Bài viết “Châu Á đương đầu với bộ ba bất khả thi” - “Asia Confronts the
Impossible Trinity” được viết bởi Ila Patnaik và Ajay Shah - Giáo sư của Viện Nghiên
cứu Tài chính & Chính sách công Quốc gia ở New Delhi. Nghiên cứu được thực hiện
dưới sự bảo trợ của Chương trình nghiên cứu NIPFP-DEA.
Trong bài viết này, tác giả nghiên cứu về sự tự do hóa tài khoản vốn và cơ chế tỷ
giá hối đoái thả nổi ở 11 nền kinh tế Châu Á. Châu Á đã đã dần dần thực hiện quá trình
tự do hóa tài khỏan vốn nhưng trong thực tế tự do hóa tài khỏan vốn lại diễn ra nhanh
hơn. Mặc dù tỷ giá hối đoái đã dần dần trở nên linh hoạt hơn, nhưng hầu hết các nền kinh
tế Châu Á vẫn duy trì cơ chế tỷ giá cố định. Sự kết hợp giữa hội nhập ngày càng sâu trên
thực tế, mà không cần thả nổi tỷ giá nhiều, khi các dòng vốn thuận chu kỳ đã dẫn đến một
chính sách tiền tệ thuận chu kỳ. Bài viết này nhấn mạnh nhu cầu để đưa ra một khung
chính sách tiền tệ sao cho phù hợp.
Ý nghĩa cốt lõi trong kinh tế học vĩ mô hiện đại là “bộ ba bất khả thi”, có nghĩa là ở
bất cứ thời điểm nào, một quốc gia chỉ có thể chọn hai trong những điều sau đây: một tài
khoản vốn mở, cơ chế tỉ giá hối đoái cố định và một chính sách tiền tệ độc lập. Ngoại trừ
các quốc gia sử dụng đồng tiền chung Euro, hầu hết các nước phát triển đều thực hiện
chính sách tự do hóa tài khoản vốn, cơ chế tỉ giá hối đoái thả nổi và một chính sách tiền
tệ độc lập.
Ở Châu Á, có một vài trường hợp hoàn toàn ngược lại, chẳng hạn như Hong Kong
chọn cơ chế tỉ giá hối đoái cố định, tự do hóa tài khoản vốn và không có chính sách tiền
tệ độc lập. Tuy nhiên, nhìn chung nền kinh tế Châu Á đều có chung xu hướng là
thiếu một chính sách tiền tệ độc lập, với sự phối hợp giữa việc kiểm soát dòng vốn
và cơ chế tỉ giá hối đoái kém linh hoạt. Điều này làm phát sinh những nghi vấn thú vị
về thể chế hiện hành và khả năng điều hành chính sách tiền tệ ở Châu Á và một nhu cầu
cơ bản là làm sao để đưa ra một khung chính sách tiền tệ phù hợp.
Ở bài này, tác giả tập trung vào 11 nền kinh tế chủ yếu ở Châu Á như: Ấn Độ, Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc); Hong Kong, Đài Loan, Singapore,
Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Philippines, Việt Nam, và Hàn Quốc. Đây là một nhóm
những quốc gia không đồng nhất cao, được sắp xếp từ những vùng lãnh thổ độc lập như
Singapore đến những quốc gia lớn như Trung Quốc, và từ những nền kinh tế nghèo như
Ấn Độ đến những nền kinh tế giàu như Đài Loan hay Hàn Quốc. Chúng ta sẽ gọi những
nền kinh tế này là khối các nước Châu Á-11.
30 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1717 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Châu Á đương đầu bộ ba bất khả thi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM
------------
Môn: Tài Chính Quốc Tế
Đề tài:
CHÂU Á ĐƯƠNG ĐẦU BỘ BA BẤT KHẢ THI
GVHD: TS NGUYỄN KHẮC QUỐC BẢO
NTH: Nhóm 20.
Lớp Ngân hàng - Đêm 2 - Khóa 22.
