Làtương tác tĩnh điệngiữahainhómcóđiện
tíchngượcdấu.
Trongnhiềutrường hợpchấtvôcơ,điệntử liên
kếtluôn luôn bịhútvềphíanguyêntử cóđộâm
điệncaohơngâyrasựphânli cation(nguyêntử
tích điệntích âm)vàanion(nguyên tử tíchđiện
dương)
42 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2359 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cấu trúc và tính chất lý hoá của protein, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
êĐề tài:
CẤU TRÚC VÀ TÍNH CHẤT LÝ HOÁ CỦA
PROTEIN
I. CÁC KIỂU LIÊN KẾT TRONG CẤU TRÚC
PROTEIN
II. HÌNH DẠNG, KÍCH THƯỚC VÀ CẤU TRÚC
CỦA PHÂN TỬ PROTEIN
III. TÍNH CHẤT LÝ HOÁ CỦA PROTEIN
IV. BIẾN TÍNH PROTEIN
I. CÁC KIỂU LIÊN KẾT TRONG CẤU TRÚC PROTEIN
1.1 Các liên kết cộng hoá trị
a. Liên kết peptide
H
CH2OH
-CH-COOH
H
N
CH3
H2N-CH-C
O
CH3
H2N-CH-CO
CH2OH
CH-COOH
H
NOH
Serine
H2O
Alanine
AlanylSerine
Liên kết peptid
b. Liên kết disunfua
Sự hình thành cầu disunfua giữa hai phân tử cysteine
Một số liên kết hydro quan trọng trong hệ thống sống
a) giữa hydro của một ancohol và oxy của nước;
b) giữa nhóm carbonyl keto và nước;
c) giữa nhóm peptide trong polypeptide;
1.2.1 Liên kết hydro
D – H + A D – H A
1.2 Các liên kết yếu làm ổn định cấu trúc protein
2.2.2. Liên kết ion
Là tương tác tĩnh điện giữa hai nhóm có điện
tích ngược dấu.
Trong nhiều trường hợp chất vô cơ, điện tử liên
kết luôn luôn bị hút về phía nguyên tử có độ âm
điện cao hơn gây ra sự phân li cation (nguyên tử
tích điện tích âm) và anion (nguyên tử tích điện
dương)
Ví dụ:
NaCl → Na+ + Cl-
2.2.3. Liên kết Van der Waals
Là các tương tác không đặc hiệu xuất hiện giữa
hai nguyên tử khi chúng tiến lại gần nhau.
Tương tác này không do sự phân phối lệch của
các điện tử giữa hai phân tử mà do các biến
động thoáng qua của đám mây điện tử gây ra sự
phân cực nhất thời trên phân tử.
Liên kết Van der Waals là kết quả của lực hút và
lực đẩy. Hai lực này cân bằng ở một khoảng
cách nhất định, đặc trưng cho từng loại nguyên
tử. Khoảng cách này được gọi là bán kính Van
der Waals. Đây là lực liên kết yếu nhất, với giá trị
chỉ khoảng 1 k cal mol-1.
2.2..4. Liên kết kị nước (tương tác kị nước)
Lực thúc đẩy các phân tử không phân cực,
hay các vùng không phân cực của các phân tử
liên kết với nhau thay vì với các phân tử H2O (đẩy
phân tử H2O ra ngoài) được gọi là liên kết kị
nước.
Đây không phải là một lực liên kết đúng nghĩa
mà là khuynh hướng loại trừ các nhóm không
phân cực ra khỏi mạng lưới nước. Còn liên kết
thật sự tồn tại giữa các phân tử không phân cực
là liên kết Van der Waals
II. HÌNH DẠNG, KÍCH THƯỚC VÀ CẤU TRÚC CỦA
PHÂN TỬ PROTEIN
2.1 Hình dạng kích thước
Protein có khối lượng phân tử (Mr) tương đối
lớn và thay đổi trong một dải rộng từ hơn 10
nghìn đến hàng trăm nghìn dalton (bảng 4.1).
Các phân tử protein có thể có dạng cầu (kể cả
hình bầu dục) hoặc dạng sợi.
2.2 Cấu trúc bậc nhất
Cấu trúc bậc nhất biểu thị thành phần, trình
tự aa trong phân tử protein mạch thẳng.
Cấu trúc này được giữ vững nhờ liên kết
cộng hoá trị và liên kết peptide.
