Thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động mua bán các tài sản tài chính như: vốn tài chính, các giấy tờ có giá và các sản phẩm tài chính, nhờ đó mà vốn được chuyển giao một cách trực tiếp hoặc gián tiếp từ các chủ thể thặng dư vốn sang các chủ thể thiếu hụt vốn.
Thị trường tài chính là tổng hòa các mối quan hệ về cung cầu vốn, trong đó có ba yếu tố cơ bản:
- Đối tượng của thị trường tài chính đó là những nguồn cung và cầu vốn của các chủ thể kinh tế trong xã hội như: nhà nước, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và các tầng lớp dân cư.
- Hàng hóa của thị trường tài chính đó là các công cụ tài chính như: các giấy tờ có giá, tiền
- Chủ thể tham gia thị trường tài chính là các pháp nhân hay thể nhân, đại diện cho những nguồn cung và nguồn cầu về vốn tham gia trên thị trường tài chính
16 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2420 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Cấu trúc thị trường tài chính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài:
CẤU TRÚC
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
NHÓM NGOẠI TỆ
K09402A
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC CÁC THÀNH VIÊN
NGÔ THỊ QUỲNH ANH K094020122
Tổng hợp tài liệu trên mạng, thuyết trình phần mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành thị trường tài chính
LÂM NGỮ ÁI LINH K094020175
Tổng hợp tài liệu sách, thuyết trình phần thị trường vốn - tiền tệ và thị trường sơ cấp - thứ cấp
NÔNG THỊ PHƯƠNG MAI K094020184
Tổng hợp tài liệu sách, thuyết trình phần thị trường trực tiếp - gián tiếp và thị trường nợ - cổ phiếu
NGUYỄN THỊ ÁI XUÂN K094020258
Tổng hợp tài liệu sách, thuyết trình phần khái niệm, vai trò, chức năng của thị trường tài chính và làm powerpoint
MỤC LỤC
Khái niệm thị trường tài chính…………………………………..........4
Chức năng thị trường tài chính…………………………………........ 4
Vai trò của thị trường tài chính……………………………………… 5
Cấu trúc thị trường tài chính……………………………………........ 5
Căn cứ thời hạn luân chuyển vốn…………………………...... .....6
Thị trường tiền tệ………………………………………….......8
Thị trường vốn……………………………………………….. 8
Căn cứ theo hình thức phát hành………….…………….............. 9
Thị trường sơ cấp……………………………………………. 9
Thị trường thứ cấp………………………………………..... . 11
Căn cứ phương thức luân chuyển vốn…………….………….... .11
Thị trường giao dịch tài chính trực tiếp…………………… 11
Thị trường giao dịch tài chính gián tiếp………………….... ..12
Căn cứ phương thức vay vốn………………………………….. . .13
Thị trường nợ…………………………………………………13
Thị trường cổ phiếu………………………………………….. 14
Mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành thị trường tài chính …......14
Mối quan hệ giữa thị trường vốn và thị trường tiền tệ…………...14
Mối quan hệ giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp……….15
Khái niệm thị trường tài chính
Thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động mua bán các tài sản tài chính như: vốn tài chính, các giấy tờ có giá và các sản phẩm tài chính, nhờ đó mà vốn được chuyển giao một cách trực tiếp hoặc gián tiếp từ các chủ thể thặng dư vốn sang các chủ thể thiếu hụt vốn.
Thị trường tài chính là tổng hòa các mối quan hệ về cung cầu vốn, trong đó có ba yếu tố cơ bản:
Đối tượng của thị trường tài chính đó là những nguồn cung và cầu vốn của các chủ thể kinh tế trong xã hội như: nhà nước, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và các tầng lớp dân cư.