Danh sách nhóm
1. Nguyễn Văn Phương
2. Lê Trung Quốc
3. Đặng Thị Phương Trang
TPHCM, tháng 06 năm 2013.
2
MỤC LỤC
I. GIỚI THIỆU ........................................................................................................................ 3
II. TỔNG QUAN CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY .............................. 5
1. Nghiên cứu của Chinn – Ito về đo lường mức độ kiểm soát vốn danh nghĩa .... 5
2. Nghiên cứu về đo lường mức độ tự do hóa tài khoản vốn trên thực tế ............... 5
3. Lý thuyết xác định cơ chế tỷ giá hối đoái ................................................................... 6
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.................................................................................... 8
1. Phương pháp đo lường mức độ kiểm soát vốn.......................................................... 8
2. Phương pháp xác định cơ chế tỷ giá hối đoái: ........................................................ 10
IV. NỘI DUNG VÀ CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ..................................................... 10
1. Đo lường mức độ kiểm soát vốn danh nghĩa ........................................................... 10
2. Đo lường mức độ tự do hóa tài khoản vốn thực tế ................................................. 13
3. Cơ chế tỷ giá ................................................................................................................... 18
4. Châu Á và bộ ba bất khả thi ....................................................................................... 23
V. KẾT LUẬN......................................................................................................................... 28
Tài liệu tham khảo.................................................................................................................... 30
3
CHÂU Á ĐƯƠNG ĐẦU BỘ BA BẤT KHẢ THI
I. GIỚI THIỆU
Bài viết “Châu Á đương đầu với bộ ba bất khả thi” - “Asia Confronts the
Impossible Trinity” được viết bởi Ila Patnaik và Ajay Shah - Giáo sư của Viện Nghiên
cứu Tài chính & Chính sách công Quốc gia ở New Delhi. Nghiên cứu được thực hiện
dưới sự bảo trợ của Chương trình nghiên cứu NIPFP-DEA.
Trong bài viết này, tác giả nghiên cứu về sự tự do hóa tài khoản vốn và cơ chế tỷ
giá hối đoái thả nổi ở 11 nền kinh tế Châu Á. Châu Á đã đã dần dần thực hiện quá trình
tự do hóa tài khỏan vốn nhưng trong thực tế tự do hóa tài khỏan vốn lại diễn ra nhanh
hơn. Mặc dù tỷ giá hối đoái đã dần dần trở nên linh hoạt hơn, nhưng hầu hết các nền kinh
tế Châu Á vẫn duy trì cơ chế tỷ giá cố định. Sự kết hợp giữa hội nhập ngày càng sâu trên
thực tế, mà không cần thả nổi tỷ giá nhiều, khi các dòng vốn thuận chu kỳ đã dẫn đến một
chính sách tiền tệ thuận chu kỳ. Bài viết này nhấn mạnh nhu cầu để đưa ra một khung
chính sách tiền tệ sao cho phù hợp.
Ý nghĩa cốt lõi trong kinh tế học vĩ mô hiện đại là “bộ ba bất khả thi”, có nghĩa là ở
bất cứ thời điểm nào, một quốc gia chỉ có thể chọn hai trong những điều sau đây: một tài
khoản vốn mở, cơ chế tỉ giá hối đoái cố định và một chính sách tiền tệ độc lập. Ngoại trừ
các quốc gia sử dụng đồng tiền chung Euro, hầu hết các nước phát triển đều thực hiện
chính sách tự do hóa tài khoản vốn, cơ chế tỉ giá hối đoái thả nổi và một chính sách tiền
tệ độc lập.
Ở Châu Á, có một vài trường hợp hoàn toàn ngược lại, chẳng hạn như Hong Kong
chọn cơ chế tỉ giá hối đoái cố định, tự do hóa tài khoản vốn và không có chính sách tiền
tệ độc lập. Tuy nhiên, nhìn chung nền kinh tế Châu Á đều có chung xu hướng là
thiếu một chính sách tiền tệ độc lập, với sự phối hợp giữa việc kiểm soát dòng vốn
và cơ chế tỉ giá hối đoái kém linh hoạt. Điều này làm phát sinh những nghi vấn thú vị
về thể chế hiện hành và khả năng điều hành chính sách tiền tệ ở Châu Á và một nhu cầu
cơ bản là làm sao để đưa ra một khung chính sách tiền tệ phù hợp.
