Đề tài Các vấn đề lớn nhất trong hoạt động cho vay của các ngân hàng Việt Nam

- Việc NHNN ấn định lãi suất tác động trực tiếp đến hoạt động huy động vốn,hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng, đặc biệt là cho vay. Từ tháng 6/2002 cho đến nay, Ngân hàng Nhà nước quyết định thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận, các tổ chức tín dụng tự ấn định lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay trên cơ sở cung cầu vốn thị trường và mức độ tín nhiệm đối với từng khách hàng. Ngân hàng Nhà nước chấm dứt phần nào việc can thiệp vào lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng. Trong thực tế, các ngân hàng đã chuyển các khoản cho vay ngắn hạn chịu qui định trần lãi suất cho vay sang cho vay trung, dài hạn để áp dụng lãi suất thoả thuận cao hơn, lãi suất cơ bản chỉ còn đóng vai trò tâm lý như tín hiệu là NHNN Việt Nam sẽ thắt chặt hay nới lỏng chính sách tín dụng nói riêng và chính sách tiền tệ nói chung. - Với tình hình kinh tế khó khăn và áp lực cạnh tranh lớn,mức chênh lệch giữa lãi suất huy động và cho vay rất bé, huy động vốn rất khó khăn (nhưng lại không đồng đều trong toàn hệ thống mà khó khăn tập trung chủ yếu vào các Ngân hàng nhỏ và mới thành lập) nên cho vay bằng VND tăng rất thấp do lãi suất thoả thuận ở mức quá cao.

doc30 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2567 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các vấn đề lớn nhất trong hoạt động cho vay của các ngân hàng Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài 6: CÁC VẤN ĐỀ LỚN NHẤT TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA CÁC NGÂN HÀNG VIỆT NAM LÀ GÌ? SẮP XẾP THEO THỨ TỰ ƯU TIÊN CÁC VẤN ĐỀ NÀY? GIẢI PHÁP CHUNG CHO TẤT CẢ CÁC VẤN ĐỀ NÀY VÀ GIẢI PHÁP RIÊNG CHO TỪNG VẤN ĐỀ? I.Các vấn đề lớn nhất trong hoạt động cho vay của các ngân hàng Việt Nam: Hoạt động cho vay của các Ngân hàng chịu sự tác động của các chính sách kinh tế vĩ mô: - Các Ngân hàng Việt Nam chịu sự tác động của chính sách tiền tệ, Ngân hàng trung ương điều tiết nền kinh tế, quản lý hoạt động của hệ thống ngân hàng thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ, bao gồm các công cụ trực tiếp(ấn định mức lãi suất, hạn mức tín dụng, mức tồn quỹ tối thiểu) và các công cụ gián tiếp(dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất, tỷ giá hối đoái). a, Lãi suất: Ấn định lãi suất trần, lãi suất sàn: - Việc NHNN ấn định lãi suất tác động trực tiếp đến hoạt động huy động vốn,hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng, đặc biệt là cho vay. Từ tháng 6/2002 cho đến nay, Ngân hàng Nhà nước quyết định thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận, các tổ chức tín dụng tự ấn định lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay trên cơ sở cung cầu vốn thị trường và mức độ tín nhiệm đối với từng khách hàng. Ngân hàng Nhà nước chấm dứt phần nào việc can thiệp vào lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng. Trong thực tế, các ngân hàng đã chuyển các khoản cho vay ngắn hạn chịu qui định trần lãi suất cho vay sang cho vay trung, dài hạn để áp dụng lãi suất thoả thuận cao hơn, lãi suất cơ bản chỉ còn đóng