Trong quá trình đổi mới, hệ thống ngân hàng có tầm quan trọng đặc biệt, là kênh cơ bản cung ứng vốn cho nền kinh tế để thực hiện các chỉ tiêu vĩ mô của nền kinh tế. Ngoài cho vay thương mại đối với các tổ chức và cá nhân, hệ thống ngân hàng còn là nguồn tài chính quan trọng để thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ như cho vay đối với hộ nghèo, vùng sâu, vùng xa, góp phần hạn chế đáng kể sự chênh lệch phát triển giữa các nhóm thu nhập và giữa các vùng trong nước, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa.
Hiệu quả hoạt động của NH hiện nay là dựa trên sự tồn tại của việc phát triển công nghệ tiên tiến. Các dịch vụ NH hiện đại đều cần ứng dụng CNTT. Hiện nay hơn 85% các nghiệp vụ NH được xử lí trên máy tính, nhiều nghiệp vụ được thực hiện 100% các công đoạn trên máy, mạng máy tính. Công nghệ thẻ ngày càng hiện đại và tiện ích. Các dịch vụ Internet Banking, Home Banking, Mobile Banking. đã trở nên phổ biến và khá thông dụng. Theo các chuyên gia, việc đầu tư cho ứng dụng CNTT trong NH cao hơn sẽ dẫn đến hiệu quả điều hành tốt hơn và cho dù phải đầu tư một số vốn khá lớn vào thời gian đầu thì kết quả doanh thu đem lại về dài hạn sẽ lớn hơn rất nhiều. Ứng dụng CNTT cũng đem lại nhiều ứng dụng hệ thống hơn và từ đó, sẽ sinh ra nhiều dịch vụ NH hơn.
15 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1939 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Các vấn đề công nghệ ngành ngân hàng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ
Đề tài : Các vấn đề công nghệ ngành Ngân Hàng
Nhóm GAP : Girls – Active – Pro
Nguyễn Hòa Anh Anh 2
Nguyễn Kim Dung Anh 2
Hoàng Thiên Hương Anh 2
Trần Thị Ngọc Huyền Anh 2
Trần Thị Hà Thanh Anh 2
Phạm Thanh Vân Anh 2
Phạm Kim Anh Anh 1
Giáo viên hướng dẫn : Đinh Hoàng Minh
I. Ý tưởng chọn đề tài :
Theo thống kê của Cty điều tra thị trường VinaCapital, tại VN hiện có 47 NH đang hoạt động, ngoài ra còn có 29 chi nhánh cùng 45 văn phòng đại diện NH nước ngoài. So với nhiều nước trong khu vực, thị trường NH VN tương đối nhộn nhịp và tiềm năng vẫn rất lớn với dân số trên 83 triệu người.
1 số logo các ngân hàng tại Việt Nam
Trong quá trình đổi mới, hệ thống ngân hàng có tầm quan trọng đặc biệt, là kênh cơ bản cung ứng vốn cho nền kinh tế để thực hiện các chỉ tiêu vĩ mô của nền kinh tế. Ngoài cho vay thương mại đối với các tổ chức và cá nhân, hệ thống ngân hàng còn là nguồn tài chính quan trọng để thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ như cho vay đối với hộ nghèo, vùng sâu, vùng xa, góp phần hạn chế đáng kể sự chênh lệch phát triển giữa các nhóm thu nhập và giữa các vùng trong nước, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa.
Hiệu quả hoạt động của NH hiện nay là dựa trên sự tồn tại của việc phát triển công nghệ tiên tiến. Các dịch vụ NH hiện đại đều cần ứng dụng CNTT. Hiện nay hơn 85% các nghiệp vụ NH được xử lí trên máy tính, nhiều nghiệp vụ được thực hiện 100% các công đoạn trên máy, mạng máy tính. Công nghệ thẻ ngày càng hiện đại và tiện ích. Các dịch vụ Internet Banking, Home Banking, Mobile Banking... đã trở nên phổ biến và khá thông dụng. Theo các chuyên gia, việc đầu tư cho ứng dụng CNTT trong NH cao hơn sẽ dẫn đến hiệu quả điều hành tốt hơn và cho dù phải đầu tư một số vốn khá lớn vào thời gian đầu thì kết quả doanh thu đem lại về dài hạn sẽ lớn hơn rất nhiều. Ứng dụng CNTT cũng đem lại nhiều ứng dụng hệ thống hơn và từ đó, sẽ sinh ra nhiều dịch vụ NH hơn.