Ở bài này, tác giả tập trung vào 11 nền kinh tế chủ yếu ở Châu Á như: Ấn Độ, Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc); Hong Kong, Đài Loan, Singapore,
Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Philippines, Việt Nam, và Hàn Quốc. Đây là một nhóm
những quốc gia không đồng nhất cao, được sắp xếp từ những vùng lãnh thổ độc lập như
Singapore đến những quốc gia lớn như Trung Quốc, và từ những nền kinh tế nghèo như
Ấn Độ đến những nền kinh tế giàu như Đài Loan hay Hàn Quốc. Chúng ta sẽ gọi những
nền kinh tế này là khối các nước Châu Á-11.
4
Tác giả xét khối các nước Châu Á-11 trên khía cạnh 3 góc độ của “bộ ba bất khả
thi”: kiểm soát dòng vốn, cơ chế tỉ giá hối đoái và chính sách tiền tệ độc lập. Tác giả
có được những thống kê sơ bộ về mỗi nền kinh tế của 11 quốc gia này, và sẽ tập trung
vào những trị số của 3 nền kinh tế lớn nhất: Ấn Độ, Trung Quốc và Hàn Quốc.
Do chính phủ của những quốc gia này đã thất bại trong việc thực hiện những công
bố, nên bài viết này tập trung nói về vấn đề kiểm soát dòng vốn, cơ chế tỉ giá hối đoái
và những khuôn khổ chính sách tiền tệ trong thực tế chứ không phải là trên danh
nghĩa. Cụ thể hơn, tác giả đề cập đến những điều kiện thực tế cho việc tự do hóa dòng
vốn, cơ chế tỉ giá linh hoạt và những ảnh hưởng của chúng đến chính chính sách tiền tệ
mà thước đo là lãi suất thực ngắn hạn.
Tác giả nhận thấy rằng trong khi 11 nước Châu Á ít nhiều đã tuyên bố thực hiện tự
do hóa dòng vốn, nhưng trên thực tế thì hầu hết các quốc gia này đều có những biện pháp
hạn chế dòng vốn quốc tế tự do di chuyển. Tuy nhiên, điều này không thể cản trở việc
dần dần hội nhập bởi vì hệ thống tài chính ngày càng phát triển vô cùng phức tạp.
Bên cạnh đó, Châu Á được biết đến với cơ chế tỷ giá hối đoái hoàn toàn cố
định.Mặc dù sự linh hoạt trong chính sách tỉ giá của họ đã tăng lên từ sau năm 2000,
nhưng vẫn ở mức thấp so với thế giới. Ngay cả khi Hàn Quốc là nước có cơ chế tỷ giá
tương đối linh hoạt nhưng vẫn chưa hoàn toàn dám thả nổi tỷ giá.
Chính sách tiền tệ nghịch chu kỳ là một trong những chiến lược của chính phủ
nhằm đạt được mục tiêu ổn định lạm phát và sản lượng. Chúng ta đề cập đến mục tiêu
này trong bối cảnh sự mâu thuẫn phát sinh trong “bộ ba bất khả thi”. Ngày nay, hầu hết
các quốc gia Châu Á tăng cường tự do hóa dòng vốn cùng với thực hiện cơ chế tỉ giá hối
đoái gần như cố định. Để đạt được điều đó dòng vốn phải thuận chu kỳ, những ngân hàng
trung ương sẽ biến dòng vốn thuận chu kỳ thành chính sách tiền tệ thuận chu kỳ. Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa và Ấn Độ là những trường hợp thử nghiệm hấp dẫn của hiện
tượng này, thực tế đã đem lại một phạm vi giới hạn trong việc di chuyển vốn tự do ở cả
hai quốc gia và hệ thống tài chính tương đối yếu kém của họ. Đến lúc này, giữa hai quốc
gia, chúng ta nhận thấy chính sách tiền tệ tuần hoàn khá rõ ràng.