Cấu trúc bậc nhất của ribonuclesae của bò
* Cấu trúc bậc I của một số protein đã biết
Ngoài một số loại protein đã biết rõ cấu trúc bậc I như
insulin, hiện nay nhiều loại protein khác đã biết được
trình tự các amino acid trong chuỗi polypeptide như:
- ribonuclease là một protein có 124 amino acid, nối
với nhau thành một chuỗi;
- hemoglobin là protein có 4 chuỗi polypeptide, 2
chuỗi α (mỗi chuỗi 141 amino acid) và 2 chuỗi β (mỗi
chuỗi 146 amino acid)
- tripsinogen bò (229 amino acid)
- chimotrypsin bò (229 amino acid)
- alcohol dedhyrogenase ngựa (374 amino acid)
- glutamate dehdrogenase bò (500 amino acid).
* Tính quy luật trong cấu trúc bậc I của protein
Những protein đồng thể của những loài khác
nhau có một số gốc amino acid tương đối
không đổi ở những vị trí đặc biệt và có những
gốc amino acid thay đổi, nghĩa là ở những loài
khác nhau, các amino acid khác có thể thay thế
cho nhau.
2.3 Cấu trúc bậc II (cấu trúc thứ cấp)
Cấu trúc bậc 2 là sắp xếp không gian bền của
các vùng trong polypeptide.
Cấu trúc bậc 2 được làm bền nhờ các liên kết
hydro, được tạo thành giữa liên kết peptide ở kề
gần nhau, cách nhau những khoảng xác định.
Các cấu trúc bậc 2 cơ sở là xoắn α và phiến β
và đoạn ngoặt β ngắn hình chữ U.
Các cấu trúc bậc 2 cơ sở là xoắn α phiến β và đoạn ngoặt
β ngắn hình chữ U.
Xoắn α
Phiến gấp β
* Xoắn α
Ở cấu trúc dạng này O thuộc nhóm –CO- của mỗi
liên kết peptide tạo liên kết hydro với H thuộc nhóm -NH-
của gốc aa thứ 4 tính từ đầu C.
Xoắn α dài 36 aa sẽ có 10 vòng xoắn và dài 5.4 nm.
Liên kết H trong xoắn α làm mạch khung có dạng trụ
dài, thẳng. Do đó nhóm R của aa quay ra ngoài.
Nhóm amino và carboxyl phân cực đều tham gia liên
kết H nên các nhóm R xác định tính chất kỵ nước hoặc
ưa nước của xoắn riêng proline không nằm trong xoắn α.
=> Xoắn α là cấu trúc điển hình, rất ổn định và phổ biến
nhất trong protein nhưng cũng có những biến thể khác
như xoắn cặp đôi.
* Phiến β
Phiến β chứa các mạch β kết nối theo biên.
Mỗi mạch β là một phân đoạn ngắn (chứa 5 - 8
aa) và hầu như trải ra hết cỡ.
Liên kết H trong phiến β hình thành giữa các
nguyên tử nằm trên khung của những mạch β
riêng biệt nhưng liền kề.
* Đoạn ngoặt β
Gồm 4 aa, nằm trên bề mặt ptotein, tạo thành
đường cong hẹp, uốn khung polypeptide quay
ngược vào trong. Cấu trúc này bền nhờ liên kết H
giữa 2 đầu.
Glycine và proline thường nằm trong đoạn
ngoặt.
Đoạn ngoặt β giúp các protein lớn gập lại rất
gọn có 6 loại đoạn ngoặt xác định. Cấu trúc chi tiết
của chúng phụ thuộc vào sắp xếp tương tác gắn H.
* Phương pháp nghiên cứu cấu trúc bậc 2
- Phổ hồng ngoại
- Phổ tử ngoại - khả biến
- Phổ cộng hưởng từ hạt nhân
- Trao đổi H nặng
2.4 Cấu trúc bậc III
Toàn bộ chuỗi polypeptide gấp nếp tạo thành
cấu trúc bậc III.
Cấu trúc này ổn định nhờ tương tác kỵ nước
giữa các nhóm R không phân cực, liên kết H giữa
các nhóm R phân cực và liên kết peptide.
Tính chất hoá học của nhóm R của aa quyết
định cấu trúc bậc 3 của protein.
Dựa vào cấu trúc bậc III có thể chia protein
thành 3 loại: protein sợi, protein cầu và protein
xuyên màng.