Hàng hóa của thị trường tài chính đó là các công cụ tài chính như: các giấy tờ có giá, tiền…
Chủ thể tham gia thị trường tài chính là các pháp nhân hay thể nhân, đại diện cho những nguồn cung và nguồn cầu về vốn tham gia trên thị trường tài chính
Chức năng của thị trường tài chính
Chức năng dẫn vốn
Hướng dẫn các nguồn vốn đến những nơi cần vốn, làm cho nguồn vốn từ những nơi không có cơ hội đầu tư sinh lợi đến những người có cơ hội đầu tư, tạo điều kiện gia tăng năng suất của các nguồn của cải xã hội và tạo ra mức sống cao hơn cho cá nhân và gia đình
Chức năng thanh khoản
Thị trường tài chính cung cấp phương thức chuyển đổi các loại tài sản tài chính thành tiền mặt
Chức năng tiết kiệm
Thị trường tài chính cung cấp điểm sinh lợi cho tiết kiệm. Thông qua thị trường tài chính, người tiết kiệm có thể kiếm được thu nhập dưới hình thức tiền lãi, cổ tức, tiền lời của vốn…
Thị trường tài chính tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các chính sách mở cửa, cải cách kinh tế của Chính phủ thông qua các hình thức như phát hành trái phiếu ra nước ngoài, bán cổ phần, thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các ngành sản xuất kinh doanh trong nước
Chức năng cung cấp thông tin kinh tế và đánh giá giá trị của doanh nghiệp.
Vai trò của thị trường tài chính
Thị trường tài chính góp phần nâng cao năng suất và hiệu quả của nền kinh tế, cải thiện mức sống của người tiêu dùng bằng cách tiêu thụ vốn thừa ( tiền để dành) và giúp những người tiết kiệm chọn thời điểm tốt cho việc mua sắm của họ. thông qua thị trường tài chính giúp các nhà kinh doanh có thể tập trung và sử dụng các nguồn tài nguyên và quá trình sản xuất lớn một cách tiết kiệm và có hiệu quả nhất, tạo ra việc làm cho người lao động.
Thị trường tài chính tạo môi trường thuận lợi để dung hòa các lợi ích kinh tế của các chủ thể kinh tế trên thị trường
Thị trường tài chính là công cụ tuyển chọn và kích thích các doanh ngiệp sản xuất kinh doanh lành mạnh có hiệu quả
Thị trường tài chính tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch tài chính. Nhờ vào sự phát triển của công nghệ thông tin liên lạc mà các định chế tài chính tác hợp cho các đon vị thặng dư tiết kiệm và thiếu hụt tiết kiệm cách nhau hàng trăm dặm có thể giao dịch với nhau một cách có hiệu quả, từ đó tiết kiệm chi phí liên quan đến các giao dịch tài sản tài chính như: chi phí thu thập thông tin, chi phí nghiên cứu, chi phí tìm gặp…
Cấu trúc thị trường tài chính
Việc nhìn nhận cấu trúc của thị trường tài chính có thể xem xét trên nhiều giác độ khác nhau, tùy theo cách thức vận dụng của mỗi nước trong việc tổ chức một mô hình thích hợp với bối cảnh của nền kinh tế.
Căn cứ vào thời hạn luân chuyển vốn
Chia làm hai loại: thị trường tiền tệ có thời hạn luân chuyển không quá một năm và thị trường vốn có thời hạn luân chuyển trên một năm
Thị trường tiền tệ
Hoạt động của thị trường tiền tệ diễn ra chủ yếu thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng, vì các ngân hàng thương mại là chủ thể quan trọng nhất trong việc thu hút và cung cấp các nguồn vốn ngắn hạn.
Đặc điểm của thị trường tiền tệ:
Giai đoạn luân chuyển vốn ngắn hạn ( không quá một năm). Công cụ của thị trường tiền tệ là các khoản vay hay các chứng khoán đáo hạn trong vòng một năm
Hình thức tài chính đặc trưng là hình thức tài chính gián tiếp. Đóng vai trò trung gian tài chính giữa người vay và người cho vay là các ngân hàng thương mại
Các công cụ của thị trường tiền tệ có độ an toàn tương đối cao, cung cấp lợi tức tiết kiệm cho các nhà đầu tư
Các công cụ chủ yếu của thị trường tiền tệ:
Tín phiếu là công cụ nợ ngắn hạn của chính phủ( với thời hạn là 3, 6, hay 12 tháng). Loại công cụ này gần giống tiền ở chỗ rất dễ mua bán lại. Tín phiếu được các nhà đầu tư nắm giữ để quản lí tính thanh khoản trong ngắn hạn.