vai trò tâm lý như tín hiệu là NHNN Việt Nam sẽ thắt chặt hay nới lỏng chính sách tín dụng nói riêng và chính sách tiền tệ nói chung. - Với tình hình kinh tế khó khăn và áp lực cạnh tranh lớn,mức chênh lệch giữa lãi suất huy động và cho vay rất bé, huy động vốn rất khó khăn (nhưng lại không đồng đều trong toàn hệ thống mà khó khăn tập trung chủ yếu vào các Ngân hàng nhỏ và mới thành lập) nên cho vay bằng VND tăng rất thấp do lãi suất thoả thuận ở mức quá cao. Lãi suất tái cấp vốn: - Đây là tác động gián tiếp của ngân hàng trung ương, thay đổi lãi suất tái cấp vốn để tác động đến lãi suất thị trường. Tăng lãi suất tái cấp vốn để tăng lãi suất cho vay nhằm điều tiết mức tăng trưởng nóng của nền kinh tế và ngược lại. b, Quy định về hạn mức tín dụng: - Hạn mức tín dụng là một công cụ để thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước, nhằm hạn chế mức dư nợ tín dụng tối đa đến với nền kinh tế của tổ chức tín dụng . Điều này cũng làm ảnh hưởng hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng . - Hạn mức tín dụng được giao căn cứ tổng hạn mức tín dụng của các TCTD đối với nền kinh tế, được Thống đốc phê duyệt cho các TCTD theo các chỉ tiêu: + HMTD của NHNN đối với các TCTD thông qua hình thức tái cấp vốn. + HMTD của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế. - Chỉ tiêu HMTD đối với nền kinh tế giao cho tổ chức tín dụng là chỉ tiêu khống chế tối đa, tổ chức tín dụng không được phép vi phạm trong suốt quá trình thực hiện.(theo điều 3,chương I, Quy chế về mua bán hạn mức tín dụng giữa các tổ chức tín dụng) - HMTD cho từng tổ chức tín dụng được xác định bởi Vụ tín dụng(theo điều 20,chương III của quy chế trên) - Vì vậy, gia tăng dư nợ tín dụng của các Ngân hàng được giới hạn nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, hạn chế tình trạng tăng trưởng nóng dư nợ tín dụng cùng với rủi ro tiềm ẩn đối với những khoản vay có vấn đề, tăng cường cho vay vì mục tiêu quy mô và lợi nhuận(phần lớn là các ngân hàng nhỏ, chất lượng thẩm định chưa cao). Nhưng đây cũng là bất lợi đối với các ngân hàng lớn khi tăng trưởng tín dụng bị giới hạn,có thể ảnh hưởng đến mục tiêu của chính ngân hàng. Yêu cầu hiện nay là kiểm soát tốc độ tăng tín dụng dưới 20% và tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán khoảng 15%-16% theo Chỉ thị số 01/CT-NHNN về việc thực hiện giải pháp tiền tệ và hoạt động ngân hàng nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội đã ban hành ngày 01/03/2011, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN). c, Quy định tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu: - Theo quy đinh tại thông tư số 13/2010/TT-NHNN ngày 20 tháng 5 năm 2010 quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng:tổ chức tín dụng, trừ chi nhánh ngân hàng nước ngoài, phải duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 9% giữa vốn tự có so với tổng tài sản “Có” rủi ro của tổ chức tín dụng (tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ). Do đó, bất cứ một ngân hàng nào cũng phải duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu và tất nhiên không thể cho vay quá mức làm giảm tỷ lệ này. d, Quy