Đề tài Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách của con người

Di truyền và môi trường đều có ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triển nhân cách, tạo ra các mức độ tác động khác nhau cho sự phát triển.Ngay từ khi ra đời con người đã mang yếu tố di truyền và cùng chịu sự tác động của môi trường khác nhau dẫn đến sự nhân cách của mỗi con người khác nhau. Mỗi cá nhân là hệ thống tích cực trong một môi trường nhất định. Việc lựa chọn là hoạt động tích cực trong một môi trường của chủ thể thường tương hợp với kiểu gen của chủ thể đó. Sự phát triển của cá nhân diễn ra trong mối quan hệ có sự hiệu chỉnh giữa hoạt động của chủ thể với yếu tố bẩm sinh, di truyền –môi trường đã giải thích vì sao mỗi trẻ em mang một nhân cách khác nhau. Qua đề tài ta hiểu được vai trò của yếu tố di truyền và yếu tố môi trường đối với sự phát triển nhân cách. Mỗi yếu tố đều mang một vai trò, tác động khác nhau tới sự hình thành và phát triển nhân cách. Nội dung đề tài gồm: I. Bẩm sinh – Di truyền 1. Khái niệm 2. Vai trò 3. Vai trò của giáo dục đối với bẩm sinh 4. Nghiệp vụ sư phạm II. Môi trường 1. Khái niệm 2. Vai trò của môi trường đối với sự phát triển nhân cách 3. Tác động của yếu tố môi trường đến cá nhân 4. Sự tác động của môi trường đến giáo dục 5. Nghiệp vụ sư phạm

docx24 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 12211 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách của con người, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trường ĐHSP TP Hồ Chí Minh Lớp: Sp mầm non B1 Môn: giáo dục học Đề tài: GVHD: Ân Thị Hảo Tên nhóm: Candies Danh sách nhóm: Phạm Thị Mai SBD: K36.902.042 Phạm Thị Nhẫn SBD: k36.902.060 Nguyễn Thị Thanh Nhã SBD: K36.902.061 Trần Thị Thanh Nga SBD: K36.902.053 Vũ Thị Tú My SBD:K36.902.046 Thành phố Hồ Chí Minh ngày 20 tháng 3 năm 2011 LỜI MỞ ĐẦU Di truyền và môi trường đều có ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triển nhân cách, tạo ra các mức độ tác động khác nhau cho sự phát triển.Ngay từ khi ra đời con người đã mang yếu tố di truyền và cùng chịu sự tác động của môi trường khác nhau dẫn đến sự nhân cách của mỗi con người khác nhau. Mỗi cá nhân là hệ thống tích cực trong một môi trường nhất định. Việc lựa chọn là hoạt động tích cực trong một môi trường của chủ thể thường tương hợp với kiểu gen của chủ thể đó. Sự phát triển của cá nhân diễn ra trong mối quan hệ có sự hiệu chỉnh giữa hoạt động của chủ thể với yếu tố bẩm sinh, di truyền –môi trường đã giải thích vì sao mỗi trẻ em mang một nhân cách khác nhau. Qua đề tài ta hiểu được vai trò của yếu tố di truyền và yếu tố môi trường đối với sự phát triển nhân cách. Mỗi yếu tố đều mang một vai trò, tác động khác nhau tới sự hình thành và phát triển nhân cách. Nội dung đề tài gồm: Bẩm sinh – Di truyền Khái niệm Vai trò Vai trò của giáo dục đối với bẩm sinh Nghiệp vụ sư phạm Môi trường Khái niệm Vai trò của môi trường đối với sự phát triển nhân cách Tác động của yếu tố môi trường đến cá nhân Sự tác động của môi trường đến giáo dục Nghiệp vụ sư phạm CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH CỦA CON NGƯỜI. Nhân cách được hình thành và phát triển dưới ảnh hưởng phối hợp của những nhân tố bẩm sinh-di truyền, môi trường, giáo dục và hoạt động cá nhân, song trong đó mỗi nhân tố có vai trò riêng của nó. I. Bẩm sinh-di truyền. 