Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là giai đoạn của tố tụng hình sự trong đó tòa án có thẩm quyền tiến hành xem xét, giải quyết vụ án, ra bản án, quyết định tố tụng theo qui định của pháp luật.
Quá trình tiến hành giải quyết vụ án hình sự trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, trong đó có thể nói việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đóng vai trò quan trọng.
Vì vậy việc nghiên cứu những qui định của pháp luật về thủ tục tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Trong giai đoạn này qua việc xét hỏi và tranh luận dân chủ, công khai tại phiên tòa, hội đồng xét xử kiểm tra, đánh giá lại toàn bộ những chứng cứ, tình tiết của vụ án đã có trong hồ sơ và tại phiên tòa để đưa ra phán quyết cuối cùng. Nhận thức được ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này, em lựa chọn đề tài “ ” để thực hiện bài tập học kì.
14 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 4296 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Các quy định chung về thủ tục tố tụng tại phiên toà sơ thẩm và việc hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề này, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
I. Các qui định chung của Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm.
1. Bắt đầu phiên tòa
2. Xét hỏi tại phiên tòa
3. Tranh luận tại phiên tòa
4. Nghị án và tuyên án
II. Thực tiễn thi hành các qui định của pháp luật đối với thủ tục tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm .
1. Về thủ tục bắt đầu tại phiên tòa
2. Về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa.
3. Về tranh luận tại phiên tòa.
4. Về nghị án và tuyên án.
III. Một số kiến nghị góp phần hoàn thiện qui định của pháp luật về thủ tục tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm.
1. Hoàn thiện qui định về thủ tục bắt đầu tại phiên tòa.
2. Hoàn thiện qui định về thủ tục xét hỏi.
3. Hoàn thiện qui định về thủ tục tranh luận.
Đề bài :
MỞ ĐẦU
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là giai đoạn của tố tụng hình sự trong đó tòa án có thẩm quyền tiến hành xem xét, giải quyết vụ án, ra bản án, quyết định tố tụng theo qui định của pháp luật.
Quá trình tiến hành giải quyết vụ án hình sự trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, trong đó có thể nói việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đóng vai trò quan trọng.
Vì vậy việc nghiên cứu những qui định của pháp luật về thủ tục tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Trong giai đoạn này qua việc xét hỏi và tranh luận dân chủ, công khai tại phiên tòa, hội đồng xét xử kiểm tra, đánh giá lại toàn bộ những chứng cứ, tình tiết của vụ án đã có trong hồ sơ và tại phiên tòa để đưa ra phán quyết cuối cùng. Nhận thức được ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này, em lựa chọn đề tài “ ” để thực hiện bài tập học kì.
NỘI DUNG
Các quy định chung của Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm.
Phiên tòa sơ thẩm phải được xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục. Thành phần của Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có một Thẩm phán và hai Hội thẩm; trong trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì Hội đồng xét xử có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm.
Bắt đầu phiên tòa.
- Khi bắt đầu phiên tòa, chủ tọa phiên tòa đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử, sau đó, Thư ký Tòa án báo cáo danh sách những người đã được triệu tập có mặt, Chủ tọa phiên tòa kiểm tra căn cước của những người đó và giải thích quyền và nghĩa vụ của họ tại phiên tòa.
- Chủ tọa phiên tòa hỏi Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng xem họ có đề nghị thay đổi Thẩm phán, Hội Thẩm, Kiểm sát viên, người giám định, người phiên dịch, Thư ký Tòa án không? Nếu có yêu cầu thì Hội đồng xét xử xem xét và quyết định.
- Chủ tọa phiên tòa giới thiệu họ tên, nghề nghiệp hoặc chức vụ của người phiên dịch, người giám định, giải thích rõ quyền và nghĩa vụ của họ. Những người này phải cam đoan làm tròn nhiệm vụ.
- Chủ tọa phiên tòa giải thích rõ quyền và nghĩa vụ của người làm chứng sau khi họ đã hỏi tên, nghề nghiệp nơi cư trú của người làm chứng. Người làm chứng phải cam đoan không khai gian dối. Nếu người làm chứng là người chưa thành niên thì không phải cam đoan.
