Đề tài Căn cứ xác định nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ hoặc chồng và việc thực hiện nghĩa vụ riêng trong đời sống gia đình

Đời sống kinh tế – xã hội có nhiều thay đổi các quy định của pháp luật cũng cần thay đổi cho phù hợp với yều cầu của thực tế. Nhận thức được vấn đề này các nhà làm luật đã biết khéo léo dựa trên điều kiện kinh tế – xã hội hiện tại cùng với tập quán truyền thống của gia đình Việt Nam, kế thừa và phát triển hệ thống pháp luật hôn nhân và gia đình ở nước ta, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đặc biệt là năm 2000 đã có những quy định rất mới về vấn đề tài sản riêng trong đó có nói đến nghĩa vụ của vợ chồng đối với các tài sản này. Đây là một thành công lớn bởi nó phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, tạo sự linh hoạt khi thực hiện quyền sở hữu chung và tính độc lập khi định đoạt tài sản riêng của vợ chồng, vì lợi ích chung của gia đình; vùa đảm bảo quyền lợi hợp pháp của những người khác có liên quan đến tài sản của vợ chồng. Ngoài ra những quy định này còn tạo cơ sở pháp lý trong thực tế áp dụng khi Tòa án giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng với nhau và với người khác. Nhằm có một cách hiểu sâu rộng hơn những quy định về nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi người và tầm quan trọng của vấn đề này đối với đời sống xã hội. Em xin chọn đề tài: “Căn cứ xác định nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ hoặc chồng và việc thực hiện nghĩa vụ riêng trong đời sống gia đình”.

doc15 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 1977 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Căn cứ xác định nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ hoặc chồng và việc thực hiện nghĩa vụ riêng trong đời sống gia đình, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề bài: Căn cứ xác định nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ hoặc chồng và việc thực hiện nghĩa vụ riêng trong đời sống gia đình Đặt vấn đề Đời sống kinh tế – xã hội có nhiều thay đổi các quy định của pháp luật cũng cần thay đổi cho phù hợp với yều cầu của thực tế. Nhận thức được vấn đề này các nhà làm luật đã biết khéo léo dựa trên điều kiện kinh tế – xã hội hiện tại cùng với tập quán truyền thống của gia đình Việt Nam, kế thừa và phát triển hệ thống pháp luật hôn nhân và gia đình ở nước ta, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đặc biệt là năm 2000 đã có những quy định rất mới về vấn đề tài sản riêng trong đó có nói đến nghĩa vụ của vợ chồng đối với các tài sản này. Đây là một thành công lớn bởi nó phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, tạo sự linh hoạt khi thực hiện quyền sở hữu chung và tính độc lập khi định đoạt tài sản riêng của vợ chồng, vì lợi ích chung của gia đình; vùa đảm bảo quyền lợi hợp pháp của những người khác có liên quan đến tài sản của vợ chồng. Ngoài ra những quy định này còn tạo cơ sở pháp lý trong thực tế áp dụng khi Tòa án giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng với nhau và với người khác. Nhằm có một cách hiểu sâu rộng hơn những quy định về nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi người và tầm quan trọng của vấn đề này đối với đời sống xã hội. Em xin chọn đề tài: “Căn cứ xác định nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ hoặc chồng và việc thực hiện nghĩa vụ riêng trong đời sống gia đình”. Nội dung Căn cứ xác định nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ hoặc chồng Cuộc sống vợ chồng khi quan hệ hôn nhân được xác lập đồi hỏi phải có một khối tài sản trong đó tài sản riêng nhằm đảm bảo nhu cầu của gia đình và mỗi cá nhân. Kế thừa và phát huy quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 về những quy định có liên quan đến tài sản, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã dự liệu về căn cứ để thực hiện nghĩa vụ đối với các loại tài sản. Các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về vấn đề tài sản cụ thể, dễ vận dụng hơn nhiều so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 trước đây. Điều 25 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định về trách nhiệm liên đới của vợ, chồng đối với giao dịch dân sự do một bên thực hiện. "Vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình". Như vậy từ Điều 25 ta có thể thấy các nhà làm luật đã dự liệu căn cứ để xác định việc thực hiện nghĩa vụ chung hay nghĩa vụ riêng chính là nhờ vào mục đích xác lập giao dịch của mỗi bên vợ chồng. Nếu một bên thực hiện nghĩa vụ giao dịch vì lợi ích chung của gia đình, đảm bảo nhu cầu cuộc sống thì đó là nghĩa vụ chung, từ đó có thể suy ra nếu một bên thực hiện nghĩa vụ giao dịch vì lợi ích riêng của cá nhân thì sẽ được xác định là nghĩa vụ riêng. Cũng như vậy, Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình có quy định về chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. "Vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Tài sản chung của vợ chồng được chi dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng. Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận, trừ tài sản chung đã được chia để đầu tư kinh doanh riêng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 của Luật này". Quy định này lại cho ta thấy một căn cứ nữa đó chính là sự thỏa thuận của vợ và chồng. Đối với tài sản chung của vợ chồng đều phải có sự thỏa thuận của hai bên nếu hai bên đồng ý thì mới là nghĩa vụ chung của cả hai vợ chồng trừ trường hợp tài sản chung đã được chia còn ngược lại nếu không có sự thỏa thuận thì đó là nghĩa vụ riêng của mỗi bên vợ chồng và khi có hậu quả xảy ra thì mỗi bên phải tự gánh chịu. Cũng theo quy định tại Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình lật ngược lại vấn đề ta sẽ thấy căn cứ thứ ba để xác định nghĩa vụ chung, hay nghĩa vụ riêng của vợ chồng đó chính là việc vợ chồng dùng loại tài sản nào để thực hiện giao dịch. Nếu dùng tài sản chung của vợ chồng đã được sự thỏa thuận của hai bên thì tất nhiên đó là nghĩa vụ chung, còn nếu lấy tài sản riêng để thực hiện thì có thể xảy ra hai trường hợp. Thứ nhất là tài sản riêng dùng vào mục đích riêng thì sẽ là nghĩa vụ riêng, nhưng trường hợp thứ hai là tài sản riêng lại dùng để trang trải cho cuộc sống gia đình thì nó lại là nghĩa vụ chung. Tóm lại, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã có những căn cứ nhất định trong việc xác định nghĩa vụ riêng đối với vợ, chồng. Những căn cứ này có ý nghĩa quan trọng, là cơ sở pháp lí bảo đảm quyền và lợi ích của mỗi bên vợ, chồng; giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về tài sản trên thực tế. Nội dung nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ hoặc chồng Vợ, chồng với tư cách là chủ sở hữu tài sản riêng của mình, có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản riêng đó một cách độc lập, không bị chi phối bởi ý chí của người chồng, vợ kia (trừ trường hợp được quy định tại khoản 5 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000). Đồng thời, theo quy định, vợ, chồng cũng phải thực hiện nghĩa vụ đối với hành vi của vợ, chồng liên quan đến tài sản của mỗi bên. Thứ nhất, theo quy định tại khoản 4 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, "tài sản riêng của vợ, chồng cũng được sử dụng vào các nhu cầu thiết yếu của gia đình trong trường hợp tài sản chung không đủ để đáp ứng". Nói cách khác, trường hợp cuộc sống chung của gia đình gặp nhiều khó khăn, tài sản chung của vợ chồng không đủ bảo đảm cho những nhu cầu sinh hoạt thiết yếu hàng ngày của gia đình mà người vợ, chồng có tài sản riêng thì vợ, chồng có nghĩa vụ đóng góp tài sản riêng của mình nhằm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu đó của gia đình, bảo đảm cuộc sống của vợ chồng và các con. Đây cũng là một trong những quy định mới của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, liên quan đến tài sản riêng của vợ chồng. Nghĩa vụ này của vợ, chồng xuất phát từ việc bảo đảm lợi ích chung của gia đình. Thứ hai, theo khoản 3 Điều 33 Luật Hôn nhần và gia đình năm 2000 thì "nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi người được thanh toán từ tài sản riêng của người đó". Nghĩa vụ về tài sản của vợ, chồng tức là nợ riêng của vợ chồng phát sinh từ các khoản nợ mà vợ, chồng vay người khác, sử dụng vào mục đích cá nhân, mà không vì lợi ích chung của gia đình; hoặc nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của vợ, chồng hay các loại nghĩa vụ khác theo luật định (nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình như cha, mẹ, vợ chông, con mà vợ, chồng phải thực hiện). Như vậy, theo quy định của pháp luật, vợ, chồng bằng tài sản riêng của mình để bảo đảm thực hiện các nghĩa vụ sau đây: Nghĩa vụ trả nợ Nghĩa vụ trả các khoản nợ mà vợ, chồng đã vay của người khác từ trước khi kết hôn mà không