* Mô hình gấp nếp giọt dầu
Các aa với mạch nhánh không phân cực, kỵ
nước thường bị cô lập cách xa bề mặt tiếp xúc
nước của protein. Chúng tạo thành lõi trung tâm
không hoà tan trong nước gọi là mô hình giọt dầu
của protein cầu.
2.5 Cấu trúc bậc IV
Vị trí của sự sắp xếp các protein có cấu trúc
bậc 3 trong không gian tạo thành cấu trúc bậc 4
Cấu trúc bậc 4 chỉ đặc trưng cho những phân
tử protein có cấu trúc từ 2 hay nhiều chuỗi
protein hình cầu, tương tác với nhau sắp xếp
trong không gian tạo nên. Mỗi chuỗi polypeptide
đó được gọi là 1 tiểu đơn vị (subunit), chúng gắn
với nhau nhờ các liên kết H, tương tác Van der
waals giữa các nhóm phân bố trên bề mặt của
các tiểu đơn vị để làm bền cấu trúc bậc IV.
Bậc I Bậc II Bậc III Bậc IV
* Phương pháp xác định khối lượng phân tử
protein
- Phương pháp ly tâm siêu tốc
- Phương pháp điện di
- Phương pháp sắc ký lọc gel (lọc sàng
phân tử)
* Tính quy luật trong cấu trúc bậc IV của protein
Các protein có cấu trúc bậc IV, phân tử có
thể được cấu tạo từ hai cho tới hàng trăm tiểu
đơn vị. Tuy nhiên phần lớn các phân tử protein
được cấu trúc từ các tiểu đơn vị đồng nhất hoặc
từ các nhóm tiểu đơn vị giống nhau, vì thế phân
tử protein thường được cấu tạo đối xứng.
Những protein cấu trúc từ các tiểu đơn vị
đồng nhất có một hay một số nhất định kiểu đối
xứng như đối xứng quay tròn hay xoắn ốc. Như
vậy các tiểu đơn vị có thể xếp chồng lên nhau
quanh một hoặc một số trục hay là đường xoắn
ốc.
Hai kiểu đối xứng vòng tròn trong cấu trúc protein
* Tính quy luật trong cấu trúc bậc IV của protein
* Motif là tổ hợp cấu trúc bậc II và bậc III có quy
tắc
Các tổ chức cấu trúc bậc II và bậc III nhất
định được gọi là motif cấu trúc hay kiểu gấp nếp.
chúng thường xuất hiện như các phân đoạn
trong nhiều loại protein.
- Motif góp phần hình thành cấu trúc tổng
thể của toàn bộ protein và mỗi loại motif thường
thực hiện một chức năng chung trong các protein
khác nhau.
* Miền cấu trúc và miền chức năng là các module cấu
trúc bậc III
Các vùng cấu trúc bậc III dễ nhận thấy trong
protein thường được gọi là miền. Có 3 loại miền
protein chính:
- Miền chức năng: là vùng có hoạt tính,
thường ngay cả khi tách khỏi phần còn lại của
protein.
- Miền cấu trúc: là vùng chứa lớn hơn hoặc
bằng 40 aa, gấp nếp thành cấu trúc bậc II hoặc bậc
III bền với cấu hình đặc trưng dễ nhận thấy và độc
lập với phần còn lại của protein. các miền cấu trúc
riêng biệt có thể gắn với nhau đôi khi thông qua vùng
đệm để tạo thành protein đa miền, lớn.
- Miền topo học: là các vùng protein có tương
quan không gian khác với phần protein còn lại.
* Protein kết hợp thành cấu trúc đa phân và tổ hợp đại phân tử
Protein đa tiểu phần chứa lớn hơn hoặc bằng 2
polypeptide (tiểu phần). mức tổ chức cấu trúc thứ 4, cấu trúc
bậc IV mô tả số lượng và vị trí tương đối của các tiểu phần
trong protein đa tiểu phần.
- Thông thường, các tiểu phần riêng biệt không có chức
năng trừ khi chúng lắp ráp thành protein đa tiểu phần. trong
một số trường hợp, protein đa tiểu phần bố trí tiểu phần kề
nhau theo chuỗi phản ứng cần cho một con đường tế bào. và
điều này làm tăng hiệu quả vận hành của chúng.
- Bậc cấu trúc cao nhất của protein là sự kết hợp các
protein thành tổ hợp đại phân tử.