- Chủ tọa phiên tòa hỏi Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng xem ai có đề nghị triệu tập thêm người làm chứng hoặc đề nghị đưa thêm vật chứng hoặc tài liệu ra xem xét không. Nếu người làm tham gia tố tụng vắng mặt thì chủ tọa phiên tòa cũng phải hỏi xem có ai đề nghị hoãn phiên tòa hay không. Nếu có người yêu cầu thì Hội đồng xét xử xem xét và quyết định.
Xét hỏi tại phiên tòa.
Trước khi tiến hành xét hỏi, Kiểm sát viên đọc bản cáo trạng và trình bày ý kiến bổ sung nếu có. Sau đó, Hội đồng xét xử tiến hành việc xét hỏi để xác định các tình tiết về từng việc và về từng tội đã truy tố. Việc xét hỏi được tiến hành như sau:
Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến các Hội thẩm, sau đó đến Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Bị cáo và những người có lợi ích được giải quyết trong vụ án cũng có quyền đề nghị với chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ. Chủ tọa phiên tòa có quyền bác những câu hỏi không liên quan đến vụ án. Kết hợp với việc xét hỏi, Hội đồng xét xử xem xét những vật chứng có liên quan đến vụ án.
Nếu người được xét hỏi có mặt tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử và Kiểm sát viên không được nhắc hoặc công bố lời khai của họ tại Cơ quan điều tra trước khi họ khai tại phiên tòa về những tình tiết của vụ án; chỉ được công bố lời khai của họ tại Cơ quan điều tra trong trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 208 BLTTHS.
Khi xét hỏi, Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên phải tuân theo quy định chặt chẽ về chủ thể xét hỏi (chủ thể có quyền và chủ thể bị xét hỏi), thủ tục xét hỏi, nội dung xét hỏi, cách thức xét hỏi cũng như trường hợp nào được và không được xét hỏi…(quy định từ điều 207 đến Điều 216).
Nếu xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử có thể cùng với Kiểm sát viên và những người tham gia phiên tòa đến xem xét nơi đã xảy ra tội phạm hoặc những địa điểm khác có liên quan đến vụ án, xem xét tại chỗ những vật chứng không thể đưa đến phiên tòa được.
Việc trình bày nhận xét, báo cáo của cơ quan, tổ chức về những tình tiết của vụ án, do đại diện cơ quan tổ chức đó tiến hành. Trường hợp không có đại diện cơ quan tổ chức đó thì Hội đồng xét xử công bố nhận xét hoặc báo cáo tại phiên tòa. Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng tại phiên tòa có quyền nhận xét về những tài liệu đó và hỏi thêm những vấn đề có liên quan.
Khi xét thấy những tình tiết của vụ án đã được xem xét đầy đủ thì chủ tọa phiên tòa hỏi Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, và những người khác tham gia phiên tòa xem họ có yêu cầu hỏi thêm vấn đề gì nữa không? Nếu có người yêu cầu và xét thấy yêu cầu đó là cần thiết thì chủ tọa phiên tòa quyết định tiếp tục việc xét hỏi, nếu không có yêu cầu gì nữa thì chủ tọa phiên tòa chuyển sang việc tranh luận.
Tranh luận tại phiên tòa.
Việc tranh luận tại phiên tòa được tiến hành như sau:
Trước hết , Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung cáo trạng hoặc kết luận về tội danh nhẹ hơn.
Trường hợp thấy không có căn cứ để kết tội thì Kiểm sát viên phải rút toàn bộ quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo không có tội. Theo quy định tại khoản 1 Điều 217 BLTTHS 2003 thì luận tội của Kiểm sát viên phải căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên tòa, vào ý kiến của người bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa.
Sau khi Kiểm sát viên trình bày lời luận tội , bị cáo được trình bày lời bào chữa. Nếu bị cáo có người bào chữa thì người bào chữa sẽ bào chữa cho bị cáo, bị cáo có quyền bổ sung ý kiến bào chữa.
Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ được trình bày ý kiến để bảo vệ quyền lợi của mình. Nếu có người bảo vệ quyền lợi của đương sự tham gia, thì họ có quyền trình bày, bổ sung ý kiến để bảo vệ quyền lợi cho người mà mình bảo vệ.
Sau khi người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trình bày ý kiến về luận tội của KSV và đưa ra đề nghị của mình, KSV phải đưa ra những lập luận của mình đối với từng ý kiến có liên quan đến vụ án. Trường hợp vụ án có nhiều người bào chữa cho bị cáo và những người bào chữa đều có cùng ý kiến về nội dung bào chữa thì KSV có thể tổng hợp để đối đáp chung một lần cho các ý kiến đó. Nếu có hai KSV cùng tham gia phiên tòa thì cần có sự phân công cụ thể về nội dung (chứng cứ, lập luận) để đáp lại từng ý kiến có liên quan.
Trường hợp giữa những người tham gia tranh luận có ý kiến khác nhau thì họ có quyền phản bác lại ý kiến mà mình không đồng ý.
Trong quá trình tranh luận, nếu xét thấy cần xem xét thêm chứng cứ mới thì HĐXX phải có quyền quyết định trở lại việc xét hỏi, xét hỏi xong phải tiếp tục tranh luận (Điều 219 BLTTHS).
Sau khi những người tranh luận tham gia tranh luận không còn trình bày gì thêm, chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc tranh luận và bị cáo nói lời sau cùng. Khi bị cáo nói lời sau cùng, HĐXX không được đặt câu hỏi, không được hạn chế thời gian. Nếu trong lời nói sau cùng, bị cáo trình bày thêm tình tiết mới có ý nghĩa quan trong đối với vụ án thì HĐXX phải quay trở lại việc xét hỏi.
Nghị án và tuyên án.
Nghị án
Sau khi kết thúc tranh luận, HĐXX vào phòng nghị án để thảo luận và quyết định bản án. Chỉ các thành viên của HĐXX mới được tham gia nghị án. KSV và thư ký Tòa án không được tham gia nghị án. Thẩm phán có nhiệm vụ giải thích cho Hội thẩm biết những quy định của pháp luật và đường lối xét xử cần được áp dụng trong việc xử lý vụ án. Trên cơ sở đó HĐXX xem xét đầy đủ, toàn diện những chính cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, những ý kiến luận tội của VKS, những lời bào chữa, ý kiến của bị cáo và ý kiến của những người khác có lợi ích cần được giải quyết trong vụ án. Trong bản án phải có phân tích những chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội.
Khi nghị án, HĐXX phải xem xét tất cả các vấn đề trong vụ án và giải quyết bằng cách thảo luận dân chủ, biểu quyết theo đa số từng vấn đề. Thẩm phán tôn trọng ý kiến của Hội thẩm và biểu quyết sau cùng. Thẩm phán phải lập biên bản nghị án ghi lại các ý kiến đã thảo luận và quyết định của HĐXX. Nếu HĐXX có hai Thẩm phán thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phát biểu hoặc biểu quyết sau cùng. Việc nghị án phải được lập thành văn bản.
Nội dung nghị án là các vấn đề liên quan đến việc quyết định tội danh, hình phạt, biện pháp tư pháp, xử lí vật chứng và các vấn đề khác…Nếu qua việc Nghị án, HĐXX thấy có tình tiết của vụ án chưa được xét hỏi hoặc xét hỏi chưa đầy đủ thì HĐXX quyết định trở lại việc xét hỏi và tranh luận.
Sau khi kết thúc nghị án, các thành viên của HĐXX phải kí vào biên bản nghị án trước khi tuyên án. Thành viên của HĐXX có ý kiến thiểu số khác thì có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản riêng và đưa vào hồ sơ vụ án.
Tùy theo tính chất của vụ án đã được giải quyết, nếu có căn cứ xác định bị cáo không có tội, HĐXX tuyên bố bị cáo không có tội, nếu xác định được bị cáo có tội thì HĐXX ra bản án tuyên bố bị cáo có tội. Nếu trong quá trình nghị án, VKS rút quyết định truy tố không có căn cứ thì phải quyết định tạm đình chỉ vụ án và kiến nghị với VKS cấp trên. Bản án đánh dấu sự kết thúc của toàn bộ quá trình điều tra, xét xử nên nội dung phải phản ánh những kết quả của phiên tòa và ý kiến phân tích, đánh giá của HĐXX. Thẩm phán chủ tọa có nhiệm vụ viết bản án.
