Trong thực tế, có những sự vật như máy móc, phương tiện, hệ thống tải điện, dây chuyền sản xuất trong nhà máy . mà bản thân hoạt động của chúng luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại cho môi trường xung quanh. Mặc dù chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ đã tìm mọi cách phòng ngừa, vận hành chúng an toàn nhưng thực tế vẫn có những thiệt hại khách quan bất ngờ xảy ra nằm ngoài sự kiểm soát đó. Vậy, nguồn nguy hiểm cao độ là gì ? Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được xác định như thế nào ? Và trên thực tế, việc áp dụng các quy định của pháp luật có liên quan đến vấn đề này còn những điểm gì đáng quan tâm ?
21 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2052 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. MỞ ĐẦU
Trong thực tế, có những sự vật như máy móc, phương tiện, hệ thống tải điện, dây chuyền sản xuất trong nhà máy ... mà bản thân hoạt động của chúng luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại cho môi trường xung quanh. Mặc dù chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ đã tìm mọi cách phòng ngừa, vận hành chúng an toàn nhưng thực tế vẫn có những thiệt hại khách quan bất ngờ xảy ra nằm ngoài sự kiểm soát đó. Vậy, nguồn nguy hiểm cao độ là gì ? Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được xác định như thế nào ? Và trên thực tế, việc áp dụng các quy định của pháp luật có liên quan đến vấn đề này còn những điểm gì đáng quan tâm ?
B. NỘI DUNG
I. Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra :
1. Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra :
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại được đề cập đến từ rất sớm trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, phải đến khi BLDS 1995 ra đời, thì các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại mới được quy định một cách chi tiết. Trên cơ sở đó, BLDS 2005 đã kế thừa và phát triển, tiếp tục hoàn thiện hơn nữa các quy phạm liên quan đến vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trong đó có trường hợp bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
“ Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lý được phát sinh dựa trên các điều kiện do pháp luật quy định khi một chủ thể có hành vi gây thiệt hại cho các lợi ích được pháp luật bảo vệ.” (1) : Theo TS. Lê Đình Nghị (chủ biên), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam tập 2, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2010, tr 191.
Theo quy định tại Điều 604 BLDS 2005, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh khi người có hành vi trái pháp luật có lỗi gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ; đồng thời trong một số trường hợp đặc biệt được pháp luật quy định, trách nhiệm này phát sinh cả khi không có lỗi của người gây thiệt hại.
Từ khái niệm tổng quát về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, căn cứ theo khoản 2, khoản 3 Điều 623 BLDS 2005, có thể hiểu : “ Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được hiểu là trách nhiệm của chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp của nguồn nguy hiểm cao độ và do sự hoạt động tự thân của nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho người khác, phải bồi thường thiệt hại kể cả trong trường hợp chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ không có lỗi.” (2) : Theo TS. Phùng Trung Tập, Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản, sức khỏe và tính mạng, Nxb. Hà Nội, Hà Nội, 2009, tr 259.
Như vậy, có thể thấy, để áp dụng quy định bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra tại Điều 623 BLDS 2005, cần làm rõ khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ. Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ được ghi nhận tại đoạn 1 khoản 1 Điều 623 BLDS 2005; trên cơ sở này, Tòa án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong đó có hướng dẫn về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra đã xác định: “ Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.” (3) : Trích khoản 1 Điều 623 BLDS 2005, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2009, tr 263.
Như vậy, pháp luật không đưa ra khái niệm tổng quát về nguồn nguy hiểm cao độ mà chỉ định nghĩa dưới dạng liệt kê các đối tượng được coi là nguồn nguy hiểm cao độ. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào tính chất của sự vật như mức độ nguy hiểm cũng như khả năng kiểm soát của con người đối với sự vật đó, có thể hiểu: “ Nguồn nguy hiểm cao độ là những vật chất nhất nhất định do pháp luật quy định luôn tiềm ẩn nguy cơ gây thiệt hại cho con người, con người không thể kiểm soát được một cách tuyệt đối.” (4) : Theo TS. Lê Đình Nghị (chủ biên), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam tập 2, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2010, tr 208.