Có ý kiến cho rằng những nền kinh tế đi theo hướng tự do hóa dòng vốn trong khi
vẫn thực hiện việc kiểm soát tỷ giá hối đoái sẽ phải đối mặt với những rủi ro tiềm ẩn.
Điều này là một mối quan tâm đặc biệt đối với Malaysia và Đài loan, nơi mà hệ thống tài
chính phức tạp đã ảnh hưởng đến hiệu quả kiểm soát vốn, tự do hóa dòng vốn và cơ chế
tỷ giá hối đoái cố định. Việc theo đuổi chính sách tiền tệ nghịch chu kỳ trở nên khó khăn
hơn khi những quốc gia này đã thực hiện việc neo tỷ giá hối đoái vào những dòng vốn
thuận chu kỳ, bài viết này nhằm tìm ra một chính sách tiền tệ thích hợp.
5
II. TỔNG QUAN CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY
1. Nghiên cứu của Chinn – Ito về đo lường mức độ kiểm soát vốn danh nghĩa
Bằng việc sử dụng phân tích những nhân tố chính, Chinn and Ito (năm 2008) đã
xây dựng một cơ sở dữ liệu về việc kiểm soát vốn danh nghĩa (hay còn gọi là kiểm soát
vốn theo lý thuyết hay theo tuyên bố của các quốc gia) dựa trên những thông tin mà các
quốc gia cung cấp để làm cơ sở dữ liệu cho Quỹ tiền tệ thế giới (IMF). Cơ sở dữ liệu này
cung cấp một chỉ số hằng năm của mỗi nền kinh tế, với những dãy giá trị từ -1.81 của
những nền kinh tế tài khoản vốn đóng hoàn toàn, đến +2.53 của những quốc gia có tài
khoản vốn hoàn toàn tự do hóa.
Mặc dù cơ sở dữ liệu thường được dùng để phân tích việc kiểm soát vốn danh
nghĩa, nhưng nó cũng có những hạn chế. Đầu tiên, nó không đạt được tính chính xác của
quá trình dần nới lỏng việc kiểm soát vốn, bởi vì nếu như tất cả các biện pháp hạn chế
không được dỡ bỏ nó sẽ tiếp tục đưa ra những chỉ số tương tự. Thứ hai, chỉ số đã tăng
đáng kể ở hầu hết các nước công nghiệp trong những năm gần đây, bởi vì những nước
này đã đưa ra những biện pháp hữu hiệu trong việc chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố
và những cái tương tự.
2. Nghiên cứu về đo lường mức độ tự do hóa tài khoản vốn trên thực tế
a. Phương pháp tính theo GDP
Tỷ lệ thương mại/GDP được hiểu như tổng lượng nhập khẩu và xuất khẩu, nó thể
hiện bằng tỷ lệ phần trăm của GDP. Nó đo lường sự tự do thương mại. Một sự giải thích
đơn giản minh chứng cho định nghĩa này đó là tỷ lệ dòng chảy tài chính xuyên quốc gia
trong cán cân thanh toán đến GDP. Nó đo lường sự hội nhập tài chính.