vì nhu cầu đời sống chung của gia đình. Căn cứ vào Điều 25, khoản 5 Điều 33 và khoản 3 Điều 95 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, tài sản chung của vợ chồng được chi dùng để thanh toán các khoản nợ như: - Nợ phát sinh nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu - Nợ liên quan đến việc tạo lập, quản lí, sử dụng, định đoạt tài sản chung của vợ chồng. - Nợ liên quan đến tài sản riêng của vợ, chồng đã được đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình. - Nợ phát sinh có liên quan đến công việc mà cả hai vợ chồng cùng thực hiện. - Nợ theo thỏa thuận của hai vợ chồng Nghĩa vụ trả các khoản nợ mà vợ, chồng đã vay của người khác trong thời kỳ hôn nhân sử dụng vào mục đích riêng, không đáp ứng các nhu cầu thiết yếu và lợi ích chung của gia đình. Các khoản nợ trên đây vợ, chồng vay từ trước hoặc trong thời kì hôn nhân đã chỉ bảo đảm cho quyền lợi riêng của vợ, chồng. Vì vậy, vợ, chồng phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ đó bằng tài sản riêng của mình, không thể buộc người chồng, vợ kia phải liên đới thực hiện các nghĩa vụ này. Trước đây, Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20/01/1988 cũng đã hướng dẫn: đối với các khoản nợ mà vợ, chồng vay riêng tù trước khi kết hôn hoặc trong thời kì hôn nhân sử dụng vào mục đích riêng thì có nghĩa vụ phải thanh toán bằng tài sản riêng. Nếu tài sản riêng không đủ trả nợ thì phải trích phần tài sản của người đó trong khối tài sản chung của vợ chồng (Theo Điều 18 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986) để trả nợ. Nghĩa vụ trả các khoản nợ phát sinh trong quá trình quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản riêng. Trừ trường hợp, nợ phát sinh khi vợ, chồng đã tiến hành khai thác các hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân mà vợ chồng không có thỏa thuận những hoa lợi, lợi tức đó vẫn thuộc tài sản riêng của vợ, chồng. Quá trình quản lí, sử dụng, bảo quản tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kì hôn nhân bằng các khoản chi phí mà vợ, chồng vay của người khác, theo nguyên tắc, vợ, chồng phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ bằng tài sản riêng của mình. Nghĩa vụ phải trả các khoản nợ phát sinh dựa trên cơ sở vợ chồng đã có hành vi tự mình tiến hành các giao dich dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn của vợ chồng là nguồn sống duy nhất của gia đình. Khoản 3 Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình: “Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thoả thuận, trừ tài sản chung đã được chia để đầu tư kinh doanh riêng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 của Luật này.” Như vậy, nghĩa vụ về tài sản trái với quy định này là nghĩa vụ riêng về tài sản. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại khi vợ, chồng là người quản lý di sản thừa kế mà đã có hành vi thực hiện các giao dịch nhằm tẩu tán hoặc làm hư hỏng, mất mát di sản. Theo Khoản 3 Điều 12 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001: “Trong trường hợp Toà án chưa cho chia di sản theo quy định tại khoản 1 Điều này, thì bên còn sống chỉ có quyền sử dụng, khai thác để hưởng hoa lợi, lợi tức phát sinh từ di sản và phải giữ gìn, bảo quản di sản như đối với tài sản của chính mình; không được thực hiện các giao dịch có liên quan đến việc định đoạt di sản, nếu không được sự đồng ý của những người thừa kế khác.”. Trong trường hợp này, những người thừa kế khác có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu và có quyền yêu cầu chia di sản; vợ, chồng còn sống mà quản lí di sản đó có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại cho những người thừa kế khác theo quy định của pháp luật. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh từ hành vi trái pháp luật của vợ chồng. Về nguyên tắc, đối với các khoản nợ và nghĩa vụ phát sinh trên đây, vợ, chồng có nghĩa vụ phải thanh toán, bồi thường bằng tài sản riêng của mình; nếu tài sản riêng không có hoặc không đủ thì sau khi chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân sẽ trích một phần để thực hiện nghĩa vụ. Cũng có thể nghĩa vụ tài sản của vợ, chồng được thực hiện bằng tài sản chung của vợ chồng khi vợ chồng thỏa thuận. Nghĩa vụ cấp dưỡng, nuôi dưỡng Các chi phí cho người mà vợ, chồng là người giám hộ của người đó theo quy định của pháp luật dân sự và Luật hôn nhân và gia đình. Người giám hộ có