Các khoản vay liên ngân hàng theo quy định của ngân hàng trung ương, các tổ chức nhận tiền gửi phải có một tỉ lệ dự trữ để đáp ứng nhu cầu rút tiền của những người gửi tiền. Một số tổ chức có thể thừa dự trữ, một số khác lại thiếu. Các tổ chức nhận tiền gửi có thể mua bán các khoản dự trữ này trên thị trường liên ngân hàng
Giấy chấp nhận thanh toán của ngân hàng là giấy đảm bảo rằng một ngân hàng sẽ thanh toán vô điều kiện số tiền mà các nhà nhập khẩu còn thiếu các nhà xuất khẩu vào một ngày nhất định. Lãi suất của công cụ này tương đối thấp do tính an toàn cao
Thương phiếu và chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng( NCD) :
+ Thương phiếu: do công ty hay công ty tài chính phát hành để tài trợ cho các khoản lưu kho hay các khoản nợ phải thu. Khi có tiền người phát hành có thể mua lại thương phiếu do họ phát hành
+ NCD: là chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng do ngân hàng phát hành nêu rõ người gửi tiền đã gửi một khoản tiền trong một khoảng thời gian nhất định với lãi suất cụ thể tại ngân hàng, được ngân hàng sử dụng làm phương tiện điều chỉnh tính thanh khoản và làm nguồn cung cấp vốn cho vay
Một bộ phận quan trọng của thị trường tiền tệ là thị trường ngoại hối. Thị trường ngoại hối là một thị trường quốc tế nơi diễn ra các hoạt động mua bán và trao đổi ngoại tệ ( tiền ghi sổ-bút tệ). các nghiệp vụ của thị trường ngoại hối phần lớn mang tính chất ngắn hạn( dưới 1 năm). Thành viên tham gia thị trường ngoại hối chủ yếu là các ngân hàng thương mại, các doanh nghiệp, các nhà môi giới ngoại hối, các nhà cung cấp dịch vụ tư vấn, các nhà kinh doanh, ngân hàng trung ương.
Khác với thị trường khác, nơi mà người ta dùng tiền để đổi lấy hàng hóa, trên thị trường ngoại hối tiền được đổi lấy tiền. một điểm khác biệt nữa là thị trường ngoại hối là thị trường thực sự và tất yếu mang tính quốc tế; cứ khi nào mà dân chúng ở những khu vực đồng tiền khác nhau còn kinh doanh với nhau, thì các giao dịch ngoại hối còn cần thiết. vô số giao dịch, trong đó ngoại thương và đầu tư quốc tế, đã góp phần tạo nên những khối lượng mua và bán trên thị trường này.
Là một bộ phận của thị trường tài chính, thị trường ngoại hối có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình lưu thông vốn, lưu thông hàng hóa trên bình diện quốc tế, và nó có mối quan hệ tác động qua lại chặt chẽ với các bộ phận khác của thị trường tài chính
4.1.2 Thị trường vốn
Thị trường vốn là thị trường giao dịch các khoản vốn dài hạn nhằm mục đích cung cấp tài chính cho các khoản đầu tư dài hạn của chính phủ ,của các doanh nghiệp và của các hộ gia đình.
Các công cụ của thị trường vốn có thời gian đáo hạn trên 1 năm.So với các công cụ của thị trường tiền tệ, các công cụ của thị trường vốn có độ rủi ro cao hơn,do đó chúng có mức lợi tức cao hơn.
Thị trường vốn gồm có thị trường vay nợ dài hạn và thị trường chứng khoán.
Đối với thị trường vay nợ dài hạn thì lại được chia thành
* Thị trường thế chấp: đây là thị trường chuyên cho vay các món nợ dài hạn dùng để tài trợ mua bán địa ốc, nhà xưởng. Do thời hạn dài và thường giá trị của các món nợ vay thường rất lớn để hình thành bất động sản (nhà, đất, nhà xưởng,...) nên cần có sự thế chấp tài sản cho món nợ vay này. Tài sản thế chấp có thể là những tài sản sẵn có của những người đi vay và kể cả những tài sản được hình thành từ khoản nợ vay đó. Chính vì thế, thị trường thế chấp còn được gọi là thị trường cho vay dài hạn có cầm cố bất động sản
* Thị trường tín dụng thuê mua (cho thuê tài chính):
Tín dụng thuê mua hay còn được gọi là hoạt động cho thuê tài chính hoặc có thể được gọi là thuê vốn. Đây là hình thức tín dụng trung và dài hạn, trong đó người cho thuê cam kết mua tài sản, thiết bị theo yêu cầu của người thuê và là người nắm giữ quyền sở hữu tài sản đó. Người thuê là người sử dụng tài sản và phải thanh toán tiền thuê cho người cho thuê tài sản trong một khoảng thời gian đã được thảo thuận trước. Trong suốt thời gian thuê, người thuê không được quyền huỷ bỏ hợp đồng thuê trườc kỳ hạn. Khi kết thúc hợp đồng, người thuê có thể chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê như đã thoả thuận trong hợp đồng.