- Tổ hợp đại phân tử với chức năng cấu trúc bao gồm
sapsid và các bó sợi khung tế bào.
- Các tổ hợp đại phân tử khác hoạt động như bộ máy
phân tử, thực hiện hầu hết các quá trình phức tạp của tế bào
bằng cách tích hợp những chức năng riêng lẻ thành một chỉnh
thể thống nhất.
2.6. Gấp nếp của protein
2.6.1. Mặt phẳng liên kết peptide hạn chế hình
dạng của protein
- Mặt phẳng liên kết peptide hạn chế
phương thức gấp nếp của chuổi polypeptide và là
đặc trưng cấu trúc rất quan trọng của chuỗi này.
- Liên kết peptide không thể tự quay quanh
nó. Do vậy biến thiên cấu hình của chuỗi
polypeptide chỉ do độ linh động của khung quyết
định.
2.6.2 Trình tự aa mã hoá thông tin gấp nếp của
protein
- Các ràng buộc trong góc liên kết mạch
khung dường như gây ra hạn chế rất lớn đối với
cấu hình của protein, tuy trên lý thuyến thì một
chuỗi polypeptide rất ngắn vẫn có thể mang
nhiều hình dạng khác nhau. Nhưng thực tế mọi
protein chỉ có 1 hoặc 1 số rất ít cấu hình đặc
trưng mang chức năng gọi là cấu hình tự nhiên.
cấu hình này là cấu hình bền nhất và có năng
lượng tự do thấp nhất.
* Chaperone thúc đẩy quá trình gấp nếp
in vivo của protein
chaperone phân tử gắn và ổn định protein chưa gấp
nếp hay đã một phần nào gấp nếp, do đó ngăn chặn các
protein này kết tụ và phân huỷ.
Tương tự với chapronin: tạo thành hốc gấp nếp nhỏ.
Trong hốc này protein chưa gấp nếp bị cô lập, mang lại
thời gian và môi trường thích hợp để nó gấp nếp chính xác.
* Sự gấp nếp khác biệt của protein có thể
liên quan đến bệnh
Protein có thể gấp nếp thành các cấu trúc lập
thể khác nhau do biến đổi cộng hoá trị không thích
hợp sau khi tổng hơp hoặc các lý do khác.
Sự "gấp nếp sai" không chỉ làm protein mất
chức năng thông thường mà còn hướng nó tới quá
trình phân huỷ protein. Tuy nhiên, nếu quá trình phân
huỷ không xảy ra hoặc xảy ra không hoàn toàn thì
những protein này có thể tích luỹ và góp phần vào
một số bệnh thoái hoá được đặc trưng bởi sự có mặt
của các mảng protein không hoà tan trong nhiều cơ
quan bao gồm gan và não.
VD: bệnh bò điên ở bò và cừu
III. TÍNH CHẤT LÝ HÓA CỦA PROTEIN
3.2 Tính ngậm nước của protein
Trong môi trường nước, protein kết hợp với nước
trương lên trở thành dạng keo hay nói cách khác
protein ở trạng thái hydrate hoá, các phân tử
nước bám vào các nhóm ưa nước trong phân tử
protein như -NH2, -COOH..., lớp áo nước bao
quanh phân tử protein là một trong các yếu tố làm
bền vững cấu trúc, ngăn cách các phân tử protein
không cho chúng dính vào nhau để thành tủa
3.1 Tính tan của protein
Các loại protein khác nhau có khả năng hoà tan
dễ dàng trong một số loại dung môi nhất định.
3.3 Độ nhớt của dung dịch protein
Khi protein hoà tan trong dung dịch, mỗi loại dung dịch của
những protein khác nhau có độ nhớt khác nhau
3.4 Hằng số điện môi của dung dịch protein
Hằng số điện môi của dung môi làm ngăn cản lực tĩnh
điện giữa các nhóm tích điện của protein và nước. Mối
liên hệ đó được đặc trưng bởi biểu thức:
L1 - l2
F =
D r2
Trong đó: D - hằng số điện môi của dung dịch
F- lực tĩnh điện giữa các ion tích điện
L1 , l2 - điện tích các ion, r - khoảng cách giữa các ion
Ở đây lực tĩnh điện giữa các ion tỷ lệ nghịch với hằng số
điện môi
và khoảng cách giữa các ion protein.