Cùng với việc ra bản án, Tòa án ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng những biện pháp cần thiết khắc phục nguyên nhân và điều kiện phạm tội tại các cơ quan, tổ chức đó.
Tuyên án
Sau khi thông qua bản án thì HĐXX trở lại phòng xử án để tuyên án, thủ tục tuyên án được quy định cụ thể tại Điều 226 BLTTHS 2003.
Trong những trường hợp được quy định tại Điều 227 BLTTHS HĐXX phải tuyên bố trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo đang bị tạm giam, nếu họ không bị tạm giam vì một tội khác.
Ngoài ra, vấn đề bắt tạm giam bị cáo sau khi tuyên án phải theo đúng quy định tại Điều 228 BLTTHS 2003.
Thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật đối với thủ tục tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm và các hạn chế cần khắc phục.
Về thủ tục bắt đầu tại phiên tòa.
Điều 202 BLTTHS đã quy định: “những người tham gia tố tụng phải được chủ tọa phiên tòa hỏi xem họ có đề nghị thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm...”, tương tự Điều 205 quy định: “Chủ tọa phiên tòa phải hỏi KSV và những người tham gia tố tụng xem có ai yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng…”. Như vậy, dựa vào câu chữ trong điều luật có thể hiểu là người làm chứng và người giám định, người phiên dịch cũng có quyền yêu cầu, đề nghị trên. Tuy nhiên, về bản chất họ không có quyền lợi và nghĩa vụ trực tiếp trong vụ án, việc tham gia phiên tòa của họ là nhằm giúp cho việc xác định sự thật khách quan của vụ án tại phiên tòa. Do đó, BLTTHS không quy định họ có quyền như những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa như: không có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, không có quyền tranh tụng tại phiên tòa…Vì thế việc sử dụng cụm từ “những người tham gia tố tụng” trong các Điều 202 và Điều 205 BLTTHS là không chính xác.
Một số điều trong chương XIX còn trùng lặp về nội dung, ví dụ: Điều 201 BLTTHS đã quy định về việc chủ tọa phiên tòa kiểm tra căn cước, giải thích quyền và nghĩa vụ của những người được triệu tập, gồm cả người làm chứng, người giám định và người phiên dịch. Đến Điều 204 lại tiếp tục quy định về vấn đề này.
Vấn đề cách ly người làm chứng: nội dung Khoản 2 Điều 204 đã mâu thuẫn với nội dung Khoản 1 Điều 211 BLTTHS, vì Khoản 2 Điều 204 quy định là chủ tọa phiên tòa “có thể” cách ly để những người làm chứng không nghe được lời khai của nhau, có nghĩa là việc cách ly không bắt buộc, ngược lại, Điều 211 lại quy định việc cách ly những người làm chứng luôn là việc bắt buộc. Quy định mẫu thuẫn này dẫn tới một thực trạng là tại các phiên tòa sơ thẩm, việc cách ly người làm chứng thường ít được quan tâm và thực hiện. Thực tiễn xét xử cho thấy, hầu như các Tòa án không tuân thủ theo Điều 211 BLTTHS về việc cách ly người làm chứng mà thường để những người làm chứng ngồi luôn trong phòng xử án.
Về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa.
Theo quy định của BLTTHS thì sau khi đọc bản cáo trạng, Kiểm sát viên có quyền trình bày ý kiến bổ sung nếu có (Điều 206). Tuy nhiên, BLTTHS lại không quy định cụ thể Kiểm sát viên được bổ sung cho nội dung cáo trạng như thế nào? Do đó, thực tiễn xét xử đã nảy sinh nhiều quan điểm không thống nhất giữa những người tiến hành tố tụng tại phiên tòa về nội dung này.