Hoạt động tín dụng tài chính là một hình thức tín dụng rất hữu ích đối với các doanh nghiệp nhất là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bởi vì, thông qua hình thức tín dụng này các doanh nghiệp tìm được nguồn tài trợ cho hoạt động đầu tư máy móc, thiết bị, cải thiện công nghệ.
Hoạt động cho thuê tài chính còn được xem là quá trình chuyển quyền sử dụng, khai thác các tính năng hữu ích của tài sản mà không chuyển đổi quyền sở hữu nó.
Hoạt động tín dụng thuê mua có những ưu điểm như:
Đối với người đi thuê thì thuê tài chính cũng có thể được xem là họ đã mua được tài sản bằng một khoản vốn vay có đảm bảo bằng chính tài sản cho thuê. Các điều khoản của hợp đồng thuê được xem như là những điều khoản ràng buộc của ngân hàng đưa ra trong một hợp đồng tín dụng thông thường.
Ngoài ra, thông qua hoạt động tín dụng thuê mua thì doanh nghiệp được tài trợ 100% vốn mua tài sản hoặc được thuê tài sản đảm bảo nguồn vốn hoạt động (vốn lưu động) của doanh nghiệp.
Hầu hết tài sản trong hoạt động cho thuê tài chính đều là tài sản mới. Bởi vì, thông thường người đi thuê sẽ đạt ra yêu cầu về tính năng kỹ thuật cho tài sản muốn thuê trước đối với người thuê và hai bên tiến hành ký kết hợp đồng. Sau đó, người cho thuê sẽ mua những tài sản này trực tiếp từ nhà sản xuất và chuyển cho bên thuê sử dụng. Người cho thuê thường mua tài sản mới để cho thuê nhằm đảm bảo những điều kiện trong hợp đồng, đồng thời nó sẽ giúp họ hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro như rủi ro do hao mòn vô hình hoặc rủi ro không thể cho thuê tiếp tài sản sau khi kết thúc hợp đồng do tài sản đã quá cũ,…
Để huy động các nguồn vốn dài hạn, bên cạnh việc đi vay ngân hàng thông qua hình thức tài chính gián tiếp,chính phủ và 1 số các công ty còn thực hiện huy động vốn thông qua việc phát hành các chứng khoán.
Chứng khoán là các công cụ thể hiện quyền sở hữu trong một công ty (cổ phiếu); quyền chủ nợ đối với một công ty, một chính phủ hay một chính quyền địa phương (trái phiếu); và các công cụ dẫn xuất khác hình thành trên cơ sở những công cụ đã có.
Thị trường chứng khoán ra đời với tư cách là 1 bộ phận của thị trường vốn, nhằm đáp ứng nhu cầu mua bán, trao đổi các loại chứng khoán. Thị trường này gồm có thị trường tập trung (các Sở giao dịch) và thị trường phi tập trung (OTC):
- Sở giao dịch chứng khoán: là thị trường chứng khoán chính thức bởi vì nó được tổ chức một cách tập trung tại địa chỉ cụ thể và tuân thủ theo những qui được ban hành một cách chặt chẽ
- Thị trường OTC (Over The Counter): đây là thị trường chứng khoán ở cấp độ cao hơn với sự hỗ trợ của các thiết bị hiện tại nên việc giao dịch chứng khoán không cần được tập trung lại một nơi cụ thể mà có thể thực hiện giao dịch từ nhiều nơi khác nhau. Đồng thời số lượng chứng khoán được giao dịch trên thị trường này sẽ nhiều hơn so với thị trường chứng khoán tập trung, không bó hẹp trong số những chứng khoán được nằm trong danh mục cụ thể.