Ví dụ phương tiện giao thông vận tải cơ giới bao gồm phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không như xe ô tô, xe gắn máy, tàu thủy, tàu hỏa, máy bay,... là nguồn nguy hiểm cao độ. Tuy nhiên để xác định những phương tiện giao thông cơ giới nào là nguồn nguy hiểm cao độ cần dựa trên các quy định cụ thể tại các văn bản pháp luật có liên quan khác như Luật Giao thông đường bộ 2008, Luật Hàng hải 2005, Luật Đường sắt 2005,... Hệ thống tải điện cũng được xác định là nguồn nguy hiểm cao độ. Căn cứ theo khoản 10 Điều 3 Luật Điện lực 2004: “ Hệ thống tải điện Quốc gia là hệ thống các trang thiết bị phát điện, lưới điện, các trang thiết bị phụ trợ được liên kết với nhau và được chỉ huy thống nhất trong phạm vi cả nước.” (5) : Theo khoản 10 Điều 3 Luật Điện lực 2004.
, có thể hiểu khái quát thế nào là hệ thống tải điện để từ đó xác định những trang thiết bị điện như: máy biến áp, đường dây tải điện, đèn cao áp, ... cũng nằm trong danh mục nguồn nguy hiểm cao độ theo quy định tại khoản 1 Điều 623 BLDS 2005. Ngoài ra, cũng theo quy định tại điều luật này, thú dữ như hổ, báo, sư tử,... các loại vũ khí quân dụng, vũ khí thể thao; nhà máy công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ; thuốc nổ, pháo, thuốc súng; chất độc bảng A, chất phóng xạ;... đang trong quá trình vận hành cũng được liệt kê vào danh sách nguồn nguy hiểm cao độ.
2. Đặc điểm và điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra :
Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cũng là một loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, để xác định trường hợp nào áp dụng nguyên tắc bồi thường thiệt hại nói chung theo Điều 604 BLDS 2005, trường hợp nào áp dụng quy định về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cần căn cứ vào đặc điểm riêng, sự khác biệt cũng như điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
2.1. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra :
Trên thực tế, việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một trong những vấn đề hết sức khó khăn, phức tạp. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ được áp dụng khi thỏa mãn các điều kiện sau :
Một là, những sự vật được coi là nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại phải đang trong tình trạng vận hành, hoạt động như: phương tiện giao thông đang tham gia giao thông trên đường; cháy, chập hệ thống tải điện; nhà máy công nghiệp đang hoạt động; ... bởi chỉ trong tình trạng vận hành, hoạt động, những đối tượng được coi là nguồn nguy hiểm cao độ mới thực sự tiềm ẩn mối đe dọa gây nguy hiểm lớn cho người, vật và môi trường xung quanh và khi đó, con người mới không thể hoàn toàn điều khiển, chế ngự được chúng, sự cố xảy ra gây thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ đang ở trạng thái hoạt động nằm ngoài khả năng kiểm soát của con người. Nếu thiệt hại xảy ra khi nguồn nguy hiểm cao độ đang ở trạng thái không hoạt động ( trạng thái tĩnh ) ví dụ: xe ô tô dừng đỗ trên đỉnh dốc nhưng theo quán tính trượt xuống chân dốc gây thiệt hại; cột điện bị đổ trong lúc đang thi công, chưa có điện; thú dữ chết thối rữa gây dịch bệnh thì không thể coi đó là thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Hai là, có thiệt hại thực sự xảy ra do chính sự tác động của bản thân nguồn nguy hiểm cao độ hoặc do hoạt động nội tại của nguồn nguy hiểm cao độ mà không phải là do sự tác động bới hành vi có dấu hiệu lỗi của con người. Nghĩa là mối quan hệ giữa sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ với thiệt hại xảy ra phải là mối quan hệ phổ biến, biện chứng. Đây là trường hợp hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ hoàn toàn độc lập với ý chí, nằm ngoài sự kiểm soát, chế ngự của con người. Ví dụ : xe máy đang chạy với tốc độ cao đột nhiên mất phanh, mất lái hoặc nổ lốp gây ra thiệt hại; cháy, chập đường dây tải điện; cháy nổ trong nhà máy do trục trặc kỹ thuật… sẽ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra tại Điều 623 BLDS 2005. Điều kiện này đòi hỏi hoạt động nội tại của nguồn nguy hiểm cao độ phải là nguyên nhân tất yếu, có ý nghĩa quyết định dẫn đến thiệt hại. Khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, điểm mấu chốt quan trọng là xác định thiệt hại đó do nguyên nhân nào gây ra. Những trường hợp thiệt hại có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ nhưng do tác động của con người, do hành vi của con người gây ra thì chỉ cần áp dụng nguyên tắc chung của trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Ba là, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ chỉ được đặt ra khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho những “người xung quanh” - là những người bị thiệt hại mà không có quan hệ lao động hoặc sở hữu liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ nhằm để bảo vệ quyền được bồi thường cho những người này. Đối với chủ sở hữu, họ phải tự chịu mọi rủi ro đối với thiệt hại do tài sản của mình gây ra. Đối với người bị thiệt hại trong khi sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo nghĩa vụ lao động, họ sẽ được hưởng bồi thường theo chế độ bảo hiểm tai nạn lao động.
