đã và đang phát triển với tốc độ rất đáng lạc quan theo cơ chế thị trường. Sau hơn 20 năm đổi mới và mở cửa đã có những chuyển biến tích cực, hợp tác và giao lưu thương mại ngày càng phát triển. Nhưng trong bối cảnh đó thì các quan hệ thương mại ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp. Các quan hệ này không chỉ được thiết lập giữa các chủ thể kinh doanh trong nước mà còn mở rông tới các tổ chức nước ngoài. Chính vì vậy tranh chấp thương mại là điều không thể tránh khỏi và cần được quan tâm giải quyết kịp thời.
Các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại (KDTM) ngày càng có những bước đi ổn định và bước đầu khẳng định được vị trí của mình trong việc giải quyết các tranh chấp KDTM. Hệ thống pháp luật điều chỉnh củng ngày một hoàn thiện để đáp ứng hoạt động thực tiễn. Luật thương mại được quốc hội thông qua ngày 14/6/2005, đã đánh dấu rất ý nghĩa của quá trinh hoàn thiện khung pháp lý về hoạt động thương mại.
Tuy nhiên, Luật thương mại được ban hành 2005 chủ yếu điều chỉnh các quan hệ về pháp luật nội dung, còn các quy định về luật hình thức không được đề cập nhiều trong các quy định của văn bản luật này mà phần lớn viện dẫn đến các văn bản của luật khác. Đây là một khó khăn cho việc giải quyết các tranh chấp trong KDTM.
Thực tế trong thời gian qua, cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp về KDTM, các quy định về trình tự, thủ tục và cách thức tiến hành giải quyết các tranh chấp chủ yếu viện dẫn đến pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, bộ Luật tố tụng dân sự năm 2004 (BLTTDS2004) và các văn bản liên quan. Điều đó đòi hỏi việc xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn thiện, đồng bộ và thống nhất trong việc giải quyết các tranh chấp KDTM. Đồng thời các cơ quan chuyên nghành phải có những hướng dẫn cụ thể trong giải quyết tranh chấp phát sinh trong KDTM để đảm bảo niềm tin và bình đẳng cho các chủ thể tham gia vào hoạt động thương mại. Có như thế thì mới tạo nên động lực thu hút các chủ thể tham gia vào hoạt động KDTM và để hoạt động KDTM trở thành một lĩnh vực phát triển sôi động cho nền kinh tế.
Bên cạnh đó, việc phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực KDTM hiện nay là yêu cầu chính đáng để nhìn nhận rõ hơn về tính hiệu quả của việc áp dụng các quy phạm pháp luật, đồng thời là cơ sở để đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm góp phần hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động KDTM nước nhà.
Xuất phất từ lý do trên, em đã chọn đề tài “các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại và thực tiễn ap dụng taị Việt Nam” để làm đề tài niên luận của mình.
31 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 7324 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại và thực tiễn ap dụng ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU trang
Tính cấp thiết của đề tài 1
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2
Phạm vi nghiên cứu 2
Phương pháp nghiên cứu 3
Cơ cấu của niên luận 3
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ CÁC PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHÂP KINH DOANH - THƯƠNG MẠI 4
1.1.Khái quát về tranh chấp kinh doanh thương mại 4
1.1.1.Khái niệm và đặc điểm 4
1.1.2.Các hình thức giải quyết tranh chấp KDTM 6
1.2.Quy định của pháp luật về các phương thức giải quyết tranh chấp trong KDTM 15
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THƯƠNG MẠI VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT GÓP PHẦN HOÀN THIỆN 18
2.1.Thực trạng áp dụng các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Việt Nam 18
2.1.1.Tinh hình kinh tế xã hội ở Việt Nam 18
2.2.2.Thực tiển hoạt động giải quyết tranh chấp ở Việt Nam trong thời gian qua 19
2.2.Một số đề xuất 26
KẾT LUẬN 28
TÀI LIỆU THAM KHẢO 29
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nền kinh tế Việt Nam đã và đang phát triển với tốc độ rất đáng lạc quan theo cơ chế thị trường. Sau hơn 20 năm đổi mới và mở cửa đã có những chuyển biến tích cực, hợp tác và giao lưu thương mại ngày càng phát triển. Nhưng trong bối cảnh đó thì các quan hệ thương mại ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp. Các quan hệ này không chỉ được thiết lập giữa các chủ thể kinh doanh trong nước mà còn mở rông tới các tổ chức nước ngoài. Chính vì vậy tranh chấp thương mại là điều không thể tránh khỏi và cần được quan tâm giải quyết kịp thời.