Do đó, việc đầu tư vào các công nghệ của ngân hàng hiện nay đang nhận được rất nhiều sự quan tâm của nhà nước, các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Trong 6 năm qua tại Hà Nội, Banking Vietnam - Hội thảo - triển lãm hàng năm về Ứng dụng CNTT trong lĩnh vực ngân hàng là sự kiện được tổ chức liên tục. Đây là diễn đàn mang lại nhiều lợi ích thiết thực trong việc phát triển, ứng dụng CNTT vào mọi lĩnh vực trong hoạt động ngân hàng (NH). Thống đốc NH Nhà nước đã đánh giá: “Diễn đàn quốc tế “Banking Vietnam” thực sự là chiếc cầu nối cho các nhà hoạt động tài chính - NH và công nghệ thông tin đến với nhau bằng sự hiểu biết và hỗ trợ nhau phát triển mạnh trong tương lai”.
Ông Steve Mills, Phó chủ tịch cao cấp của IBM
Bên cạnh đó, Tập đoàn IBM thành lập Trung tâm Công nghệ Ngân hàng tại Việt Nam
Trung tâm này sẽ giúp khách hàng triển khai công nghệ ngân hàng lõi (core banking) thế hệ mới và cải tiến hệ thống thanh toán dựa trên công nghệ mở. Các ngân hàng sẽ có thể sử dụng các nguồn tài nguyên mà Trung tâm cung cấp để thiết lập các dịch vụ khác nhau, đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng. Trung tâm được đặt tại văn phòng chính của IBM tại Hà Nội.
Trung tâm Công nghệ Ngân hàng IBM sẽ giúp các ngân hàng Việt Nam củng cố hệ thống lõi, nâng cao hiệu quả, tăng cường tính linh hoạt và khả năng mở rộng hệ thống để hỗ trợ sự tăng trưởng nhanh chóng của ngành ngân hàng Việt Nam hiện nay.
Điểm nhấn của trung tâm này là hệ thống máy chủ mainframe IBM System z nổi tiếng thế giới cung cấp tài nguyên công nghệ, tính bảo mật và phục hồi nhanh chóng sau sự cố cho các ngân hàng. Khách hàng có thể sử dụng các công nghệ mở của IBM bao gồm dịch vụ Web, công nghệ ảo hóa, và các công cụ phần mềm như DB2, Websphere và Tivoli.
Qua những sự kiện trên, ta thấy công nghệ là vấn đề sống còn đối với mỗi ngân hàng. Bởi vậy, chúng tôi đã chọn “Công nghệ trong ngành Ngân Hàng” là đề tài cho bài tiểu luận này.
II. Quá trình ứng dụng công nghệ trong ngành ngân hàng :
Trong thời gian từ 1981 -1990, ngành ngân hàng đã thực hiện thay thế dần máy tính điện tử, năm 1986 bắt đầu sử dụng thế hệ máy vi tính đầu tiên tại NHTW và các chi nhánh, ứng dụng hệ điều hành MS – DOS, cơ sở dữ liệu Foxpro để thực hiện kế toán giao dịch cuối ngày, tổng hợp các cân đối kế toán, tiết kiệm.