định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc: - Việc tăng hay giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ tác động đến giá cả tín dụng và khả năng tạo tiền của hệ thống ngân hàng. Khi tăng dự trữ bắt buộc sẽ làm tăng lãi suất huy động, lãi suất cho vay và ngược lại. Rủi ro trong hoạt động cho vay: - Chúng ta biết rằng tín dụng là quan hệ vay mượn dưới dạng tiền tệ có hoàn trả gốc và lãi giữa người đi vay và người cho vay. Cho vay hoàn trả khác với nghiệp vụ tài trợ cấp vốn của nhà nước cho các thành phần kinh tế… Hoạt động cho vay là hoạt động rất đa dạng, là một hoạt động kinh doanh hàng hoá phức tạp. Tính phức tạp của nó chính là đối tượng kinh doanh tức là tiền tệ, ở đây tiền tệ được tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng khi cho vay. - Người ta cho rằng quyền cho vay là của người cho vay và quyền trả nợ thực tế là của người đi vay. Chính vì vậy đòi hỏi người cho vay phải tìm mọi cách để kiểm soát được khả năng trả nợ của người đi vay, dự tính, phán đoán khả năng, mức độ rủi ro. Quan hệ cho vay là quan hệ kinh tế bình đẳng giữa người đi vay và người cho vay, là sự cam kết thoả thuận bằng các điều khoản thi hành thể hiện trong các hợp đồng cho vay. Sự cam kết này chính là cơ sở pháp lý cơ bản để thực hiện nghĩa vụ của hai bên tham gia hoạt động cho vay. Nó là cơ sở pháp lý để đảm bảo tín dụng. Bên cạnh đó cũng có các cam kết khác bằng các hành vi hay năng lực kinh tế, thể hiện bằng vật chất, uy tín như tài sản thế chấp, cầm cố, ký quỹ bảo lãnh. - Trong cho vay một bên là người cho vay vốn, một bên là người đi vay vốn và một bên là cho vay giữa hai bên là hợp đồng tín dụng. Vốn ở đây được thể hiện bằng tiền chứ không bằng tài sản hay bất cứ gì khác. Rủi ro vẫn xảy ra mặc dù bên đi vay cam kết sẽ trả đầy đủ và đúng hạn cho bên cho vay theo các điều khoản của hợp đồng cho vay. Nhưng tình trạng vi phạm cam kết đó xảy ra khá phổ biến kể cả trong trường hợp người đi vay có đủ năng lực tài chính. - Mặt khác rủi ro cho vay cũng có thể xảy ra ngay cả khi bên đi vay thực hiện nghiêm chỉnh các điều khoản cam kết trong hoạt động cho vay, thanh toán đầy đủ tiền vay (gốc và lãi) cho bên cho vay nhưng do biến động của lãi suất, rủi ro trong trường hợp mà số tiền cho vay thu về không bằng chi phí cơ hội của khoản vay đó ở thời điểm cho vay. - Rủi ro trong cho vay là một loại rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng vốn là loại rủi ro phức tạp, để đánh giá rủi ro tín dụng là việc làm rất khó khăn đối với ngân hàng. Rủi ro tín dụng có thể xảy ra với bất kỳ món tiền nào, bất cứ nơi nào. Chính vì vậy rủi ro cho vay đòi hỏi các ngân hàng thương mại có cách nhìn cụ thể về rủi ro, có những giải pháp đồng bộ, hữu hiệu mới có thể ngăn ngừa bớt rủi ro. - Ở nước ta vấn đề rủi ro trong kinh doanh ngân hàng và vấn đề quản lý nói chung cũng mới mẻ. Với sự non yếu về nghiệp vụ ngân hàng đồng thời hoạt động trong môi trường đầy rủi ro, vấn đề nhận thức rủi ro đặc thù và quản lý nó đang là vấn đề cấp bách trong hệ thống ngân hàng cả nước. Rủi ro ngân hàng không những là nổi ám ảnh của hệ thống ngân hàng một nước mà còn là nỗi ám ảnh chung của hệ thống ngân hàng