1. Khái niệm. Di truyền là sự tái tạo ở đời sau những thuộc tính sinh học có ở đời trước, là sự truyền lại từ cha mẹ đến con cái những đặc điểm những phẩm chất nhất định đã được ghi lại trong hệ thống gen gi truyền. Một số thuộc tính sinh học có ngay từ khi đứa trẻ mới sinh thì gọi là những thuộc tính bẩm sinh. Tuy nhiên, bẩm sinh khác di truyền. Di truyền học ngày nay đã chứng minh rằng những thuộc tính trên của cơ thể người đã được ghi lại trong hệ thống mã di truyền độc đáo và các mã di truyền này giữ lại và truyền lại những thông tin về các thuộc tính đó của cơ thể. Vào những năm 70 của thế kỷ XX, trước sự phát triển của khoa học, đặc biệt là sinh vật học và khoa học xã hội nhân văn, chủ nghĩa sinh học xã hội đã ra đời như một trào lưu khoa học liên ngành mới ở Tây Âu. Nhìn một cách tổng thể, chủ nghĩa này cũng không khác gì chủ nghĩa tự nhiên khi cho rằng, "tất cả những gì của con người do bẩm sinh mà có, thì không thể bị thay đổi do các điều kiện xã hội". Theo họ, "sự phát triển của bộ não, sự chuyên trách của bộ não, tốc độ và tính khuynh hướng của quá trình giáo dục con người được hình thành trên trái đất, chủ yếu bằng con đường di truyền" hay "lý tính của con người có thể được hiểu đúng đắn, rõ ràng nhất từ quan điểm về quá trình phát triển do các đến di truyền quy định Khái niệm di truyền y học : Là 1 bộ phận của di truyền người, chuyên nghiên cứu phát hiện các cơ chế gây bệnh dt và đề xuất các biện pháp phòng ngừa, cách chữa trị các bệnh di truyền ở người. Theo Menđen Trong sinh học – theo Menđen:Di truyền là hiện tượng truyền đạt lại các tính trạng của tổ tiên cho các thế hệ con cháu. Quan niệm của Bateson Theo quan niệm của Bateson (1906):di truyền học là khoa học nghiên cứu các đặc tính di truyền và biến dị vốn có của mọi sinh vật cùng với các nguyên tắc và phương pháp điều khiển các đặc tính đó. ở đây tính di truyền được biểu hiện ở sự giống nhau giữa con cái với cha mẹ, và tính biến dị biểu hiện ở sự sai khác giữa cha mẹ và con cái,cũng như giữa con cái với nhau. Theo quan điểm của CacMac: Bẩm sinh-di truyền là sự tái tạo ở trẻ những nét sinh học giống với cha mẹ. Một số thuộc tính sinh học mà trẻ có được khi mới sinh do di truyền được ở cha mẹ, được gọi là những thuộc tính bẩm sinh di truyền. Các thế hệ con người có thể truyền cho nhau những đặc điểm về cấu tạo cơ thể, màu da,màu tóc, nét mặt, về các loại hình thần kinh, về chức năng hoạt động của chúng...tạo thành sức sống tự nhiên của con người. Vd: Cha mẹ tóc màu đen, mắt nâu thì con cái họ tóc cũng màu đen, mắt nâu. Gen là một đơn vị của di truyền. Gen, hay di tố là một đoạn DNA mang một chức năng nhất định trong quá trình truyền thông tin di truyền. Trên nhiễm sắc thể, một gen thường có một vị trí xác định và liên kết với các vùng điều hòa, phiên mã và các vùng chức năng khác để bảo đảm và điều khiển hoạt động của gen. 2. Vai trò. Theo Menđen: Di truyền có vai trò quan trọng trong chọn giống, trong y học và đặc biệt là công nghệ sinh học hiện đại. Vd: Cừu Đôli bản nhân giống đầu tiên. Vd: Thanh long ruột đỏ. Trong di truyền y học: thì di truyền giúp phát hiện ra các căn bệnh di truyền từ cha mẹ sang con cái, xác định huyết thống,... Vd: bệnh tiểu đường, bệnh tim, bệnh ung thư,... Theo L.X Vưgôtxki Theo L.X Vưgôtxki: nhờ di truyền, con người sinh ra được mang đặc điểm của loài, đặc biệt là hệ thống thần kinh, não người, đảm bảo hoạt động tâm lí có thể đạt được ổ mức độ cao mà không loài nào có được. Nên thể chất không bẩm sinh không ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển nhân cách của trẻ, mà nó chỉ ảnh hưởng tới sự phát triển đó thông qua mối quan hệ của đúa trẻ với người lớn. Vd: khi trẻ bị tàn tật,cha mẹ và mọi người xung quanh có thái độ đúng mực, không thương hại, để ý nhiều đến tật đó và không làm cho trẻ tuủi thhân về việc đó thì đứa trẻ vẫn lớn lên với nhân cách lành mạnh, tự tin. Quan điểm phi Mác xít Quan điểm phi Mác xít cho rằng: yếu tố di truyền quyết định hoàn toàn sự phát triển nhân cách. Họ cho rằng: con người bẩm sinh đã thiện hoặc ác, vị tha hoặc ích kỷ...thực chất quan điểm này đưa ra nhằm che dấu nguồn gốc xã hội khách quan và sự xấu xa của những tội ác trong xã hội, gieo rắc sự hoài nghi và phủ nhận khả năng xây dựng và cải tạo,giáo dục con người. Quan điểm Mác xít cho rằng: di truyền không quyết định đối với sự phát triển nhân cách song cũng không phủ nhận vai trò của di truyền. Nếu phủ nhận vai trò của di truyền thì dễ dẫn đến mê tín dị đoan. Ngược lại, quá coi trọng yếu tố di truyền lại phủ lại phủ định yếu tố xã hội. Hiện tượng kế thừa tài năng trong một số gia đình nghĩa là sự xuất hiện liên tục nhiều người  có tài qua nhiều thế hệ. Trường hợp một số gia đình có nghề truyền thống qua nhiều thế hệ: nghệ thuật, y học... Phần lớn không chỉ do di truyền, tư chất nhất định mà còn do trong gia đình đó trẻ em được giáo dục trong bầu không khí hào hứng say mê đối với một loại hình hoạt động nhất định và được lôi cuốn tham gia rất sớm vào những hoạt động đó. Quan điểm Mác xít không phủ nhận, không tuyệt đối hoá. Di truyền là tiền đề, là cơ sở vật chất cho sự cho sự phát triển, tác động đến độ mạnh yếu của nhân cách. Di truyền tạo ra sức sống tự nhiên. Di truyền là tiềm năng tiềm tàng mà từ đó tư chất con người phát triển. Vai trò của di truyền được CacMac nói trong thuyết tiền đình, một trong ba thuyết học của Mac nói về vai trò của các nhân tố ảnh hưởng đến nhân cách con người. Thuyết này coi sự phát triển nhân cách, tâm lí con người là do những tố chất di truyền đã được định sẵn trong phôi, trong thai, nghĩa là được định sẵn nhờ di truyền. Phát triển là bộc lộ dần dần các thuộc tính ấy. Thuyết tiền đình là cơ sở lí luận của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, tuyên truyền sự ưu việt do di truyền đã định sẵn. Vd: người chủng tộc Mônggôlôit vẫn mãi là người mang chủng tộc Mônggôlôit da vàng, tóc đen, mắt nâu. Di truyền đóng vai trò quan trọng là tiền đề vật chất tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển nhân cách. Di truyền có liên quan đến việc hình thành các năng lực hoạt động trong các lĩnh vực nhất định như kinh tế, khoa học, nghệ thuật, thể dục thể thao… Di truyền không quy định xu hướng phát triển nhân cách của các cá nhân, cũng như không giới hạn trình độ phát triển của nhân cách. Nhưng trong mỗi cá nhân con người đều có những năng lực tiềm ẩn. Làm thế nào để phát hiện, khơi dậy và phát huy những năng lực ấy? Đó là một trong những mục đích cao cả của giáo dục, của các nhà trường, các nhà giáo, vì con người và cho con người. Chương trình mang tính di truyền về sự phát triển con người đảm bảo cho loài người tiếp tục tồn tại, đồng thời giúp cho con người thích ứng với những điều kiện biến đổi của các điều kiện tồn tại của nó. Nhờ di truyền, không những các thuộc tính sinh học của con người được kéo dài, mà những đặc điểm bẩm sinh của hệ thần kinh cũng đã tạo nên sự khác nhau về cơ sơ giải phẫu sinh lí của cái gọi là “sức sống” tự nhiên của mỗi người biểu hiện dưới dạng những tư chất, những năng khiếu, và về sau dưới dạng năng lực của mỗi người. Mỗi người đều có những khả năng nhất định để hoạt động thành công hơn trong một hoặc một vài loại hình hoạt động xã hội. C.Mac cho rằng: con người với tư cách là một thực thể tự nhiên trực tiếp, hơn nữa là thực thêt tự nhiên sống, con người được phú cho những sức mạnh tự nhiên, những sức sống đã trở thành thực thể tự nhiên hoạt động. (C.Mac va Ăngghen. Trích tác phẩm thời kì đầu). Những tư chất có sẵn trong cấu tạo của nó, trong các cơ quan cảm giác, các cơ quan vận động, ngôn ngữ... trở thành một trong nhữn diều kiện để thực hiện có kết quả một hoạt động cụ thể nào đó, mà bản thân con người đã lựa chọn dưới ảnh hưởng của những điều kiện, hoàn cảnh sống. Chính những tư chất này giúp cho con người phát triển mạnh mẽ trong những dạng hoạt động tương ứng về nghệ thuật khoa học và lao động, từ đó ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách của họ. Như vậy, di truyền tạo ra sức sống trong bản chất tự nhiên của con người, tao ra khả năng cho người đó hoạt động có kết quả trong một số lĩnh vực nhất định với phạm vi khá rộng của mỗi lĩnh vực. Di truyền là tiền đề vật chất, là khả năng tiềm tàng, là điều kiện cần thiết cho sự phát triển nhân cách. Ví dụ: Nhiều người tự nhiên đã có thính giác cảm nhận được sự tinh tế của âm thanh, giọng nói và giọng hát tốt, trí nhớ lạ thường, thể chất đặc biệt được thể hiện ở chiều cao, sức học... Nếu một đứa trẻ có một số dị tật bẩm sinh về một số bộ phận như tai, mắt...thì điều hiển nhiên rằng đứa trẻ đó sẽ gặp khó khắn hơn những đứa trẻ bình thường khác trong quá trình học tập tiếp thu những vấn đề mà giáo dục mang lại. Nếu một đứa trẻ được sinh ra trong một gia đình có truyền thống giỏi toán thì nó sẽ giỏi toán. Tuy nhiên bẩm sinh, di truyền không quy định trước hình thái cụ thể trong tương lai của cá nhân. Không quyết định sự phát triển về mặt xã hội, về mặt tâm lí của cá nhân. Những đặc điểm sinh học mặc dù có ảnh hưởng lớn đến tài năng xúc cảm, sức khỏe thể chất... của con người nhưng nó chỉ tạo tiền đề, khả năng cho người đó hoạt động có kết quả trong một số lĩnh vực nhất định, với phạm vi khá rộng của mỗi lĩnh vực. Song khả năng này có trở thành hiện thực hay không còn phụ thuộc vào những điều kiện sống, điều kiện giáo dục, lao động, học tập, rèn luyện, cũng như vào việc hoạt động tích luỹ kinh nghiệm của cá nhân. Vd: có thể thấy ở một số gia đình liên tục xuất hiện nhiều người có tài qua nhiều thế hệ. Điều đó không chỉ do sự di truyền những tư chất nhất định mà còn do ở các gia đình này trẻ em được giáo dục, được sống trong môi trường thuận lợi và nhất là được rèn luyện, được tham gia từ rất sớm vào các hoạt động để tạo nên tài năng đó. Không có một chương trình di truyền về hành vi xã hội - quá trình hình thành và phát triển nhân cách của mỗi con người khi mới sinh ra là bắt đầu từ con số “0” và được diễn ra trong các điều kiện độc đáo...do đó mỗi người đều được phát triển theo một sắc thái và kiểu riêng của mình. 3. Vai trò của giáo dục đối với bẩm sinh. Do di truyền không những tạo ra những tiến bộ sinh học thuận lợi, mà đôi khi còn mang lại những yếu tố không thuận lợi. Vd: trẻ có năng khiếu về âm nhạc, hội họa, hoặc có dị tật bẩm sinh về thị giác hoặc thính giác,... Do đó, giáo dục cần và có thể: Giáo dục tạo điều kiện thuận lợi để những mầm mống của con người có trong chương trình gène được phát triển. Chẳng hạn, trẻ được