Khoản 3 Điều 209 BLTTHS quy định Kiểm sát viên xét hỏi bị cáo về những tình tiết liên quan đến việc buộc tội và gỡ tội cho bị cáo tại phiên tòa. Quy định này dẫn đến cách hiểu là Kiểm sát viên thực hiện cả chức năng gỡ tội và chức năng buộc tội cho bị cáo tại phiên tòa. Tuy nhiên theo quy định tại Điều 23 BLTTHS thì Kiểm sát viên chỉ thực hiện quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Như vậy, sẽ là mâu thuẫn nếu như Kiểm sát viên thực hiện cả việc buộc tội và gỡ tội cho bị cáo tại phiên tòa.
Việc Điều 207 BLTTHS quy định cho Hội đồng xét xử xét hỏi trước Kiểm sát viên và tham gia xét hỏi quá nhiều như vậy khiến cho Hội đồng xét xử mất đi vai trò là một vị trọng tài công bằng, không thiên vị để có những nhận định đúng đắn về vụ án; khiến cho Hội đồng xét xử đang chứng minh, buộc tội bị cáo, trong khi Kiểm sát viên có chức năng đó nhưng lại không tích cực thực hiện.
Về tranh luận tại phiên tòa.
Tại Điều 217 BLTTHS quy định: “Luận tội của Kiểm sát viên phải căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên tòa và ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa”. Nhưng ở Khoản 1 Điều 217 thì Kiểm sát viên trình bày lời luận tội sau khi kết thúc việc xét hỏi tại phiên tòa, trước khi những người tham gia tố tụng phát biểu ý kiến. Như vậy,vào thời điểm trình bày lời luận tội, Kiểm sát viên chưa thể biết ý kiến của những người tham gia tố tụng tại phiên tòa như thế nào vì họ chưa trình bày ý kiến, do đó có thể xảy ra trường hợp Kiểm sát viên chưa thể biết hết được các tình tiết thật sự của vụ án.
Hạn chế trong quy định về trình tự tranh luận: Đối với các vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, theo quy định tại Khoản 3 Điều 51 BLTTHS thì người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ được trình bày lời luận tội tại phiên tòa. Tuy nhiên, BLTTHS chưa quy định cụ thể trình tự phát biểu lời buộc tội của họ như thế nào.
Bên cạnh đó, BLTTHS quy định về thứ tự phát biểu ý kiến tranh luận chưa hợp lý, theo quy định thì sau khi Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, bị cáo hoặc người bào chữa sẽ trình bày lời bào chữa. Tuy nhiên, tại phiên tòa, người bào chữa và bị cáo không chỉ bào chữa đối với quan điểm, lập luận của Kiểm sát viên mà còn bào chữa đối với quan điểm buộc tội của người bị hại và những người tham gia tố tụng khác (nguyên đơn dân sự, người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự). Vì vậy, nếu để bị cáo hoặc người bào chữa trình bày lời bào chữa trước khi người bị hai, đại diện hợp pháp của người bị hại…trình bày ý kiến thì sẽ không hợp lý.
Theo quy định của BLTTHS, bị cáo có quyền tự bào chữa cho mình, tuy nhiên, cơ chế để bị cáo có thể thực hiện quyền này vẫn chưa đảm bảo, còn thiếu những quy định nhằm tạo điều kiện cho bị cáo thực hiện quyền tự bào chữa.
Về nghị án và tuyên án.
BLTTHS không quy định cụ thể ai là người có trách nhiệm tổng hợp các ý kiến thảo luận hoặc các quyết định được biểu quyết thông qua để ghi chép vào biên bản nghị án. Biên bản nghị án là một văn bản tố tụng có ý nghĩa pháp lý quan trọng, nó là cơ sở để đánh giá các quy định, bản án của Tòa án có hợp lý hay không, có đúng với việc nghị án của Hội đồng xét xử trong thực tiễn hay không? Vì vậy, việc quy định cụ thể về các nội dung liên quan tới biên bản nghị án và người phụ trách ghi biên bản là hết sức cần thiết.
Một số ý kiến góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật về thủ tục tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm.
Hoàn thiện quy định về thủ tục bắt đầu tại phiên tòa.