Căn cứ theo hình thức phát hành
Thị trường sơ cấp
Thị trường sơ cấp( hay còn gọi là thị trường cấp 1) là thị trường phát hành các công cụ tài chính. Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư được chuyển sang từ nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua các công cụ tài chính mới phát hành
VỐN
PHÁT HÀNH MỚI CÔNG
CỤ TÀI CHÍNH
Nhà phát hành ở đây có thể là các doanh nghiệp, có thể là ngân hàng, và cũng có thể là Nhà nước. Khi doanh nghiệp muốn huy động vốn cho một dự án đầu tư, doanh nghiệp có thể phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu và giao dịch trên thị trường sơ cấp. Tương tự, khi Chính phủ thực hiện phát hành trái phiếu để tài trợ cho các nhu cầu chi tiêu của mình thì hành vi phát hành đó cũng sẽ được thực hiện trên thị trường sơ cấp.
Như vậy, chức năng cơ bản của thị trường này là huy động vốn tài chính để hỗ trợ cho việc đầu tư mới vào nhà xưởng, thiết bị và hàng hóa thông qua việc phát hành các công cụ tài chính mới. Với chức năng đó, thị trường sơ cấp đã có vai trò quan trọng, thực hiện quá trình chu chuyển tài chính trực tiếp, đưa các khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế vào đầu tư, chứng khoán hóa các khoản nguồn vốn cần huy động, là nơi duy nhất mà các chứng khoán đem lại vốn cho người phát hành.
Thị trường thứ cấp
Thị trường thứ cấp(hay còn gọi là thị trường cấp 2) là thị trường mua đi bán lại những công cụ tài chính đã được phát hành.
Bán công cụ tài chính
Nhận tiền
Đây cũng là một bộ phận quan trọng của thị trường tài chính và có mối quan hệ chặt chẽ với thị trường sơ cấp và khác với thị trường sơ cấp là nó hoạt động một cách liên tục. Chứng khoán giao dịch trên thị trường này có thể được mua đi bán lại nhiều lần với giá cả cao thấp khác nhau với tác động của quan hệ cung cầu và nhiều nhân tố khác. Nhờ có thị trường thứ cấp, những người có vốn nhàn rỗi tạm thời có thể yên tâm đầu tư vào chứng khoán, vì khi cần tiền họ có thể bán lại các chứng khoán của mình cho các nhà đầu tư khác trên thị trường.
Thị trường thứ cấp thực hiện các chức năng sau:
Tạo điều kiện dễ dàng để bán những công cụ tài chính nhằm thu tiền mặt, tức là tạo cho các công cụ tài chính tăng cao tính thanh khoản
Kiếm lời từ việc nắm giữ chứng khoán
Xác định giá chứng khoán hợp lý trên cơ sở đấu giá tự do
Giá hợp lý trên thị trường cấp hai ảnh hưởng đến giá phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp
Căn cứ vào phương thức luân chuyển vốn
Thị trường giao dịch tài chính trực tiếp
Giao dịch tài chính trực tiếp là cách thức giao dich mà vốn được chuyển giao trực tiếp từ người có cung về vốn đến người có cầu về vốn. Người cung ứng vốn gọi là người đầu tư, biết được phương án sử dụng vốn đầu tư của mình, hưởng toàn bộ lợi nhuận cũng như chấp nhận toàn bộ rủi ro mang lại từ việc đầu tư vào các công cụ tài chính.
Hình thức đơn giản nhất của việc thực hiện các giao dịch tài chính, đó là cung và cầu về công cụ tài chính được trực tiếp giao chuyển với nhau mà không cần vai trò của các tổ chức trung gian tài chính hoặc bất kì định chế tài chính nào hết.
Cùng với sự phát triển của quan hệ thị trường, giao dịch tài chính trực tiếp cũng được phát triển theo hướng tích cực, phần lớn các chuyển giao vốn được thực hiện thông qua vai trò của những người mua giới, người chỉ được hưởng lợi dưới hình thức hoa hồng cho việc kết nối cung cầu vốn mà không phải thực hiện giao dịch cho bản thân. Giao dịch tài chính trên cở sở có sự can thiệp của nhà môi giới để hoàn tất các giao dịch là một sự tiến bộ trong giao dịch tài chính trực tiếp, làm giảm các chí phí tìm kiếm hay chí phí thông tin cho các người tham gia vào thị trường tài chính, từ đó nâng cao tính lưu hoạt và tính khả thi các công cụ tài chính, tạo điều kiện cho cung cầu tài chính gặp nhau dễ dàng hơn
Thị trường giao dịch tài chính gián tiếp
Giao dịch tài chính gián tiếp là giao dịch tài chính được thực hiện thông qua các hoạt động trung gian tài chính. Bằng phương pháp này, các chủ thể thiếu hụt tài chính và các chủ thể thặng dư tài chính đều được thỏa mãn các yêu cầu tài chính nhờ vào những nổ lực của trung gian tài chính.