Giai đoạn 1990 – 1998 được xem là giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới đối với ngành ngân hàng và các dịch vụ, ứng dụng chính như: khuyến khích mở tài khoản và thanh toán qua ngân hàng, lắp đặt ATM, tham gia hệ thống chuyển tiền quốc tế SWIFT, xử lý giao dịch tức thời trên mạng máy vi tính, thanh toán bù trừ điện tử, chuyển tiền điện tử, thanh toán liên ngân hàng, thanh tra giám sát từ xa, phòng ngừa rủi ro...Ngoài NHNN, các tổ chức tín dụng đã xây dựng được trung tâm CNTT riêng với nhiều trang bị phần cứng, phần mềm hệ thống, các sản phẩm công nghệ mới. Quy mô ứng dụng được mở rộng từ NHTW tới chi nhánh, từ hội sở chính đến các chi nhánh NHTM, hệ thống máy tính được liên kết trên cơ sở mạng diện rộng trong toàn Ngành.
Từ 1998 đến nay, ngành ngân hàng triển khai dự án hiện đại hoá ngân hàng và hệ thống thanh toán. Nội dung đổi mới trong giai đoạn này là tổ chức trung tâm thanh toán quốc gia, thiết lập hệ thống kế toán khách hàng, xử lý tự động tức thời các giao dịch, hình thành hệ thống thanh toán tự động trong nội bộ các NHTM lớn, liên kết mạng thanh toán quốc gia giữa các ngân hàng và giữa ngân hàng với khách hàng. Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng được thực hiện từ tháng 5/2002, đây là hệ thống thanh toán trực tuyến tự động, xây dựng theo tiêu chuẩn quốc tế.
Nhờ công nghệ các dịch vụ ngân hàng phát triển đa dạng và phong phú, cho đến nay các tổ chức tín dụng đã triển khai và phát triển nhiều sản phẩm mới, đặc biệt là dịch vụ ngân hàng điện tử: internetbanking, mobil-banking, phonebanking, dịch vụ thẻ, thanh toán điện tử. Công nghệ mới đã mang lại tiện ích tối đa cho khách hàng và cho nền kinh tế.
III. Các công nghệ hiện nay
Thanh toán bằng thẻ
Hiện trạng :
Chỉ cách đây 9 năm thôi - vào năm 1996 - khi Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (VCB) kết hợp cùng Ngân hàng Nhà nước triển khai lắp đặt 2 chiếc máy rút tiền tự động (ATM) tại Hà Nội, ngay cả những người hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng cũng đã đặt câu hỏi rằng: sử dụng máy ATM để làm gì, đầu tư như thế có hợp lý không?
Trong những năm gần đây, thẻ ngân hàng đã trở thành một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng được ưa chuộng và khẳng định được tính ưu việt, vị thế trong việc đáp ứng nhu cầu giao dịch ngày càng cao, thúc đẩy phát triển kinh tế và phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Số lượng thẻ phát hành và doanh số giao dịch thẻ trong thời gian qua liên tục tăng, tốc độ tăng trung bình khoảng 300%/năm đối với số lượng thẻ và hơn 200%/năm đối với doanh số giao dịch thẻ. Tính đến nay, số lượng thẻ phát hành đạt mức trên 7 triệu thẻ, với 29 tổ chức phát hành, 120 thương hiệu thẻ, trong đó phân theo phạm vi thì thẻ nội địa 71 loại (chiếm 59%), thẻ quốc tế 49 loại (41%); phân theo nguồn tài chính, thẻ ghi nợ 73 loại (chiếm 61%), thẻ tín dụng 44 loại (chiếm 37%) và sự xuất hiện của loại thẻ trả trước 3 loại (2%); đã có 25 ngân hàng đã trang bị máy ATM/POS với số lượng khoảng 4.000 ATM, 22.000 POS. Nhiều ngân hàng đã phát hành các loại thẻ có độ bảo mật cao, an toàn như thẻ có gắn chip và cung cấp nhiều tiện ích đi kèm cho khách hàng sử dụng. Một số ngân hàng có kinh nghiệm trong lĩnh vực phát hành thẻ đang từng bước chuyên môn hoá nghiệp vụ phát hành thẻ của mình bằng việc xin phép Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thành lập các Công ty thẻ và sự tham gia ngày càng tăng của các tổ chức cung ứng dịch vụ hỗ trợ thanh toán (như các công ty công nghệ thông tin, các tổ chức khác không phải là tổ chức tín dụng…) trong lĩnh vực hoạt động thẻ.