2.2. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra :
Xuất phát từ hai điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, có thể khẳng định, về đặc điểm, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một loại trách nhiệm dân sự về tài sản và trách nhiệm dân sự này không cần điều kiện lỗi.
Thứ nhất, cũng giống như điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ được xác định khi có thiệt hại xảy ra trên thực tế. Thiệt hại theo khái niệm chung được hiểu là sự giảm bớt những lợi ích vật chất của cá nhân, pháp nhân, tổ chức hoặc Nhà nước về sức khỏe, tính mạng, tài sản, uy tín, danh dự, nhân phẩm, thi thể, mồ mả... được xác định bằng một khoản tiền và những chi phí hợp lí, phù hợp nhằm khắc phục những tổn thất về vật chất, tinh thần cho chủ thể bị thiệt hại. Tuy nhiên, thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ mang tính chất thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe chứ không bao gồm thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín hay thi thể, mồ mả... Bởi xuất phát từ chính đối tượng gây thiệt hại là nguồn nguy hiểm cao độ được xác định theo khoản 1 Điều 623 BLDS 2005 như: phương tiện giao thông cơ giới, hệ thống tải điện, thú dữ, vũ khí,... đồng thời thiệt hại xảy ra do bản thân nội tại nguồn nguy hiểm cao độ đang trong tình trạng hoạt động chứ không phải bởi hành vi trái pháp luật có yếu tố lỗi của con người nên rõ ràng, nguồn nguy hiểm cao độ chỉ có thể gây ra thiệt hại về tính mạng, sức khỏe và tài sản chứ không thể dẫn tới thiệt hại về uy tín, danh dự, nhân phẩm.
Thứ hai, nếu lỗi là một trong các điều kiện cơ bản làm phát sinh trách nhiệm trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra lại dựa trên sự suy đoán trách nhiệm của chủ sở hữu hay người quản lý nguồn nguy hiểm cao độ. Xuất phát từ việc trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ phát sinh khi thiệt hại xảy ra do nội tại nguồn nguy hiểm cao độ đang trong tình trạng vận hành, nằm ngoài khả năng kiểm soát, điều khiển của con người và đó là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thiệt hại thì theo khoản 3 Điều 623 BLDS 2005: “Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp sau đây: a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại; b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.” (6) : Theo khoản 3 Điều 623 BLDS 2005, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2009, tr 263.
Như vậy, chủ sở hữu, người đang chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ không được miễn trừ trách nhiệm bồi thường kể cả trong trường hợp chứng minh được họ không có lỗi trong việc trông giữ, bảo quản, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ.
Tuy nhiên, quy định này của pháp luật cũng không loại trừ khả năng thiệt hại xảy ra do một phần lỗi của chủ sở hữu, người quản lý, trông giữ, bảo quản, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ; nhưng hành vi để xảy ra thiệt hại này của người trông giữ, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ không phải nguyên nhân có tính quyết định đến việc xảy ra thiệt hại. Ví dụ : trước khi xuống dốc, lái xe không kiểm tra lại phanh; lốp mòn nhưng chưa thay do chủ quan nghĩ rằng xe vẫn vận hành tốt… Hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ có thể hoàn toàn không có lỗi của con người như xe đang chạy trên đường bất ngờ nổ lốp dẫn đến đổi hưởng đột ngột gây thiệt hại...
Từ những lập luận trên, có thể thấy, nếu căn cứ vào yếu tố lỗi và cho nó là điều kiện bắt buộc để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra và nếu trong mọi trường hợp xảy ra thiệt hại đều buộc người bị hại dẫn chứng lỗi từ phía gây thiệt hại thì thực sự là việc quá khó khăn, gần như không thực hiện được. Từ đó không thể đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho chủ thể bị thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Do đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra sẽ phát sinh mà không cần điều kiện lỗi. Như vậy, bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một trong những trường hợp đặc biệt, theo đó, trách nhiệm bồi thường phát sinh là trách nhiệm pháp lý nâng cao không nhất thiết đòi hỏi phải chứng minh yếu tố lỗi của chủ thể gây thiệt hại.
3. Xác định chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra :
3.1. Chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường là chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ:
“ Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác” (7) : Theo Điều 165 BLDS 2005, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2009, tr 77.