Khả năng điều tiết tỷ giá hối đoái của Ngân hàng trung ương phụ thuộc vào khối
lượng vốn quốc tế đổ vào trong nước trên thị trường ngoại hối. Thậm chí ngay cả khi
những luồng giao dịch này rất nhiều trong năm thì những khoản thanh toán nhập khẩu,
nguồn thu từ xuất khẩu và các dòng vốn tài chính vẫn hằng ngày ảnh hưởng đến tỷ giá
hối đoái. Thêm vào đó, mặc dù các dòng sản lượng bao gồm các giao dịch trên cả tài
khoản vãng lai và tài khoản vốn, nhưng các giao dịch trên tài khoản vãng lai có vẻ chiếm
ưu thế hơn các giao dịch trên tài khoản vốn, vì các khoản chuyển vốn giữa các quốc gia
có thể là các khoản phi thương mại. Patnaik, Sengupta và Shah (2009) đã cho thấy rằng
tài khoản vãng lai càng lớn thì các khoản giao dịch phi thương mại càng nhiều và nó
được xem như một kỹ thuận phá vỡ sự kiểm soát dòng vốn di chuyển. Patnaik và Shah đã
6
nghiên cứu sự tự do hóa dòng vốn không được mong đợi sẽ làm xuất hiện những tập đoàn
đa quốc gia đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Những lý thuyết khác thì nhấn
mạnh mối liên hệ tác động qua lại giữa tự do hóa tài khoản vãng lai và tài khoản vốn
(Aizenman 2003; Aizenman và Noy 2004). Vì vậy chúng ta có thể xem dòng sản lượng
trên cả tài khoản vốn và tài khoản vãng lai là một thước đo của sự toàn cầu hóa nền kinh
tế.
b. Phát triển khu vực tài chính
Việc mở rộng kiểm soát vốn có hiệu quả đã tạo ra nhiều việc phải làm đối với việc
phát triển khu vực tài chính trong nước. Hệ thống tài chính ngày càng phức tạp có xu
hướng bào mòn hiệu quả của việc kiểm soát vốn qua thời gian. Khi nghĩ đến hiệu quả của
kiểm soát vốn danh nghĩa, ta thấy rằng việc xem xét năng lực của hệ thống tài chính
trong nước rất quan trọng.
Để làm được điều này, Dorrucci, Meyer-Circel, và Santabarbara (2009) đã đưa
ra bảng cơ sở dữ liệu của việc phát triển khu vực tài chính ở 26 nền kinh tế mới nổi, bao
gồm tất cả các nền kinh tế khối các nước Châu Á-11, ngoại trừ Việt Nam. Các giá trị của
chỉ số này được sắp xếp từ 0 (đối với những nước có hệ thống tài chính không phát triển)
tới 1 (đối với những nước có hệ thống tài chính phát triển). Chúng ta tập trung vào thước
đo “hẹp” của sự phát triển tài chính bởi vì thước đo này được cập nhật thường xuyên.
c. Phương pháp cơ sở dữ liệu của Lane và Milesi-Ferretti
Phương pháp khác để đo lường sự hội nhập thực sự vào nền kinh tế thế giới là sử
dụng thông tin từ cơ sở dữ liệu của Lane and Milesi-Ferretti (Lane and Milesi-Ferretti
2007). Nó đo lường phần tài sản và các khoản nợ nước ngoài của quốc gia bằng cách
tổng hợp các dòng trong cán cân thanh toán. Cơ sở dữ liệu này giá trị ở chỗ nó đo lường
kết quả của việc kiểm soát vốn được phản ánh trên cán cân thanh toán. Tuy nhiên nó
không đo được các dòng vốn thực hiện thông qua cơ chế như các khoản giao dịch phi
thương mại dẫn đến việc thất thoát vốn và không được tính trong cán cân thanh toán.
3. Lý thuyết xác định cơ chế tỷ giá hối đoái
Trong thập niên qua, có lý thuyết cho rằng ở nhiều nền kinh tế cơ chế tỷ giá hối
đoái danh nghĩa được công bố bởi Ngân Hàng Trung Ương khác xa so với cơ chế tỷ giá
thực tế. Điều này đã thúc đẩy một lý thuyết về phân lọai cơ chế tỷ giá hối đoái theo
phương pháp “dữ liệu hóa” (Reinhart and Rogoff 2004; Levy-Yeyati and Sturzenegger
2003;Calvo and Reinhart 2002).
7
Lý thuyết này đã đưa ra những dữ liệu để nhận dạng cơ chế tỷ giá thực tế ở nhiều
nước trong những thập niên gần đây bằng cách sử dụng sự khác nhau của những thuật
toán thay thế.