trên thế giới. Những bất ngờ luôn xảy ra ngay cả đối với các ngân hàng có đội ngũ nhân sự giỏi nhất, nhiều kinh nghiệm nhất cũng khó lường trước được rủi ro. Vì thế nhận thức được rủi ro trong cho vay là những vấn đề thời sự cho hệ thống ngân hàng. Có hai loại rủi ro chính thường xảy ra trong hoạt động cho vay trong hệ thống ngân hàng. - Rủi ro trong hoạt động cho vay bao gồm: + Rủi ro thanh toán tiền vay: Khi người đi vay không thanh toán hoặc không thanh toán đầy đủ tiền vay khi đến hạn do tình hình kinh doanh gặp khó khăn, dẫn đến mất khả năng thanh toán tạm thời hoặc vĩnh viễn hay người đi vay cố ý không trả tiền vay do ý đồ chiếm dụng hoặc lừa đảo. + Số tiền thu về (cả gốc và lãi) không bù đắp được số vốn mà ngân hàng cho vay đó bỏ ra để cho vay. + Rủi ro khi có sự thay đổi tỷ giá hối đoái: Do các khoản cho vay bằng ngoại tệ ngày càng tăng, cùng với các nghiệp vụ khác nên các ngân hàng phải trực tiếp tham gia vào thị trường hối đoái. Từ lúc ký hợp đồng cho vay đến khi giải ngân, ngân hàng cần có một khoảng thời gian nhất định. Do đó khó tránh khỏi những rủi ro xảy ra khi tỷ giá hối đoái thay đổi. + Rủi ro khi có sự thay đổi lãi suất bình quân trên thị trường ảnh hưởng đến mức lãi suất ngân hàng đang áp dụng trong các giao dịch cho vay.Lãi xuất cho vay của các ngân hàng thương mại được xác định trên lãi suất bình quân trên thị trường và chính sách lãi suất của ngân hàng. Mức lãi xuất này được áp dụng cho người đi vay trong suốt thời gian vay (hợp đồng vay lãi suất cố định). Vì vậy trong thời gian đó, nếu có sự biến động lớn về lãi suất sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của ngân hàng đặc biệt là khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường. +Rủi ro về tài sản đảm bảo biến động về giá cả: rủi ro này xảy ra khi các tài sản đảm bảo bị thay đổi hoặc bị chiếm đoạt hay mất trộm ….điều này gây cho ngân hàng tổn thất khi thanh lý để bù đắp khoản vay. + Rủi ro thanh khoản: - Khi ngân hàng cho các cá nhân tổ chức tín dụng, doanh nghiệp vay xảy ra sự lệch pha giữa kỳ hạn tiền gửi và kỳ hạn tiền vay VD: người dân phần lớn ưu chuộng gửi tiền với các kỳ hạn ngắn, chủ yếu dưới 12 tháng và tập trung phần lớn ở kỳ hạn từ 1 tháng tới 3 tháng. Trong khi đó, các khoản cho vay thì phần lớn lại có kỳ hạn trên 12 tháng. Với sự lệch pha đó, chỉ cần NHTW có động thái hút tiền về từ lưu thông về thì các ngân hàng TM có tỷ lệ cho vay trên tổng huy động cao sẽ gặp khó khăn về vấn đề thanh khoản Việc ngân hàng cho vay quá mức không quan tâm đến nguồn quỹ dự trữ hay những tài sản có tính lỏng cao thì khi người gửi tiền đột ngột rút tiền trước hạn và cả khi đến hạn khiến Ngân hàng không sẵn có nguồn vốn để thanh toán → tính thanh khoản kém Chủ yếu phát sinh liên quan đến việc thực hiện các cam kết tín dụng, cho vay. Có cam kết tín dụng cho phép người vay vốn tiến hành rút tiền bất cứ lúc nào trong thời hạn theo thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Khi một người vay yêu cầu Ngân hàng thực hiện cam kết tín dụng thì NH phải đảm bảo đủ tiền ngay lập tức để đáp ứng nhu cầu của khách hàng nếu không NH sẽ phải đối mặt với uy tín trên thương trường, thậm chí