Lợi ích :
Lợi ích của việc sử dụng Thẻ là giảm rủi ro mang theo tiền mặt. Quản lý kế hoạch chi tiêu cá nhân dễ dàng qua các sao kê giao dịch hàng tháng. Được vay, hỗ trợ tài chính kịp thời từ ngân hàng đặc biệt khi đi công tác, theo học xa nhà, hoặc du học ở nước ngoài. Dễ dàng đặt tour du lịch, khách sạn, và nhà hàng. Tham gia thương mại điện tử, mua sắm hàng hoá dịch vụ qua mạng Internet. Thay thế hiệu quả các khoản tạm ứng, công tác phí bằng tiền mặt của cơ quan cho cán bộ khi đi công tác. Sở hữu phương tiện thanh toán uy tín, tốt nhất, hiện đại nhất. Thời gian thực hiện giao dịch nhanh chóng, chính xác và an toàn. Và còn nhiều nhu cầu khác, ...
Hiện nay bên cạnh chức năng thanh toán thông thường, thẻ ATM còn được tích hợp 1 số tính năng khác thành thẻ “2 trong 1”, “3 trong 1” : vừa là 1 chiếc thẻ ghi nợ nội địa thông thường, vừa là chiếc thẻ sinh viên dùng để ra vào lớp học, thư viện, phòng máy tính... Hoặc ngoài các tiện ích như truy vấn thông tin tài khoản từ xa,còn có thể thanh toán hóa đơn tiền điện, nước, điện thoại...
Hạn chế
Tuy nhiên, đến nay tỷ trọng thanh toán bằng thẻ so với các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt khác vẫn còn ở mức khiêm tốn bởi lẽ phạm vi phát hành và sử dụng thẻ còn hạn chế, mới chủ yếu tập trung ở một số tỉnh, thành phố lớn; đối tượng sử dụng thẻ chủ yếu tập trung vào tầng lớp công chức, viên chức đang làm việc trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, các khu công nghiệp, khu chế xuất và tới đây là các đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Lý do là người dân Việt Nam vẫn chưa có thói quen sử dụng phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt như thẻ…. nhưng, nguyên nhân chủ yếu nhất vẫn là dịch vụ thanh toán bằng thẻ chưa mang lại tiện ích đối với người tiêu dùng .Với việc phát triển dịch vụ ATM riêng lẻ như hiện nay, hệ thống ATM của mỗi ngân hàng chỉ chấp nhận thẻ do chính mình phát hành, các thiết bị đầu cuối của ngân hàng này không đọc được thẻ của các ngân hàng khác: hoặc là từ chối giao dịch, hoặc coi đó là giao dịch bất hợp pháp, thẻ gian lận, do đó phạm vi mở rộng mạng lưới cung cấp dịch vụ rất hạn chế , cơ sở hạ tầng viễn thông, điện lực chưa ổn định. Phần lớn các giao dịch trên máy ATM đều để rút tiền mặt, dù trên máy có nhiều tiện ích khác như chuyển khoản, thanh toán dịch vụ bảo hiểm, tiền điện, cước phí điện thoại... Số lượng máy ATM và EDC/POS được triển khai tại Việt Nam hiện nay chưa đạt tới mức trung bình chung so với các nước khác trong khu vực nhưng đáng tiếc lại không khai thác được hết công suất của hệ thống này. Các điểm chấp nhận thẻ thanh toán ngân hàng mới tập trung ở các siêu thị, nhà hàng, khách sạn lớn mà còn khan hiếm ở chợ, khu dân cư, các điểm vui chơi giải trí, trên các phương tiện giao thông công cộng,... chưa tạo sự thuận lợi cho khách hàng khi sử dụng thẻ để thanh toán. Tình trạng một nơi có nhiều máy ATM/POS của các ngân hàng khác nhau, nơi thì ít hoặc không có cũng thu hẹp đáng kể phạm vi sử dụng thẻ của khách hàng. Trong khi đó, việc đầu tư và mở rộng hệ thống máy ATM và EDC/POS đòi hỏi một lượng vốn lớn mà không phải ngân hàng nào cũng tự đầu tư được, đặc biệt là những NHTMCP nhỏ có năng lực tài chính hạn chế.