nghĩa vụ quản lý tài sản cảu người được giám hộ như tài sản của chính mình. Người giám hộ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về những mất mát, hư tổn tài sản cảu người được giám hộ. Người giám hộ có nghĩa vụ bảo vệ quyền và lợi ích của người giám hộ: cất giữ tài sản, trông nom, quản lý tài sản. Trường hợp vợ, chồng giám hộ cho người dưới 15 tuổi còn phải chăm sóc, giáo dục người được giám hộ; vợ, chồng giám hộ cho người bị bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình còn có nghĩa vụ chăm sóc, bảo đảm điều trị bệnh cho người được giám hộ. Người giám hộ phải vì quyền lợi mọi mặt của người được giám hộ mà làm tất cả những gì có thể kịp thời đáp ứng các nhu cầu thiết yếu cho người được giám hộ: ăn, mặc, ở, đi lại, học tập, chữa bệnh… Về nguyên tắc, người giám hộ không phải bỏ tài sản của mình để chăm sóc, giáo dục , đảm bảo việc điều trị bệnh cho người được giám hộ. Chi phí cho những hoạt động này sẽ được lấy từ tài sản riêng của người được giám hộ (nếu người được giám hộ có) Trường hợp người được giám hộ gây thiệt hại cho người khác thì người giám hộ có nghĩa bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại. Trong trường hợp người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ có nghĩa vụ lấy tài sản của mình để bồi thường cho đủ. Nghĩa vụ cấp dưỡng mà vợ, chồng phải thực hiên liên đới đối với các thành viên trong gia đình. Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình, theo luật định, được thực hiện nhằm bảo đảm quyền được cấp dưỡng của các thành viên trong gia đình. Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, là người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, là người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình (khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000). Như vậy, trong các quan hệ gia đình, vợ, chồng với tư cách là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh, chị, em phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng đối với các thành viên trong gia đình theo quy định tại các điều từ Điều 47 đến Điều 62 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Nghĩa vụ cấp dưỡng phát sinh khi có đầy đủ các điều kiện sau: Giữa người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng. Người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng không còn chung sống với nhau Người được cấp dưỡng là người chưa thành niên, người đã thành niên nhưng không có kahr năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, là người túng thiếu, khó khăn. Người cấp dưỡng phải có khả năng cấp dưỡng Nghĩa vụ cấp dưỡng mà vợ, chồng phải thực hiên liên đới đối với các thành viên trong gia đình gồm: Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con Căn cứ Điều 56, Điều 92 Luật hôn nhân và gia đình: Khi ly hôn, cha mẹ không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Theo quy định tại Điểm a Điều 11Nghị quyết số 02/2000/NĐ-HĐTP: “…người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Đây là nghĩa vụ của cha, mẹ; do đó, không phân biệt người trực tiếp nuôi con có khả năng kinh tế hay không, người không trực tiếp nuôi con vẫn phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Trong trường hợp người trực tiếp nuôi con không yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cấp dưỡng vì lý do nào đó thì Toà án cần giải thích cho họ hiểu rằng việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con là quyền lợi của con để họ biết nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con. Nếu xét thấy việc họ không yêu cầu cấp dưỡng là tự nguyện, họ có đầy đủ khả năng, điều kiện nuôi dưỡng con thì Toà án không buộc bên kia phải cấp dưỡng nuôi con.” Nuôi dưỡng, giáo dục con là ngĩa vụ của cha và me. Vì vậy, dù rằng người trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con không túng thiếu thì người không trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con vẫn có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm những chi phí về nuôi dưỡng và học hành của con, Tòa án căn cứ vào khả năng kinh tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con và khả năng kinh tế của người trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con mà quyết định mức cấp dưỡng nuôi con với từng đứa con cho hợp lý (Điểm b Điều 11Nghị quyết số 02/2000/NĐ-HĐTP). Không nhất thiết chia đôi mức phỉ tổn nuôi dưỡng, giáo dục con cho mỗi bên chịu một nửa để ấn định mức cấp dưỡng nuôi con. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con phải thực hiện cho đến khi con đủ 18 tuổi. Trường hợp con đã thành niên nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình thì việc cấp dưỡng nuôi con vẫn tiếp tục cho đến khi người con có thể lao động để tự nuôi mình. Nghĩa vụ cấp dưỡng của con đối với cha mẹ Khoản 2 Điều 36 Luật hôn nhân và gia đình quy định: “2. Con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ ốm đau, già yếu tàn tật; trong trường hợp gia đình có nhiều con thì các con phải cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ”. Khi cha mẹ không có khả năng lao động, không có tài sản để nuôi mình mà con không sống chung với cha mẹ thì con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cha mẹ. Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa anh, chị, em Anh, chị, em có nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau trong những trường hợp nhất định. Điểu 58: “1. Trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có khả năng lao động và không có tài sản để cấp dưỡng cho con thì anh, chị đã thành niên không sống chung với em có nghĩa vụ cấp dưỡng cho em chưa thành niên không có tài sản để tự nuôi mình hoặc em đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. 2. Em đã thành niên không sống chung với anh, chị có nghĩa vụ cấp dưỡng cho anh, chị không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình” Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng Điều kiện cấp dưỡng: Một bên vợ hoặc chồng khó khăn túng thiếu có lý do chính đáng yêu cầu bên kia cấp dưỡng. Bên kia có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Nói túng thiếu nghĩa là có khó khăn trong đời sống vật chất. Túng thiếu có lý do chính đáng được hiểu là túng thiếu vù lý do không có khả năng lao động hoặc khả năng lao động kém (ốm đau, tàn tật, sức yếu, đang mắc bệnh…) nên thu nhập không đủ tự nuôi sống hoặc có lao động nhưng tạm thời trước mắt có khó khan về sinh kế vì tách khỏi gia đình (trước đây sống chung với gia đình bên vợ). Nếu có sức lao động mà không chịu lao động mà không chịu lao động đề đến mức túng thiếu hoặc do chi tiêu hoang phí mà túng thiếu thì không thể vin lý do túng thiếu để yêu cầu cấp dưỡng. Bên vợ hoặc chồng có túng thiếu nhưng tự giác giải quyết được khó khan vật chất và không yêu cầu cấp dưỡng thì việc cấp dưỡng sau ly hôn cũng không đặt ra. Mức cấp dưỡng và phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng do hai bên thỏa thuận, nếu không thì do Tòa án quyết định. Nghĩa vụ bồi thường khoản tiền cấp dưỡng mà vợ, chồng là người được giao quản lý nhưng đã làm tiêu tán hoặc sử dụng không đúng mục đích. Khoản 4 Điều 18 Nghị định Số: 70/2001/NĐ-CP: “Người được giao quản lý khoản cấp dưỡng một lần có trách nhiệm bảo quản tài sản đó như đối với tài sản của chính mình và chỉ được trích ra để bảo đảm các nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng.” Các quy định về nghĩa vụ của vợ, chồng được thực hiện bằng tài sản riêng của vợ, chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã được dự liệu cụ thể hơn so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 trước đây. Những quy định này là cơ sở pháp lý cho việc xác định nghĩa vụ của vợ, chồng được thực hiện bằng tài sản riêng hoặc theo thỏa thuận trong thực tiễn. Thực hiện nghĩa vụ riêng trong đời sống gia đình Thực tế cuộc sống đã chỉ ra có rất nhiều vụ tranh chấp có liên quan đến nghĩa vụ tài sản riêng mà nếu như không có luật chúng ta sẽ không thể xử lí được. Chẳng hạn: Ví dụ : Chị A và anh B là hai vợ chồng. Sau khi kết hôn, chị A được cho một căn nhà, và được đứng tên giấy chứng nhận sở hữu. Nay hai vợ chồng bất hòa, dẫn tới ly hôn. Tài sản chung đã thỏa thuận xong, còn căn nhà được cho đó anh B đòi chia với lý do - Tài sản có được trong thời kỳ hôn nhân, làm thế nào để chứng minh đó là tài sản riêng. Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình 2000 quy định tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung... Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản có tranh chấp là tài sản riêng thì tài sản đó là tài sản chung vấn đề này được quy định tại Điều 32 và 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 Trong cuộc sống vợ chồng, có rất nhiều loại tài sản được hình thành trước và trong thời kỳ hôn nhân. Tuy nhiên không phải tài sản nào cũng là tà
Luận văn liên quan