đối mặt với mất khả năng thanh toán. Bất cân xứng giữa nhiều khoản dư nợ cho vay trung dài hạn với thời hạn vốn huy động và vốn đi vay. Tỷ lệ sử dụng vốn huy động ngắn hạn sang cho vay trung dài hạn tại nhiều Ngân hàng có thể vẫn đảm bảo theo quy định của NHNN, song nếu vận dụng ở mức tối đa thì khi tình hình thanh khoản chung có vấn đề thì những Ngân hàng dạng này sẽ gặp khó khăn đầu tiên. Việc sử dụng quá nhiều vốn vay ngắn hạn trên thị trường liên NH để mở rộng dư nợ cho vay trong danh mục tài sản có. Tỷ lệ này đối với một số Ngân hàng cổ phần cao gấp 1,5 - 2 lần số vốn huy động trên thị trường, nên khi tình hình chung các Ngân hàng đều gặp khó khăn về thanh khoản Để thực hiện việc cho vay một cách cho vay có hiệu quả, điều không thể không làm là phòng ngừa và hạn chế rủi ro xuống mức thấp nhất, vừa đảm bảo cho vay có điều kiện phát triển sản xuất kinh doanh trong khi bên cho vay vẫn thu hồi được gốc và lãi. Khó khăn trong sàn lọc khách hàng: - Căn cứ vào quy định của Luật các tổ chức tín dụng và các văn bản hướng dẫn kèm theo, tất cả các ngân hàng đều xây dựng cho mình quy trình tín dụng tách bạch giữa khâu thẩm định và quyết định cho vay. Tuy nhiên trong thực tế, việc sàng lọc, lựa chọn khách hàng, dự án, có hiệu quả, đủ độ tin cậy, có mức độ rủi ro thấp, đảm bảo khả năng trả nợ ngân hàng là một thách thức rất lớn đối với các tổ chức tín dụng. Độ tin cậy và tính chính xác của trong kết quả đánh giá, thẩm định khách hàng, thẩm định dự án tại các tổ chức tín dụng còn rất nhiều điều phải bàn. Hầu như không có tổ chức tín dụng nào đủ tự tin quyết định cấp tín dụng chỉ dựa vào bảng kết quả này mà không dựa vào tài sản đảm bảo hoặc những căn cứ khác. - Đối với Việt Nam, do những điều kiện thực tiễn cộng với thời gian chuyển sang kinh tế thị trường chỉ mới khoảng hai thập kỷ, văn hoá, tập quán kinh doanh của doanh nghiệp chưa được hình thành. Nhiều doanh nghiệp có tư tưởng kinh doanh theo kiểu "đánh quả". Do đó, đây là một khó khăn rất lớn đối với các ngân hàng trong việc sàng lọc, lựa chọn khách hàng. - Để có thể kiểm tra giám sát, đảm bảo việc sử dụng vốn vay đúng mục đích đòi hỏi các tổ chức tín dụng phải biết được dòng tiền vào và dòng tiền ra trong quá trình sử dụng vốn vay của bên vay. Đây là một vấn đề rất lớn đang đặt ra đối với các tổ chức tín dụng Việt Nam nói chung và các ngân hàng nói riêng vì việc kiểm soát dòng tiền bảo đảm bên vay sử dụng vốn đúng mục đích không phải là vấn đề đơn giản vì khác với các nền kinh tế phát triển, đối với Việt Nam, tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt vẫn ở mức rất cao. Đây chính là khó khăn rất lớn trong việc giám sát chi tiêu của người vay vốn. - Mặt khác, trong khi hệ thống thông tin trong nội bộ các tổ chức tín dụng, giữa các tổ chức tín dụng chưa được thông suốt, mà các doanh nghiệp được mở tài khoản ở rất nhiều các tổ chức tín dụng khác nhau và các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hết sức đa dạng, rất khó phân biệt nên việc "qua mặt" các ngân hàng trong việc sử dụng vốn vay sai mục đích là điều rất dễ xảy ra. Hoặc trường hợp một dự án, hợp đồng có thể vay ở nhiều tổ chức tín dụng là điều rất