Các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại (KDTM) ngày càng có những bước đi ổn định và bước đầu khẳng định được vị trí của mình trong việc giải quyết các tranh chấp KDTM. Hệ thống pháp luật điều chỉnh củng ngày một hoàn thiện để đáp ứng hoạt động thực tiễn. Luật thương mại được quốc hội thông qua ngày 14/6/2005, đã đánh dấu rất ý nghĩa của quá trinh hoàn thiện khung pháp lý về hoạt động thương mại.
Tuy nhiên, Luật thương mại được ban hành 2005 chủ yếu điều chỉnh các quan hệ về pháp luật nội dung, còn các quy định về luật hình thức không được đề cập nhiều trong các quy định của văn bản luật này mà phần lớn viện dẫn đến các văn bản của luật khác. Đây là một khó khăn cho việc giải quyết các tranh chấp trong KDTM.
Thực tế trong thời gian qua, cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp về KDTM, các quy định về trình tự, thủ tục và cách thức tiến hành giải quyết các tranh chấp chủ yếu viện dẫn đến pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, bộ Luật tố tụng dân sự năm 2004 (BLTTDS2004) và các văn bản liên quan. Điều đó đòi hỏi việc xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn thiện, đồng bộ và thống nhất trong việc giải quyết các tranh chấp KDTM. Đồng thời các cơ quan chuyên nghành phải có những hướng dẫn cụ thể trong giải quyết tranh chấp phát sinh trong KDTM để đảm bảo niềm tin và bình đẳng cho các chủ thể tham gia vào hoạt động thương mại. Có như thế thì mới tạo nên động lực thu hút các chủ thể tham gia vào hoạt động KDTM và để hoạt động KDTM trở thành một lĩnh vực phát triển sôi động cho nền kinh tế.
Bên cạnh đó, việc phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực KDTM hiện nay là yêu cầu chính đáng để nhìn nhận rõ hơn về tính hiệu quả của việc áp dụng các quy phạm pháp luật, đồng thời là cơ sở để đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm góp phần hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động KDTM nước nhà.
Xuất phất từ lý do trên, em đã chọn đề tài “các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại và thực tiễn ap dụng taị Việt Nam” để làm đề tài niên luận của mình.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: niên luận đề cập đến những nét chính về các phương thức giải quyết tranh chấpểtng linh vực KDTM tại Viẹt Nam, những quy định của pháp luật Việt Nam trong việc giải quyết các tranh chấp phát sinhtrong hoạt động KDTM và thực trang giải quyết các tranh chấp đó hiện nay ở Việt Nam.
Phạm vi nghiêm cứu: Nghiên cứu các văn bản pháp luật về việc giải quyết các tranh chấp trong linh vực KDTM như pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, luật thương mại năm 2005, bộ luật tố tụng dân sụ năm 2004; các văn bản pháp luật lien quan và các văn bản hương dẫn thi hành. Đồng thời tìm hiểu thực trạng giải quyết tranh chấp hiện nay trong lĩnh vực KDTM tại Việt Nam để làm rõ các yêu cầu của đề tài đặt ra.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài có mục đích tìm hiểu các quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp trên lĩnh vực KDTM tại Việt Nam; tìm hiểu thực trạng của việc giả quyết các tranh chấp phát sinh trên linh vực KDTM. Từ nhữnh nghiên cứu đó ngườ thực nhiệ đề tài muốn trình bày quan điểm của mình về nhưng yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp trong linh vực KDTM ở nước ta hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Người viết niên luận sử dung phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa mac- lênin về vấn đề nhà nước và pháp luật để nghiên cứu và thực hiện đề tài.
Đồng thời người viết sử dụng phương pháp tổng hợp và phân tích để nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành để giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực KDTM. Và dùng phương pháp so sánh, thống kê khảo sát để vừa đối chiếu các quy định các quan điểm khac nhau; vừa thu thạp xử lý số liệu nhầm làm sáng tỏ các vấn đề cần trình bày trong niên luận.
5. Cơ cấu của niên luận
Ngoài phần mở đầu phần kết luận bố cục chính của đề tài bao gồm hai chương:
Chương 1: Khái quát về các phương thức giải quyết tranh chấp
Chương 2: Thực trạng giải quyết tranh chấp trong hoạt động kinh doanh thương mại Việt Nam và một số đề xuất góp phần hoàn thiện.