Thứ nhất , BLTTHS nên quy định cụ thể về việc khai mạc phiên tòa, bởi lẽ: mặc dù việc khai mạc phiên tòa chỉ là vấn đề hình thức, nhưng lại có ý nghĩa đánh dấu sự khởi đầu của giai đoạn xét xử vụ án hình sự tại một phiên tòa. Mặt khác, tuy BLTTHS không quy định cụ thể về khai mạc phiên tòa nhưng thực tiễn các chủ tọa phiên tòa vẫn khai mạc phiên tòa. Do vậy, để tạo ra sự thống nhất trong thực tiễn xét xử, đồng thời cũng phù hợp với lý luận chung, theo em BLTTHS nên quy định cụ thể về việc khai mạc phiên tòa.
Thứ hai , BLTTHS nên quy định cụ thể về thời hạn hoãn phiên tòa trong trường hợp bị cáo đề nghị hoãn phiên tòa vì chưa nhận được Bản cáo trạng hoặc quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật. Theo em nên quy định thời hạn hoãn phiên tòa trong trường hợp này là 15 ngày kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa. Trong trường hợp này, Viện kiểm sát hoặc Tòa án phải tống đạt ngay cáo trạng hoặc quyết định đưa vụ án ra xét xử cho bị cáo. Quy định về thời hạn hoãn phiên tòa như vậy vừa đảm bảo cho việc thực hiện quyền bào chữa của bị cáo, vừa không ảnh hưởng tới tiến độ giải quyết vụ án, đồng thời tránh được sự tùy tiện về thời gian trong việc hoãn phiên tòa.
Thứ ba, về mặt bố cục của BLTTHS, bố cục của các điều luật trong Chương XIX cũng cần được xắp xếp lại cho hợp lý hơn theo hướng gộp những quy định có tính chất, nội dung giống nhau vào trong cùng một điều luật; loại bỏ những nội dung trùng lặp… Cụ thể, Chương XIX BLTTHS có lẽ nên được sửa đổi và bổ sung như sau:
Điều 201: Bổ sung thêm quy định về việc khai mạc phiên tòa; bỏ nội dung kiểm tra căn cước và giải thích quyền và nghĩa vụ của những người được triệu tập.
Điều 202 (mới): Gộp nội dung kiểm tra căn cước và giải thích quyền và nghĩa vụ của người được triệu tập tham gia phiên tòa tại Điều 201 (cũ) với Điều 203 (cũ), Khoản 1 Điều 204 (cũ) thành Điều 202 (mới).
Điều 203 (mới): Chuyển Điều 202 (cũ) thành Điều 203 (mới); sửa cụm từ “Kiểm sát viên” thành “Công tố viên”; thêm từ “có quyền, lợi ích liên quan đến vụ án” vào sau cụm từ “những người tham gia tố tụng”.
Điều 204 (mới): Chuyển Điều 205 (cũ) thành Điều 204 (mới); sửa cụm từ “Kiểm sát viên” thành “Công tố viên”; thêm cụm từ “thuộc bên buộc tội và bên bào chữa” sau đoạn “những người tham gia tố tụng”.
Hoàn thiện quy định về thủ tục xét hỏi.
Để các chủ thể của hoạt động tố tụng tại phiên tòa thực hiện đúng, đầy đủ chức năng của mình tại phiên tòa BLTTHS cần phải quy định lại về trình tự xét hỏi. Theo đó, Kiểm sát viên là người hỏi chính và hỏi trước, làm rõ các tình tiết của vụ án để chứng minh cho quyết định truy tố của Viện kiểm sát là có căn cứ; sau đó đến người bào chữa xét hỏi phục vụ cho việc bào chữa; tiếp đến là người khác có thẩm quyền hỏi theo quy định của pháp luật; Hội đồng xét xử có thể tham gia xét hỏi kết hợp, xen kẽ trong quá trình những người nói trên xét hỏi nếu thấy xuất hiện chứng cứ mới cần được làm rõ hoặc hỏi thêm những nội dung những người khác đã hỏi nhưng chưa rõ. Đồng thời, khi đã phân định rõ các chức năng gỡ tội và buộc tội của các chủ thể tại phiên