Từ thực trạng trên, rõ ràng là chúng ta đang có sự lãng phí lớn trong việc chia sẻ hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho hoạt động thanh toán, chưa có Trung tâm chuyển mạch thẻ thống nhất là rào cản cho việc phát triển thị trường thẻ tại Việt Nam. Tình trạng máy ATM của ngân hàng này bị sử dụng quá tải trong khi máy ATM của ngân hàng khác lại không được sử dụng triệt để đang là một thực tế, kéo theo việc hạn chế người sử dụng tiếp cận được với dịch vụ ngân hàng hiện đại
Rủi ro
Chủ thẻ để lộ số PIN
Thẻ bị mất/mất trộm (lost/stolen card)
Thẻ giả (counterfeit): thẻ thật đã bị thay đổi thông tin, thẻ chỉ giả mạo thông tin trên dải băng từ hoặc thẻ bị sao chép làm giả hoàn toàn.
Dữ liệu băng từ (skimming) hoặc dữ liệu trên đường truyền (tapping) bị đánh cắp.
Ở Việt Nam, thẻ giả mạo là loại hình rủi ro phổ biến nhất, chiếm 75% tổng các loại rủi ro trong Phát hành thẻ; Vì vậy, cần đặc biệt chú trọng công tác phòng ngừa rủi ro với loại hình đang phát triển hiện nay là giả mạo thẻ bằng cách ăn cắp thông tin trên đường truyền.
Trong thời gian qua đã xảy ra rất nhiều vụ việc rắc rối liên quan đến vấn đề rút tiền qua thẻ ATM
Máy ATM nhả tiền không tiêu được
Máy ATM đột nhiên bị treo, nuốt thẻ
Tài khoản trống vẫn rút đc tiền tỷ
Không rút tiền nhưng tài khoản vẫn bị trừ
v…v…
Công nghệ bảo mật :
Trong hoạt động NH, vấn đề bảo mật thông tin luôn được đặt lên hàng đầu. Ứng dụng các giải pháp công nghệ bảo mật thông tin tiên tiến sẽ giúp cho các tổ chức cung ứng dịch vụ ngân hàng trực tuyến nhanh chóng phát triển, mở rộng sản phẩm dịch vụ NH hiện đại , đa tiện ích, mở rộng thị trường.
Vì bảo mật là một lĩnh vực phức tạp,liên quan đến tất cả mọi mặt của hoạt động kinh doanh NH nên những định hướng chung về bảo mật trong chiến lược phát triển công nghệ thông tin của các NH phải được phát triển một cách đồng bộ, từ cả thiết bị, công nghệ ,con người đến cả qui trình. Bởi vậy , bên cạnh việc áp dụng những công nghệ hiện đại, còn phải đặt ra những quy định nghiêm ngặt về việc sử dụng trang thiết bị, phần mềm và hệ thống mạng nội bộ cũng như Internet đồng thời thường xuyên kiểm tra, nhắc nhở về việc sử dụng những quy định này. Việc chuẩn hóa quy trình tác nghiệp công nghệ thông tin góp phần quan trọng cho độ an toàn bảo mật của hệ thống nên cũng được quan tâm thích đáng. Những quy trình nội bộ cho đội ngũ công nghệ thông tin như lập trình, hỗ trợ kỹ thuật, sao lưu và phục hồi dữ liệu đều được rà soát và chỉnh sửa theo hướng chuẩn hóa, nâng cao tính bảo mật. Từ người dùng cuối cho đến các cán bộ công nghệ thông tin đều đã và sẽ được đào tạo bằng những chương trình thích hợp để nâng cao hiểu biết về chính sách bảo mật của ngân hàng cũng như các phương pháp bảo mật cần thiết để áp dụng trong công việc hàng ngày.