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ CÁC PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH - THƯƠNG MẠI
1.1: Khái quát về tranh chấp kinh doanh thương mại.
1.1.1: Khai niệm và đặc điểm.
Tranh chấp kinh doanh thương mại hay còn gọi là tranh chấp thương mại là nhưng thuật ngữ hay được sử dụng trên thế giới. Ở Việt Nam trong mấy năm gần đây phát sinh khái niệm tranh chấp KDTM được sử dụng thay thế cho khái niệm “tranh chấp kinh tế” trước đây.
Nhìn chung, ‘tranh chấp kinh tế’, “tranh chấp KDTM” đều được hiểu là những xung đột, bất đồng về quyền, lợi ích kinh tế giữa các chủ thể trong quá trình xác lạp và giải quyết các quan hệ kinh tế hoạc KDTM.
Theo quan điêm trươc đây theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung các trnh chấp này được gọi là các tranh chấpp kinh tế. Tranh chấp kinh tế ở thời kỳ này chủ yếu tồn tại dưới dạng các trnh chấp về việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế.
Sau khi chuyển đổi nền kinh tế, hệ thống pháp luật Việt Nam đã được ban hành cụ thể hơn quy định về các tranh chấp được gọi là các tranh chấp kinh tế. Pháp lệnh giải quyết các vụ án kinh tế ngày 16/3/1994 và nghị định số 116/CP ngày 5/9/1994 cũng đã liệt kê các tranh chấp kinh tế thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án kinh tế và Trọng tài kinh tế.
Các tranh chấp kinh tế được các văn bản pháp luật thời kỳ này xác định, bao gồm:
Thứ nhất, các tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữi phấp nhân với pháp nhân, giữa pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh.
Thứ hai, các tranh chấp giữa các thành viên công ty với công ty; tranh chấp giữa thành viên công ty với nhau trong quá trình thành lập, hoạt động và giải thể công ty.
Thứ ba, tranh liên quan đến việc mua bán các loại cổ phiếu, trái phiếu;
Thứ tư, các tranh chấp kinh tế khác theo quy định của pháp luật.
Với nội dung như vậy, tranh chấp kinh tế cũng đã mở rộng hơn về các loại tranh chấp so với thời kỳ kế hoach hoá. Tuy nhiên, hiện nay, khái niệm và nội hàm các đinh như vậy chưa bao hàm được bản chất của các loại tranh chấp phát sinh trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay.
Khái niệm “kinh doanh”, ‘thương mại” được đề cập trong luật doanh nghiệp năm 1999 (sau này cũng được quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật doanh nghiệp năm 2005) là một khái niệm rộng, bao hàm cả hoạt động kinh doanh, thương mại của các thương nhân.
“Kinh doanh” được hiểu là việc thực hiện liên tục một, một số hoạc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ưng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Khái niệm “kinh doanh” trong Luật doanh nghiệp tương đồng với khái niệm “hoạt động thương mại’ quy định trong Luật thương mại.
Từ đó, khái niệm “tranh chấp kinh doanh , thương mại” ra đời là hoàn toàn phù hợp với nội dung và bản chất của các tranh chấp trên thị trương hiện nay. Nó cũng hoàn toàn phù hợp với pháp luật quốc tế (công ước New York năm 1958, hiệp định thương mại Việt Mỹ năm 2000 và WTO).
Theo quan điểm hiện nay, trong điều kiện của nền kinh tế thị trường ở nước ta, có sụ tham gia của nhiều thành phần kinh tế, kéo theo sụ đa dang về đối tượng chủ thể và lợi ích cần bảo vệ; hoạt động KDTM ngày càng đa dạng, không ngưng phát triển trong tất cả moi lĩnh vực kinh doanh sản xuất, thương mại và dịch vụ.
Vì vậy, tranh chấp KDTM trong nền kinh tế thị trương hiện nay ở Việt Nam phát sinh nhiều dạng tranh chấp mới, có nhưng biểu hiện đa dạng về nội dung và mức đọ khác nhau như: tranh chấp giữa thành viên công ty với công ty; tranh chấp giữa thành viên công ty với nhau trong quá trình thành lập, hoạt động và giải thể công ty; tranh chấp liên quan đến việc mua bán các loai cổ phiếu, trái phiếu; tranh chấp trong các lĩnh vực quảng cáo, bảo hiểm, kế toán, tư vấn, giám định; tranh chấp liên quan đến hối phiếu và sec; tranh chấp liên quan đến việc bảo hộ bí mật thương mại.