đó là nguyên tắc thực hiện quyền sở hữu được ghi nhận tại Điều 165 BLDS 2005. Đồng thời, với ý nghĩa luôn tiềm ẩn nguy cơ, khả năng gây thiệt hại cho con người và thế giới xung quanh của nguồn nguy hiểm cao độ nên đoạn 2 khoản 1 Điều 623 BLDS 2005 cũng đưa ra quy định: “ Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải tuân thủ các quy định bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp luật.” (8) : Trích khoản 1 Điều 623 BLDS 2005, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2009, tr 263.
. Do đó, khi có thiệt hại xảy ra do nguồn nguy hiểm cao độ, trước tiên phải nghĩ đến nghĩa vụ của chủ sở hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ trong việc tôn trọng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể bị thiệt hại, vì vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trước hết được đặt ra cho chủ sở hữu, trừ trường hợp chủ sở hữu chứng minh được trách nhiệm thuộc về người khác.
Trong trường hợp chủ sở hữu đang trực tiếp chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ nghĩa là “ ... đang thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, quản lý nguồn nguy hiểm cao độ, nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội; khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ nguồn nguy hiểm cao độ.” (9) : Trích khoản a Điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
mà nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe cho người khác, dù có lỗi của chủ sở hữu trong việc sử dụng, quản lý, trông coi nguồn nguy hiểm cao độ hay không thì căn cứ khoản 2 Điều 623 BLDS 2005 cũng như khoản a Điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, chủ sở hữu hợp pháp của nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại.
Nếu chủ sở hữu đã chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao cho người khác theo ý chí của mình theo các giao dịch dân sự như cho thuê, cho mượn hoặc chuyển giao theo nghĩa vụ lao động… thì theo quy định tại khoản 2 Điều 623 BLDS 2005 và được cụ thể hóa trong khoản b Điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, những người được chuyển giao quyền phải chịu trách nhiệm bồi thường khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại, trừ khi có thỏa thuận khác ví dụ“ thỏa thuận cùng nhau liên đới chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại; thỏa thuận chủ sở hữu bồi thường thiệt hại trước, sau đó người được giao chiếm hữu, sử dụng sẽ hoàn trả cho chủ sở hữu khoản tiền đã bồi thường; ai có điều kiện về kinh tế hơn thì người đó thực hiện việc bồi thường thiệt hại trước...” (10) : Trích khoản b Điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Tuy nhiên, có thể thấy, trong một số trường hợp chủ sở hữu chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác nhưng trên thực tế, chủ sở hữu vẫn có quyền kiểm soát về mặt pháp lý (chiếm hữu pháp lý) đối với tài sản. Khi đó, mặc dù không trực tiếp khai thác công dụng của tài sản nhưng đó cũng là một hình thức chủ sở hữu thực hiện quyền sử dụng tài sản, cụ thể là khai thác lợi ích kinh tế từ tài sản. Do đó, trường hợp nguồn nguy hiểm đã được chủ sở hữu giao cho người khác thì cần “ phải xác định trong trường hợp cụ thể đó người được giao nguồn nguy hiểm cao độ có phải là người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ hay không để xác định ai là người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại “ (11) : Trích khoản đ Điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
theo tinh thần tại khoản đ Điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Ví dụ : Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ theo hợp đồng lao động thì trong trường hợp này, người được chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ là những người làm công, ăn lương, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ để thực hiện nghĩa vụ lao động. Nếu thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra đang trong thời gian thực hiện nghĩa vụ lao động thì chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm bồi thường khi có thiệt hại xảy ra. Bởi mặc dù lúc này, người lao động là người đang thực tế chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ nhưng hoàn toàn dưới sự quản lý, điều hành của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ và vì lợi ích của chủ sở hữu nên phải coi đây giống như trường hợp chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ đang trực tiếp chiếm hữu, sử dụng tài sản. Còn nếu, người làm công đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ mà gây tai nạn nhưng không nằm trong thời gian thực hiện nghĩa vụ lao động thì người làm công phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 623 BLDS 2005.
Nếu chủ sở hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ đã chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác nhưng sự chuyển giao này không tuân theo đúng các quy định của pháp luật và chủ yếu thường thông qua các giao dịch dân sự như cho thuê, cho mượn... thì khi có thiệt hại xảy ra trên thực tế do hoạt động nội tại của bản thân nguồn nguy hiểm cao độ thì căn cứ khoản b Điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt