1. Lý do chọn đề tài
Theo bậc thang như cầu của Maslow thì nhu cầu nhà ở chính là một trong những nhu cầu cơ bản nhất của con người, do đó nghiên cứu về vấn đề nhu cầu nhà ở là một nghiên cứu mang tính thực tiễn cao. Hơn nữa mục tiêu mà đề tài hướng đến là giải quyết nhu cầu nhà ở cho các cặp vợ chồng từ 25-34 tuổi, có thu nhập ổn định tại khu vực Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên tại sao đa số các cặp vợ chồng này lại chưa có nhà để ở? Xuất phát từ mối quan tâm này, nhóm tiến hành nghiên cứu đề tài trên. Đồng thời đề tài này liên quan trực tiếp đối với chuyên ngành của Nhóm, do đó nghiên cứu đề tài sẽ là cơ hội cho từng thành viên trong nhóm bổ sung và phát triển kiến thức chuyên ngành.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu chung mà cả nhóm hướng đến khi tiến hành nghiên cứu đề tài đó là thông qua quá trình nghiên cứu sẽ hiểu và nắm bắt được những vấn đề cơ bản trong thị trường bất động sản, xác định được các yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới nhu cầu nhà ở của người tiêu dùng.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của đề tài là sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng nhằm xác định mối quan hệ của các biến liên quan tới nhu cầu nhà ở của các cặp vợ chồng từ 25-34 tuổi có thu nhập ổn định tại khu vực Thành phố Hồ Chí Minh.
29 trang |
Chia sẻ: superlens | Lượt xem: 2838 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các yếu tố ảnh hưởng tới nhu cầu nhà ở của các cặp vợ chồng từ 25- 34 tuổi có thu nhập ổn định ở khu vực Thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA KINH TẾ PHÁT TRIỂN
BỘ MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KINH TẾ
ĐỀ TÀI
Các yếu tố ảnh hưởng tới nhu cầu nhà ở của các cặp vợ chồng từ 25- 34 tuổi có thu nhập ổn định ở khu vực Thành phố Hồ Chí Minh
Giáo viên hướng dẫn: TS Trần Tiến Khai & Th.S Nguyễn Ngọc Danh
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Hiền
Hồ Quang Nhật
Vũ Thị Bảo Nhung
Nguyễn Lan Quỳnh
Tp.Hồ Chí Minh, ngày 23 tháng 09 năm 2012
TÓM TẮT ĐỀ TÀI
Đề tài của nhóm là đề cương chi tiết nghiên cứu “Các yếu tố ảnh hưởng tới nhu cầu nhà ở của các cặp vợ chồng từ 25- 34 tuổi có thu nhập ổn định ở khu vực Thành phố Hồ Chí Minh.” nhằm phục vụ trực tiếp cho môn phương pháp nghiên cứu kinh tế, và môn dự báo và phân tích dữ liệu sau này.
Lý do chọn đề tài
Theo bậc thang như cầu của Maslow thì nhu cầu nhà ở chính là một trong những nhu cầu cơ bản nhất của con người, do đó nghiên cứu về vấn đề nhu cầu nhà ở là một nghiên cứu mang tính thực tiễn cao. Hơn nữa mục tiêu mà đề tài hướng đến là giải quyết nhu cầu nhà ở cho các cặp vợ chồng từ 25-34 tuổi, có thu nhập ổn định tại khu vực Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên tại sao đa số các cặp vợ chồng này lại chưa có nhà để ở? Xuất phát từ mối quan tâm này, nhóm tiến hành nghiên cứu đề tài trên. Đồng thời đề tài này liên quan trực tiếp đối với chuyên ngành của Nhóm, do đó nghiên cứu đề tài sẽ là cơ hội cho từng thành viên trong nhóm bổ sung và phát triển kiến thức chuyên ngành.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu chung mà cả nhóm hướng đến khi tiến hành nghiên cứu đề tài đó là thông qua quá trình nghiên cứu sẽ hiểu và nắm bắt được những vấn đề cơ bản trong thị trường bất động sản, xác định được các yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới nhu cầu nhà ở của người tiêu dùng.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của đề tài là sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng nhằm xác định mối quan hệ của các biến liên quan tới nhu cầu nhà ở của các cặp vợ chồng từ 25-34 tuổi có thu nhập ổn định tại khu vực Thành phố Hồ Chí Minh.
Nội dung nghiên cứu
Đề tài được xây dựng dựa trên ý tưởng tại sao các cặp vợ chồng có thu nhập ổn định, có khả năng chi trả cho một căn hộ trong hiện tại hoặc tương lai nhưng chưa có nhà để ở. Kế thừa ý tưởng và mô hình của các nghiên cứu đi trước, sau đó áp dụng sao cho phù hợp với bài nghiên cứu về nhu cầu nhà ở của các cặp vợ chồng có độ tuổi từ 25-34 có thu nhập ổn định tại khu vực Thành phố Hồ Chí Minh. Cùng với đó, nhóm đi sâu nghiên cứu và phát triển thêm một số yếu tố tác động đến nhu cầu tiêu dùng của các đối tượng trên. Nhằm xây dựng một mô hình phù hợp với đề tài của Nhóm. Đề cương nghiên cứu của nhóm đã xác định được rõ các các biến có ảnh hưởng như thế nào đến nhu cầu chi trả cho một căn hộ gia đình.
Đóng góp của đề tài
Đề tài nghiên cứu có ý nghĩa thực tế cao. Xác định rõ các hành vi, yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu tiêu dùng nhà ở của các cặp vợ chồng trẻ hiện nay. Nhằm giúp cho các doanh nghiệp hiểu được tâm lý khách hàng, phân khúc được thị trường, tung ra các sản phẩm phù hợp hơn với nhu cầu thị yếu của đa bộ phận người tiêu dùng hiện tại. Giúp cho các nhà hoạch định chính sách đưa ra những chính sách phù hợp đối với thị trường bất động sản hiện tại.
Nhóm hy vọng với nghiên cứu này đề tài sẽ trở thành một tài liệu tham khảo có ích cho những bài nghiên cứu sau này.
Hướng phát triển của đề tài
Nhằm phù hợp với mục tiêu của một đề tài nghiên cứu, bài nghiên cứu của nhóm đã xây dựng được một mô hình cơ bản phù hợp với đề tài đưa ra. Hướng phát triển của đề tài trong tương lai đó là mở rộng ra ngoài khu vực Thành phố Hồ Chí Minh là các tỉnh thành lân cận khác, nhằm xác định được một mô hình tổng quát về nhu cầu nhà ở trong thị trường Bất động sản ở Việt Nam. Để có thể áp dụng vào thực tiễn trong thời gian sớm nhất.
Yếu tố ảnh hưởng tới nhu cầu nhà ở của các cặp vợ chồng từ 25- 34 tuổi có thu nhập ổn định ở khu vực Thành phố Hồ Chí Minh
Đặt vấn đề
Tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu
Như chúng ta đã biết Bất động sản là nền tảng của nền kinh tế, nó ảnh hưởng tới hầu hết các hoạt động của nền kinh tế. Do đó ổn định và phát triển thị trường bất động sản có vai trò quyết định đối với sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên với sự khủng hoảng chung của nền kinh tế, thị trường bất động sản Việt Nam hiện nay cũng rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Do đó, về phía các doanh nghiệp bất động sản, vấn đề bây giờ không còn là tìm ra và phân khúc nhóm khách hàng có nhu cầu thực sự mà hơn thế nữa nhóm khách hàng này phải có khả năng chi trả. Và với phân khúc nhóm khách hàng là các cặp vợ chồng từ 25-34 tuổi có thu nhập ổn định, thì đây là một phân khúc thị trường tiềm năng đối với các doanh nghiệp bất động sản, giúp các doanh nghiệp này tìm ra hướng tăng trưởng mới. Từ đó tạo động lực cho các ngành kinh tế liên quan tăng trưởng.
Chủ đề cụ thể
Theo khảo sát của The Economist’s Pocket World in Figures 2010, vào năm 2010 Việt Nam là nước có tỷ lệ kết hôn đứng thứ tư, trong số 10 quốc gia có tỷ lệ người đã kết hôn cao nhất trên thế giới. Mặt khác theo thống kê của cục thống kê Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2008 số người kết hôn trong độ tuổi từ 25-34 là 46.344 người (trong đó số người trong độ tuổi từ 25-29 tuổi là 30.678 người và trong độ tuổi từ 30-34 tuổi là 15.666 người.)
Những con số trên cho thấy nếu các cặp vợ chồng này có nhu cầu về nhà ở sau khi kết hôn thì nhu cầu này là rất lớn. Cộng thêm khả năng chi trả trong tương lai tương đối tốt, vì những người này có thu nhập tương đối ổn định. Tuy nhiên cung về bất động sản cho phân khúc thị trường này ở thành phố ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay rất hạn chế, do đó không đáp ứng được nhu cầu nhà ở cho nhóm khách hàng tiềm năng này. Trên quan điểm đó nhóm tiến hành nghiên cứu:
“Những yếu tố ảnh hưởng tới nhu cầu nhà ở của các cặp vợ chồng từ 25-34 tuổi có thu nhập ổn định ở khu vực Thành phố Hồ Chí Minh”
Đối tượng và khu vực nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Nhu cầu nhà ở của các cặp vợ chồng từ 25-34 tuổi có thu nhập ổn định
Khu vực nghiên cứu: Nhóm lựa chọn khu vực nghiên cứu là Thành phố Hồ Chí Minh, là trung tâm kinh tế của cả nước, đồng thời đây là nơi thị trường bất động sản sôi động và nhạy bén nhất cả nước. Hơn nữa, đây là khu vực sẽ giúp nhóm tiếp cận và thu thập dữ liệu sơ cấp một cách thuận tiện.
Lợi ích mang lại từ đề tài
Đối với doanh nghiệp: Tìm ra và phân khúc được nhóm khách hàng tiềm năng, từ đó doanh nghiệp có thể đáp ứng được nhu cầu của nhóm khách hàng tiềm năng này. Nhằm tìm ta được hướng tăng trưởng trong tình hình kinh tế khó khăn hiện nay.
Đối với người tiêu dùng: Phần nào đáp ứng được nhu cầu nhà ở cho các cặp vợ chồng từ 25-34 tuổi có thu nhập ổn định
Đối với toàn xã hội: sử dụng nguồn lực hiệu quả hơn.
Cấu trúc của báo cáo
Đặt vấn đề
Những khái niệm liên quan và tổng quan tài liệu
Phương pháp nghiên cứu
Kết quả thu được và phân tích kết quả
Kết luận và đề xuất giải pháp
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát: Hiểu và nắm bắt được những vấn đề cơ bản của thị trường Bất động sản
Mục tiêu cụ thể:
Hiểu được bản chất của quyết định chọn mua một căn hộ của khách hàng: quyết định được đưa ra bị ảnh hưởng bởi những yếu tố nào?
Đo lường được mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến quyết định chọn mua của khách hàng, qua đó xác định rõ được yếu tố nào là quan trọng nhất.
Qua kết quả nghiên cứu, rút ra được những đề xuất cho doanh nghiệp để doanh nghiệp có thể tiếp tục phát triển đồng thời đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng.
Câu hỏi nghiên cứu
Vì sao các cặp vợ chồng từ 25-34 tuổi có thu nhập ổn định ở khu vực Thành phố Hồ Chí Minh hầu hết không có nhà riêng để ở?
Nhu cầu về nhà ở của họ như thế nào?
Cần giải quyết nhu cầu về nhà ở của đối tượng này ra sao?
Tổng quan tài liệu và cơ sở lý thuyết
Các khái niệm liên quan
Giá sẵn lòng trả
Dưới cách nhìn của các nhà phân tích lợi ích chi phí thì giá sẵn lòng trả là một khoản tiền mà một người sãn sàng chi trả hoặc nhận để có thể bàng quan giữa tình trạng hiện tại và tình trạng nếu có dự án với khoản tiền chi trả hoặc nhận đó
Theo Barry Field & Nancy Olewiler, Kinh tế môi trường (2005) thì giá trị của một món hàng đối với một người nào đó chính là giá họ sẵn sàng trả cho món hàng ấy. Giá sẵn lòng trả nói cách khác cũng chính là khả năng chi trả.
Với đề tài nghiên cứu này, Nhóm lựa chọn tiếp cận giá sẵn lòng trả theo cách thứ hai. Vì nó phản ánh được khả năng chi trả của các cặp vợ chồng từ 25-34 tuổi có thu nhập ổn định đồng thời có nhu cầu về nhà ở.
Nhu cầu
Theo Wiener N. A Machine, John Wiley & Sons thì trong phạm vi nhận thức hiện tại có thể định nghĩa nhu cầu là tính chất của cơ thể sống, biểu hiện trạng thái thiếu hụt của chính cá thể đó và do đó phân biệt nó với môi trường sống. Nhu cầu tối thiểu nhất, hay còn gọi là nhu yếu tuyệt đối, đã được lập trình qua quá trình rất lâu dài tồn tại, phát triển và tiến hóa 1
Theo tổng hợp từ nguồn wikipedia thì nhu cầu có nhiều định nghĩa như sau:
Nhu cầu là một hiện tượng tâm lý của con người; là đòi hỏi, mong muốn, nguyện vọng của con người về vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển. Tùy theo trình độ nhận thức, môi trường sống, những đặc điểm tâm sinh lý, mỗi người có những nhu cầu khác nhau.
Nhu cầu là cảm giác thiếu hụt một cái gì đó mà con người cảm nhận được.
Nhu cầu là yếu tố thúc đẩy con người hoạt động. Nhu cầu càng cấp bách thì khả năng chi phối con người càng cao. Về mặt quản lý, kiểm soát được nhu cầu đồng nghĩa với việc có thể kiểm soát được cá nhân (trong trường hợp này, nhận thức có sự chi phối nhất định: nhận thức cao sẽ có khả năng kiềm chế sự thoả mãn nhu cầu).
Vậy nhìn chung các định nghĩa đều thống nhất rằng: nhu cầu của con người là một trạng thái cảm giác thiếu hụt một sự thỏa mãn nhu cầu nào đó. Người ta cần thức ăn, quần áo, nơi ở, sự an toàn, của cải, sự quy trọng và một vài thứ khác để tồn tại. Chúng tồn tại như một bộ phận cấu thành cơ thể con người và thân nhân con người.
Lãi suất
John Maynard Keynes lập luận rằng lãi suất là một hiện tượng tiền tệ phản ánh mối quan hệ giữa cung và cầu về tiền. Cung tiền được xác định một cách ngoại sinh, cầu tiền phản ánh các nhu cầu đầu cơ, phòng ngừa và giao dịch về tiền.
Trái với Keynes, các nhà kinh tế học cổ điển trước đó đã coi lãi suất là một hiện tượng thực tế, được xác định bởi áp lực của năng suất – cầu về vốn cho mục đích đầu tư và tiết kiệm.
Trong phạm vi của bài nghiên cứu, lãi suất được tiếp cận theo hướng lãi suất là tỷ lệ của tổng số tiền phải trả so với tổng số tiền vay trong một khoảng thời gian nhất định. Lãi suất là giá mà người vay phải trả để có được sử dụng tiền không thuộc sở hữu của họ và là lợi tức người cho vay có được đối với việc trì hoãn chi tiêu.
Tâm lý
Tâm lý là những hiện tượng tinh thần nảy sinh do sự tác động của thế giới khách quan vào não, được não phản ánh, nó gắn liền, điều hành, điều chỉnh mọi hành vi hoạt động của con người. Do đó tâm lý được đo lường qua giá sẵn lòng trả của khách hàng.
Các lý thuyết liên quan
Lý thuyết hành vi người mua
Theo Philip Kotler quá trình ra quyết định và quyết định mua hàng chịu ảnh hưởng bởi 4 đặc điểm của người mua:
Văn hóa
Xã hội
Cá tính
Tâm lý
Trong đó Nhóm chúng tôi đặc biệt quan tâm tới đặc điểm tâm lý. Vì đây là yếu tố quyết định mua/không mua và thời gian mua sản phẩm. Như chúng ta đã biết nhu cầu luôn luôn tồn tại cùng với con người. Tuy nhiên, hầu hết các nhu cầu từ phía tâm lý thường không đủ mạnh để thúc đẩy con người hành động ngay lập tức, mà một nhu cầu sẽ trở thành hành động khi nó tăng lên đến một mức đủ mạnh. Mặt khác thì tại những thời điểm khác nhau người ta luôn có những nhu cầu khác nhau cần được thỏa mãn.
Việc đáp ứng nhu cầu nhà ở cho nhóm khách hàng trong độ tuổi từ 25-34 tuổi có thu nhập ổn định là hoàn toàn hợp lý, vì nhóm khách hàng này trong gia đoạn mới kết hôn là rất cao, và đa số các cặp vợ chồng đều có tâm lý thích riêng tư, cộng thêm người Việt Nam lại có quan niệm “an cư lạc nghiệp”, đồng thời với độ tuổi và thu nhập ổn định họ hoàn toàn có một nhu cầu đủ mạnh để đi đến quyết định mua nhà, tất nhiên quyết định này bởi hỗ trợ bởi khả năng chi trả của họ.
Yếu tố tiếp theo mà Nhóm quan tâm đó là đặc điểm xã hội mà cụ thể là yếu tố nhóm tham khảo.Khi quyết định lựa chọn mua một sản phẩm ngoài những đặc điểm xuất từ người mua, thì ngoài ra người ta cũng có thể tham khảo ý kiến của những nhóm tham khảo khác. Và trong những sản phẩm dịch vụ đắt tiền vợ chồng bàn bạc để thông qua quyết định chung, cụ thể trong quyết định lựa chọn mua nhà thì vợ- chồng có vai trò ngang nhau.
4.2.1 Mô hình 5 giai đoạn của quá trình mua sắm.
Nguồn:Marketing căn bản, Philip Kotler, 2007
Đây là mô hình 5 giai đoạn của quá trình mua sắm, và 5 giai đoạn này càng rõ ràng hơn với hàng hóa là nhà ở.
Giai đoạn ý thức nhu cầu: Đây là giai đoạn đâu tiên trong quá trình mua sắm của người mua. Vì muốn mua một sản phẩm đầu tiên người mua phải xác định được mình cần và mong muốn điều gì từ sản phẩm.
Giai đoạn tiếp theo là tìm kiếm thông tin: người tiêu dùng bắt đầu tìm kiếm thông tin về những sản phẩm phù hợp với nhu cầu của mình. Các nhóm nguồn thông tin được chia thành 4 nhóm như sau:
Nguồn thông tin cá nhân: Gia đình, bạn bè, hàng xóm, người quen.
Nguồn thông tin thương mại: Quảng cáo, nhân viên bán hàng, đại lý, bao bì, triển lãm.
Nguồn thông tin công cộng: các phương tiện thông tin đại chúng, các tổ chức nghiên cứu người tiêu dùng.
Nguồn thông tin thực nghiệm: sờ mó, nghiên cứu và sử dụng sản phẩm.
Giai đoạn đánh giá các phương án: dựa trên những thông tin thu thập được người tiêu dùng sẽ cố gắng thỏa mãn cao nhất nhu cầu của mình với giới hạn về ngân sách, và tất nhiên những đánh giá này sẽ khác nhau tương đối, với những nhóm người khác nhau.
Quyết định mua hàng: Với những đánh giá ở trên người tiêu dùng sẽ đưa ra cho mình được quyết định lựa chọn sản phẩm có tính logic. Tuy nhiên quyết định mua hàng còn phụ thuộc vào 2 yếu tố rủi ro khác:
Thái độ của những người khác (yếu tố tham khảo): Ví dụ gia đình anh A thích một ngôi nhà ở nội thành, nhưng bố mẹ anh ta (ở ngoại thành) lại muốn sống gần con cháu. Và cuối cùng anh A quyết định mua một căn nhà ngoại thành.
Yếu tố bất ngờ: người tiêu dùng mua hàng dựa trên cơ sở những yếu tố trước đó như thu nhập dự kiến của gia đình, chi phí sử dụng dịch vụ tiện ích đi kèm, giá và lợi ích dự kiến của sản phẩm Giả sử anh B đang dự định mua một ngôi nhà với số tiền 1 tỷ, nhưng anh ta bỗng nhiên nhận được số tiền thừa kế 5 tỷ, và anh ta quyết định sẽ mua một ngôi nhà khác.
Hành vi hậu mãi: Sau khi mua sản phẩm/dịch vụ, người tiêu dùng sẽ cảm thấy hài lòng hoặc không hài lòng ở một mức độ nhất định nào đó. Và kèm theo hai thái độ này sẽ là những hành động trái ngược nhau. Cụ thể, một sản phẩm và những dịch vụ đi kèm làm hài lòng khách hàng sẽ giúp khách giới thiệu sản phẩm của công ty ra bên ngoài, hoặc ngược lại là không giới thiệu hoặc thậm trí còn nói không tốt về sản phẩm/dịch vụ của công ty tới những người tiêu dùng khác. Do đó nghiên cứu sự hài lòng của khách hàng cũng là một trong những bược rất quan trọng để giúp công ty phát triển.
Các mô hình tham khảo
Các yếu tố quyết định đến giá nhà ở Trung và Đông Âu
Được nghiên cứu bởi Balázs Égert &Dubravko Mihaljek năm 2007. Bài nghiên cứu đưa các các câu hỏi để đi nghiên cứu những yếu tố quyết định đến giá nhà ở khu vực Trung và Đông Âu ví dụ như :các yếu tố thu nhập bình quân đầu người, lãi suất thực, tăng trưởng tín dụng, yếu tố nhân khẩu học và các chỉ số phát triển thể chế của thị trường nhà ở và thị trường tài chính nhà ở là các yếu tố quyết định quan trọng của giá nhà tại Trung và Đông Âu.Bài nghiên cứu này cũng chỉ rõ các nhân tố ảnh hưởng như thế nào đến giá nhà ở khu vực Trung và Đông Âu. Nghiên cứu đã đưa ra các kết luận về các yếu tố ảnh hưởng đến giá nhà, so sách các yếu tổ ảnh hưởng trong 2 khu vực CEE cà OECD như sau:
GDP có tác động mạnh mẽ tới sự thay đổi của giá nhà. Có tác động thuận với giá nhà trên cả hai khu vực
Lãi suất thực có ý nghĩa thống kê trong nghiên cứu. Trường hợp hạ lãi suất làm tăng giá nhà thật sự. Nói cách khác, sự sụt giảm lãi suất thực làm tăng giá nhà ở các nước Trung và Đông Âu đến 2,5 lần so với các nước OECD.
Tín dụng có một mối quan hệ mạnh mẽ, tích cực đến giá nhà giống như yếu tố nhân khẩu học
Đối với yếu tố về thị trường tài chính thì giá nhà ở các nước OECD có tỷ lệ nghịch với thị trường cổ phiếu, cho thấy sự phổ biến của ảnh hưởng thay thế. Tuy nhiên trong CEE giá cổ phiếu lại có tác động tích cực đến giá nhà, tức là khi giá cổ phiếu tăng thì giá nhà ở khu vực CEE cũng tăng theo.Lương có tác động tỷ lệ thuật đến với giá nhà trong khu vực CEE
Phương pháp nghiên cứu của Balázs Égert &Dubravko Mihaljek sử dụng đó là: sử dụng phương pháp phân tích hồi quy OLS ( phương pháp bình phương nhỏ nhất ).
Mô hình nghiên cứu:
PH = f( Y r WE D e X C (PL W M))
Trong đó:
PH :
giá nhà
Y : thu nhập của hộ gia đình
r :lãi suất thực cho vay nhà ở
WE : khả năng tài chính
D: nhân khẩu học và yếu tố thị trường lao động
e: tỷ lệ hồi vốn mong muốn trong nhà đất
X : nhu cầu khác
C : chi phí xây dựng
PL : giá đất
W : tiền công của công nhân xây dựng
M : chi phí nguyên vậy liệu
Nhận xét
Bài viết nghiên cứu đến các yếu tố quyết định đến giá nhà trên thị trường CEE và các nước OECD. Bài viết đã phân tích được các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến giá nhà giữa các nhóm nến kinh tế chuyển đổi và các nước trong khu vực OECD. Đặc biệt đó là các mối quan hệ giữa thu nhập bình quân đầu người và giá nhà, lãi suất thực và giá nhà, tín dụng và giá nhà. Bài viết nếu rất rõ các mối quan hệ đó. Các nhân tố chính ảnh hưởng tới giá nhà ở khu vực CEE và các nước OECD. Tuy nhiên bài nghiên cứu vẫn thiếu những dữ liệu tin cậy về giá nhà ở các nước trong khu vực OECD, tác giả đi nghiên cứu không ở trong cùng một vị trí để đánh giá, so sánh giá nhà của 2 khu vực này.
Lãi suất thấp và bong bong Bất động sản
Được nghiên cứu bởi Kenneth N. Kuttner năm 2012. Bài nghiên cứu đưa ra 2 mặt đối lập trong quá trình nghiên cứu. Ảnh hưởng của lãi suất lên giá nhà ở là khá nhỏ. Sự thay đổi trong lãi suất quá nhỏ để giải thích sự bùng nổ to lớn của thập kỷ trước bất động sản ở Mỹ và các nơi khác. Nhưng một khi đã có một mối quan hệ tương quan giữa lãi suất và giá nhà được tồn tại, thì chỉ cần lãi suất thay đổi một ít cũng có thể gây ra bong bóng Bất động sản. Mặc dù việc bùng nổ giá nhà ở thập kỷ trước có tỷ lệ tương ứng với sự sụt giảm lãi suất,tuy nhiên không có bằng chứng cho thấy điều này xảy ra có hệ thống. Điều khó hiểu là lý do tại sao giá nhà ít nhạy cảm với lãi suất hơn so với lý thuyết. Vẫn còn thiếu là một lời giải thích lý do tại sao lãi suất thấp đôi khi có vẻ có liên quan với bong bóng, và đôi khi không. Trong một môi trường giá nhà tăng nhanh, giảm tỷ lệ lãi suất có thể có một tác động lớn hơn khi giá cả ổn định. Lãi suất thấp có thể là nguyên nhân gây nên tình trạng bong bóng Bất động sản.
Các bằng chứng trong bài nghiên cứu này cho thấy rằng các điều kiện tín dụng, theo nghĩa mở rộng có thể đóng một ảnh hưởng lớn hơn trong bùng nổ giá nhà so với lãi suất thấp cho mỗi giây Trong hệ thống tài chính ngân hàng trung tâm, ví dụ như tại thị trường mới nổi và các nền kinh tế chuyển đổi, điều kiện tín dụng lỏng lẻo đã được liên kết với sự gia tăng nhanh chóng của các chỉ số định lượng tiền tệ, chẳng hạn như cơ sở tiền tệ. Điều này cho thấy rằng nó sẽ là một sai lầm để tập trung nói lãi suất là nguyên nhân gây ra bong bóng bất động sản.
Mô hình nghiên cứu:
Yi = β0 + β1ri L+ β2ri S+ β3 %ΔMBi+ β4Di eu+ β5Di em+ui
Trong đó
Y: sự tăng lên của giá bất động sản và tín dụng nhà ở.
RS : lãi suất thực trung bình trong ngắn hạn
RL : lãi suất thực trung bình trong dài hạn.
%ΔMBi : phần trăm thay đổi tiền thực hàng năm.
Nhu cầu nhà ở trong ngắn hạn
Được nghiên cứu bởi John M. Quigley năm 1967. Theo kết quả nghiên cứu thực nghiệm của John M. Quigley trong vòng 7 năm1960-1967 trên 3.000 hộ gia đình cho thuê nhà ở tại khu vực Pittsburgh. John M. Quigley cho rằng các hộ gia đình sẽ lựa chọn nhà ở với giới hạn ngân sách cho trước, do đó giá cả là