So với các tranh chấp trong lĩnh vực xã hội khác nhau như lao động hành chính, hôn nhân và gia đình, tranh chấp KDTM có nhưng đặc điểm như sau:
Thứ nhất, Nội dung các tranh chấp luôn là những mâu thuẫn về các lợi ích kinh tế, tài sản. Điều đó là do mục đích cơ bản củ mọi hoạt động kinh doanh là sinh lời và đối tượng đầu tư cũng như cái mà người kinh doanh nhằm đạt được sau quá trình đầu tư đều là tài sản.
Thứ hai, Chủ thể của các hoạt động phát sinh tranh chấp đều là những người kinh doanh. Những người kinh doanh có tâm lý mong muốn xác định quan hệ ổn định, lâu dài trên cơ sở hợp tác, tin cậy lẵn nhau.
Mỗi bên đều có mục đích tối đa lợi ích kinh tế khin tham gia các quan hệ kinh doanh và trong quan hệ này, nghĩa vụ của chủ thể này là quyền tương ung của chủ thể kia. Vì thế các tranh chấp phát sinh sẽ đe doạ ảnh hương xấu đến mục đích và hiệu quả hoạt động của các doanh nhân trong điều kiện lợi ích kinh tế của các bên phụ thuộc, ảnh hương lẫn nhau.
Thứ ba, những tranh chấp KDTM phát triển gắn liền với các hoạt động kinh doanh. Hoạt động kinh doanh vốn rất đa dạng, chịu sự tác động, điều tiết của các quy luật và yếu tố riêng của thị trường,chẳng hạn như quy luật cung cầu, sự biến đổi quy luật của giá cả.
Những tranh chấp phát sinh trong hoạt động KDTM cũng vì thế mà có những biến đổi về biểu hiện, mức độ và cả về đòi hỏi, cách thức giải quyết giữa các bên.
1.1.2 Các hình thức giải quyết tranh chấp KDTM
Việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp nói riêng cũng như mọi vấn đề liên quan đến quá trình giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh nói chung dựa trên nguyên tắc quan trọng là quyền tự định đoạt của các bên.
Cơ quan nhà nước và Trọng tài thương mại can thiệp theo yêu cầu của các bên tranh chấp. kể cả khi Tòa án hoặc Trọng tài đã can thiệp trong quá trình tố tụng, quyền tự định doạt biểu hiện bằng những hành vi đơn phương hoặc thoả thuận của các bên luôn được ghi nhận và tôn trọng. Quyền tự định doạt của các bên được coi là một nội dung của quyền tự do kinh doanh và được pháp luật bảo hộ.
Pháp luật hiện hành của Việt Nam, trong các văn bản pháp luật quốc gia cung như trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên đều ghi nhận nguyên tắc này.
Khái quát lại, các phương thức để quyết tranh chấp trong KDTM bao gồm: Thương lượng; Hoà giải; Trọng tài; Tòa án.
Thương lượng
Thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp trong chấp trong KDTM mà không cần đến vai trò của người thứ ba. Đặc điểm cơ bản của phương thức thương lượng là các bên cùng nhau trình bày quan điểm, chính kiến, tìm các biện pháp thích hợp và đi đến thống nhất thoả thuận đẻ tự giải quyết các bất đồng.
Thương lượng là phương thức tốt nhất để giải quyết tranh chấp trong KDTM vì nó đáp ứng được những yêu cầu đã nêu trên. Tự thương lượng là phương thức được các bên tranh chấp tự nguyện chọn lựa trươc tiên và trong thực tiễn, phần lớn tranh chấp trong kinh doanh được giải quyết bằng phương thức này.
Phương thức này đã từ lâu được giới thương nhân ưa chuộng vì nó đơn giản lại không bị ràng buộc bởi các thủ tuc pháp lý phiền phức, ít tốn kém hơn và điều quan trọng, nó không làm phương hại đến quan hệ hơp tác vốn có giữa các bên trong kinh doanh cũng như giữ được bí mật kinh doanh của các bên.
Với những ưu điểm riêng của mình, phương thức giải quyết tranh chấp KDTM bằng thương lượng đã trở thành phương thức phổ biến của các tập doàn kinh doanh lớn trên thế giới đạc biệt là các tập đoàn kinh doanhhoạt động trong các lĩnh vực tài chính ngân hàng, bảo hiểm, chướng khoán… vì nó bảo vệ một cách có hiệu quả những bí mật trong kinh doanh của họ.
Bản chất của thương lượng được thể hiện qua các nội dung sau:
Một là, phương thức thương lượng được thực hiện bởi cơ chế tự giải quyết thông qua việc các bên tranh chấp tự gặp nhau bàn bạc, thoả thuận để tự giải quyết những bất đồng phát sinh mà không cần có sự hiện diện của bên thứ ba để trợ giúp hay ra phán quyết.
Hai là, quá trình thương lương của các bên cung không chịu sự ràng buộc của bất kỳ nguyên tắc pháp lý hay những quy định mang tinh khuôn mẫu nào của pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp. Pháp luật Việt Nam mới chỉ dừng lại ở việc ghi nhận là một phương thức giải quyết tranh chấp thương mại mà không có bất kỳ quy đinh nào chi phối giải quyết tranh chấp KDTM bằng phương thức thương lượng.
Ba là, việc thực thi kết quả thương lượng hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện của các bên tranh chấp mà không có bất kỳ cơ chế pháp lý nào bảo đảm việc thực thi đối với thoả thuận của các bên trong quá trình thương lượng.
Thương lượng đòi hỏi trước hết các bên phải có thiện chí, trung thực, hợp tác và phải có đầy đủ những kiến thức, am hiểu về chuyên môn và pháp lý. Thương lượng thật sự đã trở thành quá trình trao đổi, bày tỏ ý chí giữa các bên để tìm giải pháp thích hợp nhất.
Do vậy, trong thương lượng, các bên tiến hành bàn bạc, trao đổi ý kiển, thoả thuận thông qua “hành vi giao dịch” cần phải đảm bảo các điều kiện pháp lý đặt ra. Đó là: chế định đại diện, chế định uỷ quyền, giao dịch dân sự, năng lực hành vi…
Giải quyết tranh chấp bằng thương lượng thực chất được thực hiện bởi cơ chế nội bộ (cơ chế tự giải quyết) và hoàn toàn xuất phát từ cơ chế tự giải quyết của các bên tranh chấp mà không có sự can thiệp củ bất kỳ cơ quan nhà nước hoặc của bất kỳ người thứ ba nào. Giải quyết tranh chấp thương mại bằng phương thức thương lượng là sự thể hiện quyền tự do thoả thuận, tự do định đoạt của các bên tranh chấp. Các bên tự đề xuất các giải pháp và thỏa hiệp với nhau theo trình tự thủ tục tự chọn để giải quyết các bất đồng phát sinh mà không bắt buộc phải tuân thao một thủ tục pháp lý nào. Do thể thức đơn giản, ít phiền hà, hiệu quả, ít tốn kém, không gây ra ảnh hướng xấu trong quan hệ kinh doanh giữa các bên sau tranh chấp mà thương lượng luôn là phương thức ưa chuộng, phổ biến, được các thương nhân ưu tiên lựa chọn trước khi tìm đến các giải pháp khác để giải quyết các tranh chấp KDTM. Quá trình thương lượng đẻ giải quyết các tranh chấp KDTM có thể được tiến hành bằng nhiều cách thức: thương lượng trực tiếp, thương lượng gián tiếp và kết hợp thương lượng trực tiếp với thương lượng gián tiếp.
* Ưu điểm nổi bật của phương thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng là thuân tiện, đơn giản, nhanh chóng, tính linh hoạt, hiệu quả và ít tồn kém. Mặt khác giải quyết tranh chấp KDTM bằng thương lượng còn bảo vệ được uy tín của các bên tranh chấp cũng như bí mật trong kinh doanh của các nhà kinh doanh. Nếu thương lương thành công không những các bên đã loại bỏ được bất đồng phát sinh mà mức độ phương hại đến mối quan hệ kinh doanh giữa các bên cũng thấp, tă cương sự hiểu biết và hợp tác lẫn nhau trong tương lai.
* Bên cạnh nhưng ưu điểm thì phương thức giải quyết tranh chấp KDTM bằng thương lượng cũng có những hạn chế nhất định. Thương lương thành công hay không thành công tuỳ thuộc và sự hiểu biết và thái độ thiện chí của các bên tranh chấp. Khi mà các bên thiếu sự hiểu biết về lĩnh vưc đang tranh chấp, không nhận thức được vị thế của mình về khả năng thắng thua, thiếu sự thiện chí trung thực trong quá trình thương lượng thì khả năng thành công là rất mong manh, kết quả thương lương thương bế tắc.