di truyền cấu tạo cột sống, bàn tay và thanh quản … nhưng nếu không được giáo dục thì trẻ khó có thể đi thẳng đứng bằng hai chân, biết sử dụng công cụ hay phát triển ngôn ngữ… Phát hiện kịp thời và đầy đủ những tiền đề sinh học thuận lợi, không để cho chúng bị phai mờ Vd: Bé hát hay, mua dẻo. Phát hiện những mầm mống năng khiếu của cá nhân để bồi dưỡng và phát triển thành năng lực. Vd: Bé hát hay, múa dẻo ta cho bé tập hát, tập múa theo đúng chuyên môn để trở thành sở trường của bé. Vd: Bé sở hữu tính nóng nảy từ cha, ta dạy cho trẻ biết cach kiểm soát tinh mình bằng Hạn chế hoặc cải tạo những yếu tố không thuận lợi do di truyền, bẩm sinh đem lại. các hoạt đông như: vẽ, tô màu,.. Giáo dục có ảnh hưởng quan trọng đặc biệt đối với những người bị khuyết tật. Giáo dục giúp cá nhân tập luyện, khắc phục các nhược điểm sinh học. Giáo dục có những cơ sở đặc biệt để chăm sóc, giúp họ hồi phục những chức năng khiếm khuyết, có được sự phát triển về trí tuệ. Vd: Khả năng nhận biết bằng tai của bé kém, ta tập cho bé nghe các loại âm thanh khác nhau để bé dần dần biết phân biệt. Giáo dục phát hiện, khai thác và tận dụng những yếu tố thuận lợi, đồng thời phát hiện, hạn chế và khắc phục những yếu tố không thuận lợi của di truyền, tác động tích cực tới sự hình thành và phát triển nhân cách của người được giáo dục. 4. Nghiệp vụ sư phạm. Trong công tác giáo dục, giáo viên cần đánh giá đúng mức vai trò của bẩm sinh- di truyền, phải hết sức chú ý đến cái bản chất tự nhiên của con người, phải chăm sóc phát hiện và vun xới những năng khiếu và năng lực của con người, phải tính đến những khuynh hướng, những hứng thú của mỗi người. Nếu xem nhẹ ảnh hưởng của nhân tố này thì đã bỏ qua yếu tố tư chất, tiền đề của sự phát triển. Ngược lại nếu tuyệt đối hóa hoặc đánh giá quá cao ảnh hưởng của nhân tố di truyền là sai lầm về mặt nhận thức luận của thuyết “ định mệnh do di truyền”, thuyết “ sinh học hóa giáo dục “ từ đó sẽ dẫn đến quan niệm sai lầm , phản động về giáo dục. Mỗi người có những đặc điểm riêng về bẩm sinh, di truyền nên cần có phương pháp giáo dục thích hợp nhằm thực hiện cá biệt hóa trong giáo dục. Không nên có định kiến với trẻ. Cần phát hiện kịp thời những khả năng (năng khiếu) của trẻ nhằm tạo điều kiện cho trẻ phát triển. MÔI TRƯỜNG Khái niệm Môi trường là hệ thống phức hợp các hoàn cảnh bên ngoài,các điều kiện tự nhiên và xã hội xung quanh cần thiết cho sự hoạt động sống và phát triển của nhân cách con người. Môi trường gồm hai loại: Môi trường tự nhiên Môi trường văn hóa- xã hội Môi trường tự nhiên Môi trường tự nhiên bao gồm toàn bộ những gì không phải là con người và do con người tạo ra cũng như cộng đồng xã hội người nhưng nó có liên quan đến con người như một chủ thể và tác động đến cược sống, đến tâm-sinh lí của con người Môi trường tự nhiên gồm tất cả những gì có trong thiên nhiên và những quyền năng của nó có thể tác động đến con người. Đó la những gì trực tiếp gần gũi với con người, những gì dễ cảm nhận, dễ thấy, như đất đai, sông núi, nắng mưa, hạn hán, lũ lụt, thời tiết nơi ta ở.... và cả những gì khó nhận biết như hiệ tượng bão từ, hiệu ứng nhà kính hay các hành tinh xa xôitrong vũ trụ v.v ... tự nhiên hoạt động theo các quy luật của nó. Mọi sự tồn tại của tự nhiên và các quy luật vận động của nó đến tác động nhất định đến con người và sự phát triển nhân cách của con người. Môi trường văn hóa - xã hội Môi trường văn hóa Văn hóa được hiểu theo thuật ngữ gốc là giáo hóa, là giáo dục và cảm hóa con người theo cái đẹp Văn hóa theo Phương Tây là rất quý giá, thiêng liêng, vừa có nghĩa là chăm sóc, vun trồng Văn hóa theo Phương Đông coi văn hóa không phải là một vật, là một cái gì đó quan sát và cầm nắm được, là một trạng thái, tính chất và tác động đến đời sống mỗi cá nhân và của cả cộng đồng Theo nhà văn hóa Đào Duy Anh: văn hóa là văn vật và giáo hóa, văn hóa là giáp hóa con người trở lên đẹp đẽ Fedico Mayer định nghĩa: văn hóa là tổng thể sóng động của sự sồng động trong quá khứ và hiện tại, qua các thế kỉ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành lên hệ thống và thị yếu, những yếu tố xác định lên đặc tính riêng của mỗi dân tộc Mỗi sự vật đều có hai mặt: một mặt, có đặc tính cụ thể, hướng tới thỏa mãn nhu cầu của con người. Mặt khác, nó mang giá trị văn hóa và là khuôn mẫu quy định nhận thức, thái độ hành vi ứng xử của con người Tác động văn hóa âm hay dương tùy thuộc vào tính chât tác động của nó đối với người tiếp nhận, dù không nhìn thấy nhưng nó vẫn tồn tại và nó tạo ra môi trường thứ hai, nuôi dưỡng yếu tố tinh thần con người. Cuộc sống của mỗi cá nhân, cộng đồng có hai môi trường: môi trường sinh học(sinh quyển) và môi trường văn hóa(văn quyển). Hai môi trường tác động lẫn nhau, môi trường văn hóa ngày càng có vai trò quyết định trong sự phát triển của mỗi cá nhân và cộng đồng Như vậy, văn hóa được hiểu là cái do con người tạo ra và tích lũy qua mỗi thế hệ. Đồng thời cái đó trở thành tác nhân chủ yếu quy định nhận thức, thái dộ và hành vi ứng xử của mỗi cá nhân, cộng đồng tức là quy định sự phát triển của mỗi cá nhân 1.2.2. Môi trường xã hội Môi trường xã hội là một hệ thống các quan hệ hiện hữu giữa con người với con người và giữa con người với thế giới đồ vật do con người chế tạo ra. Môi trường xã hội không phải là không gian tĩnh, trong đó bao gồm các cá nhân và dồ vật tồn tại độc lập, mà là hệ thống bao gồm hai mối quan hệ có tính phổ biến: quan hệ giữa các chủ thể trong cộng đồng và quan hệ giựa các chủ thể với thế giới đồ vật do con người sáng tạo. Môi trường xã hội có phổ rất rộng, bao gồm từ môi trường rất cụ thể, ổn định và gần gũi với trẻ em như gia đình, nhóm bạn v.v..đến những môi trường linh hoạt và rộng lớn như các phuong tiên thông tin, các tổ chức xã hội trực tiếp vá gián tiếp tác động tới sự phát triển cá nhân. Môi trường xã hội được phân thành môi trường lớn và môi trường nhỏ: + môi trường nhỏ gồm:khu phố, khu phố, gia đình, nhà trường + môi trường lớn gồm: kinh tế, văn hóa, chinh trị, kh-cn 1.2.3 Quan hệ giữa môi trường xã hội với môi trường văn hóa Giữa môi trường xã và môi trường văn hóa có quan hệ hữu cơ, chi phối nhau, tạo thành môi trường văn hóa – xã hội Môi trường xã hội là hệ thống quan hệ diễn ra hằng ngày, trong khoảng thời gian, không gian cụ thể với nhau và giữa chủ thể với thế giớ đồ vật. Các quan hệ này chịu sự chi phối bởi các khuôn mẫu nhất định, mỗi cá nhân chịu sự chi phối bởi khuôn mẫu của chinh gia đình, được hình thành và tích lũy qua các thế hệ và chịu sự tác động khuôn mẫu cộng đồng lớn hơn. Điều này cho thấy để hình thành và phát triển nhân cách con người chịu tác động của rất nhiều khuôn mẫu Bất kì môi trường xã hội nào cũng bao hàm 2 yếu tố: + Các qua hệ xã hội hiện thực, hiện hữu, công khai + Các yếu tố văn hóa ngầm ẩn Như vậy, sự đan xen và chi phối lẫn nhau giữa quan hệ xã hội hiện tại của các thành viên trong cộng đồn
Luận văn liên quan