Các trung gian tài chính phát hành các công cụ tài chính của chính mình tới người cho vay cuối cùng và đồng thời chấp nhận các công cụ tài chính của người đi vay. Nó có cầu nối và giải pháp cho những yêu cầu tài chính khác nhau của các chủ kinh tế, đồng thời khiến cho bản chất của các trái quyền tài chính có hiệu lực ngay trong hệ thống tài chính.
Tài chính gián tiếp
VỐN VỐN
VỐN
VỐN VỐN
Tài chính trực tiếp
Căn cứ vào phương thức vay vốn
Có 2 hình thức để một doanh nghiệp hay một cá nhân có thể vay vốn trong một thị trường tài chính. Phương pháp thứ nhất, thông dụng nhất là đưa ra 1 công cụ vay nợ, có thể là 1 khoản vay có thế chấp (hoặc không có thế chấp) hoặc là phát hành trái khoán, và hai là phát hành cổ phiếu công ty.Cả hai công cụ này đều là 1 sự thỏa thuận bằng hợp đồng, trong đó người vay trả cho người cho vay 1 số tiền xác định trong 1 thời gian xác định.Xuất phát từ đó, người ta phân chia các công cụ theo giao dịch ở hai thị trường khác nhau.
Thị trường nợ
Là thị trường tín dụng phản ánh bằng các khoản cho vay có hoặc không có thế chấp, bằng một hợp đồng tín dụng cụ thể giữa người đi vay và người cho vay, hoặc với các hình thức vay khác như người vay phát hành trái phiếu và người cho vay là người mua trái phiếu, trong đó người vay phải hoàn trả cho người cho vay khi đã đến kỳ hạn, bao gồm cả vốn và lãi. Kỳ hạn nợ của 1 khoản vay, có thể là ngắn hạn, nếu kỳ hạn nợ bằng hay nhỏ hơn 1 năm,và dài hạn nếu kỳ hạn vay là 10 năm hoặc lớn hơn.Ở giữa 2 loại kỳ hạn đó là trung hạn.
Thị trường cổ phiếu
Các doanh nghiệp còn có thể huy động vốn thông qua thị trường phát hành cổ phiếu.Cổ phiếu thường là những cổ phiếu được quyền tham dự chia phần trong thu nhập ròng (sau khi tính thuế và chi phí) và ngươì mua, là người sở hữu một phần tài sản của công ty.
Cổ phiếu thường được thanh toán cổ tức định kỳ, và chính cổ phiếu đó được gọi là chứng khoán dài hạn, vì không có ngày đáo hạn.
Mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành thị trường tài chính
5.1. Mối quan hệ giữa thị trường vốn và thị trường tiền tệ
Thị trường tiền tệ và thị trường vốn là hai bộ phận cấu thành nên thị trường tài chính cùng thực hiện một chức năng là cung cấp vốn cho nền kinh tế. Do đó các nghiệp vụ hoạt động ở trên hai thị trường có mối liên quan bổ sung và tác động hỗ tương.
Lãi suất trên thị trường tiền tệ có ảnh hưởng lớn đến việc phát hành và mua bán chứng khoán trên thị trường vốn. Nếu lãi suất của các ngân hàng trả cho người tiết kiệm cao, điều này sẽ khiến cho người tiết kiệm thích gửi tiền vào ngân hàng để hưởng lãi suất và rủi ro thấp hơn so với việc đầu tư vào chứng khoán. Mặt khác, các biến đổi về giá cả và lãi suất trên thị trường tiền tệ thường kéo theo các biến đổi trực tiếp trên thị trường vốn như quan hệ cung cầu và giá của cổ phiếu và trái phiếu. Chẳng hạn