hay xảy ra. Chúng ta cùng xem xét một số vấn đề mà các ngân hàng có thể gặp phải trong hoạt động tín dụng của mình: + Lòng vòng vay mượn: - Doanh nghiệp ABC hoạt động sản xuất kinh doanh tổng hợp (xây lắp, sản xuất vật liệu xây dựng, đầu tư bất động sản…) cho rằng thị trường bất động sản đang ấm dần lên, nếu đầu tư ngay thì khả năng sẽ có lợi trong tương lai. Nhưng hiện tại, ABC không có đủ vốn, việc vay vốn ngân hàng để đầu tư vào bất động sản là không thể được vì ngân hàng đánh giá đây là loại hình kinh doanh quá rủi ro. Làm thế nào để ABC có tiền để đầu tư vào dự án bất động sản nêu trên? Hiện tại ABC đang là nhà thầu thi công công trình có quy mô lớn. ABC vay vốn ngân hàng để mua nguyên vật liệu của công ty XYZ (ABC chuyển tiền trả cho XYZ). XYZ là nhà phân phối chính của ABC. XYZ tiếp tục ký hợp đồng mua sản phẩm của ABC, XYZ chuyển tiền ngược trở lại cho ABC. Bây giờ tiền của ABC là doanh thu chứ không phải là vốn vay. Vậy là ABC có thể dùng khoản tiền này để thực hiện đầu tư dự án bất động sản nêu trên. Điều gì sẽ xảy ra nếu thời gian sau đó thị trường bất động sản bị đóng băng. Việc chuyển tiền, thanh toán nêu trên có thể thực hiện tinh vi hơn qua một vài doanh nghiệp nữa. Đây cũng là cách mà một số doanh nghiệp có thể thực hiện để thay những khoản nợ quá hạn bằng những khoản nợ mới mà trong giới tài chính ngân hàng gọi là đảo nợ. +Một hợp đồng có thể vay bao nhiêu ngân hàng? - Doanh nghiệp ABC trúng thầu xây dựng một công trình hạ tầng H. ABC ký hợp đồng phụ với các đơn vị thành viên của mình hoặc một số đơn vị khác làm B' cho mình. Các đơn vị này lại ký hợp đồng tiếp với các đơn vị khác nữa làm B''... Khi đó, tất cả các đơn vị có hợp đồng xây dựng công trình H đem đến các ngân hàng vay vốn. Do không có hệ thống thông tin kiểm tra một cách đầy đủ, khả năng tất cả các hợp đồng thi công nêu trên đều được vay vốn là có thể xảy. Những khoản tiền vay được vượt quá nhu cầu phục vụ cho việc thi công dự án H đã bị sử dụng sai mục đích. Vấn đề này có thể mô tả theo sơ đồ sau: Tình trạng bất cân xứng thông tin trong hoạt động cho vay: a, Thực trạng: -Trong hoạt động cho vay của các Ngân hàng Việt Nam, tình trạng bất cân xứng thông tin luôn hiện diện, ở đó ngân hàng luôn là người bất lợi hơn về mặt thông tin so với người đi vay. Đứng ở góc độ tổng thể người ta thừa nhận rằng lãi suất cao sẽ góp phần loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn tồi và những dự án kém hiệu quả. Tuy nhiên, thật khó để phân biệt được một dự án tốt một dự án xấu khi ngân hàng không có được thông tin đầy đủ về người đi vay. - Dựa trên thông tin không đầy đủ, quyết định của ngân hàng là đưa ra một mức lãi suất nhất định trên cơ sở rủi ro kỳ vọng về khách hàng. Với mức lãi suất đã ấn định, những dự án có suất sinh lợi kỳ vọng thấp hơn sẽ không hiệu quả nên không đi vay, trong khi những dự án có suất sinh lợi kỳ vọng cao hơn mới có khả năng vay. Suất sinh lợi kỳ vọng cao hơn hàm ẩn mức độ rủi ro lớn hơn trong khi không đảm bảo một suất sinh lợi thực tế cao. - Những người đã vay vốn thì có động cơ tìm kiếm những dự án rủi ro cao trong khi ngân hàng cũng không thể giám sát và ngăn ngừa hết mọi