Một số công nghệ bảo mật đang được các NH Việt Nam ứng dụng nhiều trong giai đoạn hiện nay :
1.1. Todos ecode :
Todos ecode là dòng sản phẩm phục vụ chứng thực từ xa bảo an với công nghệ mật khẩu sử dụng một lần – OTP ( one time password ), mã thử thách/ trả lời và chữ kí điện tử. OTP có thể được tạo ra bởi đầu đọc và thẻ thông minh, thiết bị tạo mật khẩu cầm tay, thẻ OTP in sẵn hoăc thông qua điện thoại di động .
Todos ecode là biện pháp chứng thực có độ bảo an cao, tiện dụng và tính kinh tế cao cho các dịch vụ NH trực tuyến, thương mại điện tử, NH di động… Todos ecode hoạt động dựa trên một nền tảng và qua các kênh truyền thông độc lập với các ứng dụng trên , nhờ vậy khách hàng có thể sử dụng nhiều phương thức khác nhau để chứng thực khách hàng qua internet, hệ thống di động..
Trong giải pháp ecode , tất cả các thiết bị cầm tay để tạo ra OTP và chữ kí điện tử đều dễ học và dễ sử dụng. Hơn nữa, các NH cũng dễ dàng quản lí bởi các thiết bị này không yêu cầu phải cá thể hóa. Vì vậy, việc phân bổ các thiết bị đến tay người sử dụng dễ dang, không tốn kém và chỉ đòi hỏi hỗ trợ kĩ thuật tối thiểu.
1.2. Công nghệ bảo mật bằng sinh trắc học:
Công nghệ bảo mật bằng sinh trắc học được phát triển dựa trên các đặc điểm sinh học và hành vi đặc trưng của con người do đó khắc phục được những yếu điểm của các công nghệ xác thực truyền thống nêu trên. Có nhiều công nghệ sinh trắc học đã được nghiên cứu phát triển và ứng dụng như: (1) Theo đặc điểm sinh học: khuôn mặt, vân tay, mống mắt, tĩnh mạch; (2) Theo hành vi ứng xử: giọng nói, chữ ký. Trong số các công nghệ này thì công nghệ xác thực bằng tĩnh mạch lòng bàn tay (Palm Vein) được đánh giá tốt nhất về độ chính xác, độ ổn định, tính tiện lợi, khả năng ứng dụng,… với giá thành hợp lý nhất. (đã được Incombank đưa vào sử dụng)
1.3. Thẻ sinh mã dùng một lần
Với mã số duy nhất cho mỗi thẻ và được thay đổi sau từng phút,người
dùng có thể yên tâm trước mọi thủ đoạn ăn cắp mật khẩu của tộiphạm
IV. Giải pháp :
1. Để khắc phục tình trạng có sự lãng phí lớn trong việc chia sẻ hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho hoạt động thanh toán, Ngân hàng Nhà nước đang chuẩn bị thành lập trung tâm chuyển mạch quốc gia. Nếu không có gì thay đổi, đầu năm 2008, trung tâm này sẽ hoạt động và kết nối liên thông toàn bộ thị trường thanh toán thẻ của cả nước.