3.5 Tính chất điện li của protein
Protein là chất điện li lưỡng tính vì trong phân tử protein
có nhiều nhóm phân cực mạnh (gốc bên R) của amino acid.
pHgi là điểm đẳng điện của protein.
Ở môi trường có pH < pHi, đa số protein là một cation, số
điện tích dương lớn hơn số điện tích âm. Ở pH > pHi phân tử
protein thể hiện tính acid, cho ion H+, do đó số điện tích âm
lớn hơn số điện tích dương, protein là một đa anion, tích điện
âm.
Trong môi trường có pH = pHi , protein dễ dàng kết tụ lại
với nhau vì thế người ta lợi dụng tính chất này để xác định pHi
của protein cũng như để kết tủa protein. Mặt khác do sự sai
khác nhau về pHi giữa các protein khác nhau, có thể điều
chỉnh pH của môi trường để tách riêng các protein ra khỏi hỗn
hợp của chúng.
3.6 Sự kết muối của dung dịch protein
Độ hoà tan của protein không phụ thuộc vào
bản chất của muối trung tính, mà phụ thuộc vào
nồng độ muối và số điện tích của mỗi ion trong
dung dịch.
Khi tăng đáng kể nồng độ muối trung tính thì
độ tan của protein bắt đầu giảm và ở nồng độ
muối rất cao, protein có thể bị tủa hoàn toàn.
Các protein khác nhau tủa ở những nồng độ
muối trung tính khác nhau.
3.7 Biểu hiện quang học của protein
Cũng như nhiều chất hoá học khác, protein
có khả năng hấp thụ và bức xạ xạ ánh sáng
dưới dạng lượng tử hγ.
Nhìn chung protein đều có khả năng hấp thụ
ánh sáng trong vùng khả kiến (từ 350nm-
800nm) và vùng tử ngoại (từ 320nm xuống tới
180nm).
3.8 Kết tủa thuận nghịch và không thuận nghịch
protein
Khi protein bị kết tủa đơn thuần bằng dung
dịch muối trung tính có nồng độ khác nhau hoặc
bằng alcohol, aceton ở nhiệt độ thấp thì protein
vẫn giữ nguyên được mọi tính chất của nó kể cả
tính chất sinh học và có thể hoà tan trở lại gọi là
kết tủa thuận nghịch.
Ngược lại kết tủa không thuận nghịch là
phân tử protein sau khi bị kết tủa không thể phục
hồi lại trạng thái ban đầu.
Ngoài ra, còn một số phản ứng màu đặc trưng
khác, có ý nghĩa quan trọng trong phát hiện protein và
các gốc amio acid trong chuỗi polypeptide:
- Phản ứng với thuốc thử Folin-Ciocalteau
- Phản ứng với ninhydrin
3.9 Các phản ứng hóa học của prptein
Cũng như các amino acid và peptide protein
có các phản ứng hoá học tương tự đó là: phản
ứng của các nhóm -COOH, -NH2, gốc R và phản
ứng tạo màu đặc trưng của liên kết peptide như
phản ứng biure.
IV. BIẾN TÍNH PROTEIN
4.1 Khái niệm chung
Sau khi protein bị kết tủa, nếu loại bỏ các
yếu tố gây kết tủa mà protein vẫn mất khả năng
tạo thành dung dịch keo bền như trước và mất
những tính chất ban đầu, chẳng hạn độ hoà
tan giảm, tính chất sinh học bị mất gọi là sự
biến tính protein.
Có nhiều yếu tố tác động gây ra sự biến tính
protein như: nhiệt độ cao, tia tử ngoại, sóng
siêu âm, acide, kiềm, kim loại nặng.
Vì vậy, trong thực tế người ta rất chú ý ảnh
hướng của các yếu tố có khả năng làm biến
tính protein.
4.2 Các yếu tố gây biến tính
Những thay đổi dễ thấy nhất ở protein biến
tính là thay đổi tính tan, khả năng phản ứng
hoá học và hoạt tính sinh học.
Người ta phân biệt hai dạng biến tính:
- Biến tính thuận nghịch (biến tính trở lại
dạng ban đầu với tính chất và chức năng nguyên
thuỷ của nó, đó là sự hoàn nguyên). Vd: trường
hợp của tripsin
- Biến tính không thuận nghịch (protein
không trở lại dạng ban đầu của nó).vd: lòng trắng
trứng luộc.
4.3 Tính chất của protein biến tính