Ngoài ra, kết quả thương lượng không được đảm bảo bằng cơ chế pháp lý mang tính bắt buộc . Kết quả thương lượng phụ thuộc vào sự tự nguyên của các bên phải thi hành. Nếu một bên không tự nguyên thi hành thì kết quả thương lượng cững chỉ tồn tại trên giấy mà không có cơ chế trưc tiếp nào bắt buộc thi hành.
Nhưng hạn chế này đễ bị lạm dụng trong thực tiễn giải quyết tranh chấp KDTM. Nhiều trường hợp do thiếu sự thiện chí mà đã tìm mọi cách trì hoãn kéo dài vụ tranh chấp, nhất là khi thời hiệu khởi kiện không còn nhiều.
Hoà giải
Hoà giải là phương thức giải quyết tranh chấp KDTM mà trong đó các bên trong đó các bên trong quá trình thương lượng với nhau có sụ tham gia của các bên thứ ba độc lập do hai bên cung chấp nhận hay chỉ định làm vai trò trung gian để hỗ trợ cho các bên nhằm tìm kiếm những giải pháp thích hợp cho việc giai quyết xung đột bất đồng để chấm dứt các tranh chấp các tranh chấp phát sinh giữa các bên tham gia quan hệ.
Hoà giải là giải pháp mang tính tự nguyện, tuỳ thuộc vào sự lựa chọn của các bên. Đặc biệt là bên thứ ba với tính chất trung gian hoà giải phải có vị trí độc lập đối với các bên. Điều đó thể hiện rõ bên thứ ba không ở vị trí xung đột lợi ích với các bên hoặc không có những lợi ích gắn liền với lợi ích của một trong các bểntong các vụ việc đang có tranh chấp. Bên thứ ba tham gia làm trung gian hoà giải thường là những cá nhân, tổ chúc có trình độ chuyên môn cao và có kinh nghiệm về những vụ việc có liên quan đến các vụ việc phát sinh. Công việc của bên thứ ba là; xem xét, phân tích, đánh giá và dưa ra những ý kiến, nhận định , bình luận về chguyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ để các bên tham khảo lựa chọn và quyết định.
Bản chất của hoà giải được thể hiện qua những đặc trưng sau đây:
Thứ nhất, việc giải quyết tranh chấp phát sinh trong KDTM bằng phương pháp hoà giải đã có sụ hiện diện của bên thứ ba (do các bên lựa chọn) làm trung gian để trợ giúp các bên tìm kiếm giải pháp tối ưu nhằm loại trừ tranh chấp.
Điểm khác biệt cơ bản giữa hoà giải và thương lượng là trong hoà giải luôn có sụ xuất hiện của người thứ ba tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp còn thương lượng là sự tự giải quyết tranh chấp giữa các bên mà không có sụ hiện diện của người thứ ba.
Tuy nhiên, bên thứ ba làm trung gian hoà giải không có quyền quyết định hay áp đặt bất cứ vấn đề gì nhằm ràng buộc các bên tranh chấp. Quyết định cuối cùng vẫn thuộc về các bên tranh chấp khi họ thống nhất được ý chí với nhau về giải quyết vụ tranh chấp trên cơ sở hướng dẫn, trợ giúp của người thứ ba làm trung gian hoà giải.
Tuy cùng có sụ tham gia của người thứ ba vào quá trình giải quyết tranh chấp nhưng hoà giải khác với phương thức giải quyết tranh chấp thương mại trọng tài hay Tòa án bởi vai trò của người thứ ba. Trong tài hay Tòa án với vai trò là người thứ ba tham gia vào giải quyết vụ tranh chấp lại có thẩm quyền ra phán quyết để ràng buộc các bên tranh chấp.
Thứ hai, quá trình hoà giải các bên tranh chấp cũng không chịu sự chi phối bởi các quy định có tính khuôn mẫu, bắt buộc của pháp luật về thủ tục hoà giải.
Cũng giống như thương lượng, pháp luật hiện hành của Việt Nam, không có quy định nào ràng buộc, chi phối đến cơ chế hoà giải ngoài các quy định có tính chất ghi nhận thương lương, hoà giải là những phương thức giải quyết tranh chấp được các bên ưu tiên lựa chọn để giải quyết tranh chấp phát sinh.
Thứ ba: kết quả hoà giải thành được thực thi cũng hoàn toàn phụ thuộc vào sụ tự nguyện của các bên tranh chấp mà không có bất kỳ cơ chế pháp lý nào bảo đảm thi hành những