khả năng sử dụng vốn của bên đi vay được. Hiện tượng này được gọi là lựa chọn ngược hay lựa chọn bất lợi vốn dĩ tồn tại trong hầu hết các giao dịch có sự bất cân xứng thông tin giữa các bên. Nghịch lý này không chỉ phản ánh qua tình trạng méo mó lãi suất ở mức độ cao giữa các ngân hàng hiện nay mà hơn thế nó tiềm ẩn nguy cơ nợ xấu và đe doạ tính bền vững của hệ thống ngân hàng b, Nguyên nhân: Các cơ sở hạ tầng và điều kiện cần thiết trong hoạt động tín dụng còn nhiều hạn chế Hệ thống thông tin kế toán và báo cáo tài chính: - Hệ thống thông tin kế toán và báo cáo tài chính là một cơ sở cực kỳ quan trọng giúp cho các bên có liên quan nắm bắt được tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nếu một hệ thống thông tin kế toán và báo cáo tài chính không được tổ chức tốt và không minh bạch và có độ tin cậy cao sẽ rất khó có thể căn cứ để xem xét "sức khoẻ" của doanh nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay các DN vừa và nhỏ thường xây dựng báo cáo tài chính mang tính chất đối phó với cơ quan thuế; báo cáo chính thức thường thấp hơn tình trạng thực tế, không đảm bảo đủ điều kiện vay vốn ngân hàng. - Những vấn đề nêu trên đã tạo ra kẽ hở để một doanh nghiệp có nhiều hệ thống sổ sách báo cáo kế toán (thường là 3). Một dùng để báo cáo thuế (kết quả kinh doanh thấp hơn thực tế). Một dùng để vay vốn ngân hàng (kết quả báo cáo thường hơn thực tế). Một dùng cho nội bộ (số liệu thực). Với tình trạng như vậy, khi doanh nghiệp gặp khó khăn thì ngân hàng rất khó nhận biết tình trạng thực của doanh nghiệp là như thế nào. Hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu: Hệ thống thông tin phục vụ đánh giá xếp loại khách hàng - Một hệ thống thông tin đầy đủ về khách hàng như: lịch sử hình thành và quá trình phát triển, năng lực tài chính, mức độ tín nhiệm, đội ngũ điều hành là cơ sở hết sức quan trọng giúp cho việc thẩm định,xếp loại, lựa chọn khách hàng trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. - Trên thực tế, các thông tin hiện có của CIC (Trung tâm tín dụng thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ) có độ cập nhật không cao và các chỉ tiêu còn chung chung. Những thông tin cần thiết để xác định lịch sử, độ tin cậy của ban điều hành doanh nghiệp hầu như không có. Mặt khác, do chưa thực sự ý thức về tầm quan trọng của tính cập nhật và chính xác về thông tin nên các tổ chức tín dụng chưa có sự quan tâm đúng mức đến các thông tin, dữ liệu khi báo cáo cho CIC. Khi thẩm định doanh nghiệp, rất ít ngân hàng lấy thông tin từ CIC. Hệ thống thông tin nội bộ của từng tổ chức tín dụng: - Hiện nay, bản thân trong một tổ chức tín dụng, hệ thống lưu trữ, xử lý thông tin cũng chưa hiệu quả và tính hệ thống gần như không có. Thậm chí việc kiểm soát tổng dự nợ của một khách hàng (kể cả các đơn vị trực thuộc hạch toán báo sổ) là một vấn đề rất khó khăn đối với các tổ chức tín dụng. Hệ thống thông tin phục vụ cho việc thẩm định dự án: - Ngoài hệ thống thông tin dùng để đánh giá khách hàng, khi thẩm định dự án, phương án kinh doanh, các tổ chức tín dụng cần phải có hệ thống thông tín nhằm xác định, kiểm tra các thông số đầu vào và đầu r
Luận văn liên quan