Đồng thời, các ngân hàng thương mại đã chủ động liên kết, bắt tay nhau trong việc chia sẻ hạ tầng phục vụ hoạt động thẻ. Hiện nay, tại Việt Nam đang tồn tại 3 liên minh thẻ . Smartlink và Banknetvn là hai liên minh thẻ lớn nhất cả nước với sự tham gia của hầu hết các ngân hàng. Việc hợp tác giữa hai liên minh này cho phép khoảng trên 30 ngân hàng kết nối liên thông thanh toán thẻ, trong đó có các đơn vị phát hành thẻ lớn như 4 ngân hàng quốc doanh và các ngân hàng cổ phần như Đông Á... với tổng số khoảng 7 triệu thẻ, 4.300 máy ATM và khoảng 22 ngàn điểm chấp nhận thẻ trên toàn quốc. Như vậy, với sự kết nối này, gần như toàn bộ thị trường thẻ Việt Nam đã có thể liên thông với nhau
Chuyển đổi từ thẻ từ sang thẻ thông minh theo chuẩn EMV cũng được coi là một giải pháp hữu hiệu để nâng cao tính bảo mật của thông tin chủ thẻ.
Thẻ chip EMV
Đặc tính của thẻ chip EMV là dữ liệu thẻ thông minh được cấu tạo theo kiểu dữ liệu nhị phân. Dữ liệu được sản sinh thông qua quá trình mã hóa để chèn vào bản ghi sẵn sàng để cá thể hóa. Nội dung của dữ liệu thẻ là: dữ liệu mã hóa vào track 1 và 2 của dải từ gồm số tài khoản, tên chủ thẻ, ngày hết hạn, mã dịch vụ; dữ liệu tĩnh được tạo ra cho mỗi sản phẩm, các chủ thẻ đều có các tham số dữ liệu tĩnh như nhau, dữ liệu được mã với hóa với các khóa thường sử dụng 3-5 khóa và tạo ra từ khóa quản lý chính.
Thẻ thông minh chuẩn EMV là loại thẻ nhựa có kích cỡ giống như thẻ tín dụng được gắn với bộ vi mạch chủ. Thẻ thông minh không chỉ cung cấp khả năng lưu trữ thông tin mà còn khả năng vi tính hóa chức năng xử lý. Đối với chức năng lưu giữ thông tin, dữ liệu của thẻ thông minh được mã hóa vào chip tạo khả năng chống lại sự tấn công mà không cần phụ thuộc vào bất kỳ yếu tố trợ giúp bên ngoài. Vì vậy, thẻ thông minh đảm bảo tính bảo mật và tính chân thực cao hơn, cho phép thực hiện nhiều lựa chọn thanh toán và dịch vụ với độ an toàn cao và thuận tiện hơn nhiều so với thẻ từ.
Ngân hàng đầu tiên tại Việt Nam phát hành thẻ thanh toán và thẻ tín dụng chip EMV : ngày 4-7-2007, Ngân hàng Thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh VPBank chính thức phát hành thẻ thanh toán và thẻ tín dụng chip EMV.
2. Với các sự cố khi sử dụng thẻ ATM, có thể thấy hệ thống công nghệ của các Ngân Hàng hiện này vẫn còn nhiều thiếu sót. Các Ngân hàng cần phải đầu tư nhiều hơn cho hệ thống thanh toán bằng thẻ. Nắm lấy cơ hội thực hiện các hợp đồng chuyển giao công nghệ, thu hẹp dần khoảng cách trong khu vực và thế giới.
Bên cạnh lỗi do thiết bị , hạ tầng lĩ thuật, không ít trường hợp là do sai sót của nhân viên thực hiện. Từ đó có thể thấy hệ thống các ngân hàng tại nước ta còn yếu kém về kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm của nhân viên ( hay còn gọi là yếu tố phần mềm của công nghệ ) Nguồn lực ngành Ngân hàng hiện này đang thiếu trầm trọng.
Vậy vấn đề đặt ra là phải làm sao nâng cao được các kĩ năng, kiến thức chuyên môn của nhân viên để có thể khai thác tối đa các giải pháp công nghệ của ngành ngân hàng. Để làm được điều này, các Ngân hàng cần có chính sách hợp lý đãi ngộ để giữ chân người tài, tổ chức đào tạo, nâng cao nghiệp vụ cho nhân viên, thuê các chuyên gia nước ngoài để hướng dẫn vận hành phần cứng hiệu quả, hướng tới môi trường kinh doanh hoạt động chuyên nghiệp.