Mặc dù những dữ liệu này hữu ích cho nhiều ứng dụng, chúng cũng có những hạn
chế trong việc đo lường những đặc điểm và cấu trúc của những cơ chế tỷ giá trung gian.
Ví dụ Reinhart và Rogoff phân loại đồng Rupi của Ấn độ như là một cơ chế tỷ giá đơn
nhất từ năm 1993 trở đi, nhưng sau đó báo cáo này chỉ ra rằng cũng từ năm 1993 Ấn độ
đã từng có một cơ chế tỷ giá trung gian, chính điều này đã mang lại một cái nhìn mới là
làm cách nào để xây dựng cơ chế tỷ giá hối đoái và chính sách tiền tệ.
Một phương pháp hữu ích để hiểu được cơ chế tỷ giá thực tế là phương pháp hồi
quy tuyến tính dựa trên tỷ giá chéo (với giá trị định vị thích hợp).
Phương pháp hồi quy này được sử dụng từ thời Haldane và Hall (1991) sau đó
được phổ biến bởi Frankel và Wei (vì vậy cũng có tên là phương pháp Frankel-
Wei). Ứng dụng gần đây của phương pháp ước lượng bao gồm Bénassy-Quéré,
Coeuré và Mignon (2006), Shah, Zeileis, và Patnaik (2005) và Frankel và Wei
(2007).
Trong phương pháp này , một đơn vị tiền tệ độc lập chẳng hạn như là Đồng France
Thụy Sĩ (CHF) được chọn là giá trị định vị giả định. Nếu sự ước lượng sử dụng đồng
Rupi Ấn độ (INR) như mô tả thì mẫu ước lượng là:
Phương pháp hồi quy này mở rộng sự dao động tỷ giá của INR/CHF phản ứng với
sự dao động của tỷ giá US$/CHF. Nếu neo tỷ giá vào đồng đô la Mỹ thì sự dao động
giữa đồng Yên Nhật và đồng Mark Đức sẽ bằng 0.Nếu không neo tỷ giá vào đồng đô la
Mỹ thì cả 3 beta khác 0. R2 của phương pháp hồi quy này cũng có ý nghĩa, giá trị gần
bằng 1 cho biết tỷ giá đã giảm dần sự linh hoạt.
Để hiểu cơ chế tỷ giá thực tế ở một nước trong một khoảng thời gian cho trước,
những nhà nghiên cứu và các kỹ thuật viên có thể dễ dàng điều chỉnh phương pháp hồi
quy này cho phù hợp với cửa sổ dữ liệu đã cho hay sử dụng cửa sổ dữ liệu biến đổi.Tuy
nhiên một kế họach như vậy thiếu cơ sở suy luận chính thức để quyết định sự thay đổi
của cơ chế tỷ giá.
8
Điều này đã thúc đẩy sự mở rộng đến toán kinh tế về sự thay đổi cấu trúc cho mục
đích phân tích sự thay đổi cấu trúc trong phương pháp Frankel-Wei (Zeileis, Shah và
Patnaik 2008). Điều này liên quan đến Phương pháp luận Perron-Bai quen thuộc (Bai và
Perron 2003) cho việc nhận ra ngày tháng của sự thay đổi cấu trúc trong phương pháp hồi
quy OLS.Qua đó ngày tháng của sự thay đổi cấu trúc trong cơ chế tỷ giá được nhận
dạng.Tác giả tập trung vào thời kỳ sau năm 1976 và tận dụng sự thay đổi tỷ giá hàng
tuần cho những ước lượng này. Những giá trị trong ngoặc là thống kê t.
Đối với mỗi nước, hàng lọat thời kỳ phụ được nhận biết. Ở mỗi thời kỳ phụ, R2
của phương pháp hồi quy được xem như là một thống kê tóm tắt tính linh họat của
tỷ giá. Giá trị gần bằng 1 cho thấy sự cố định chặt chẽ. Tỷ giá thả nổi có giá trị giữa 0.4-
0.5.
Sử dụng bảng biểu phân loại này, chúng ta có thể đạt được những điều sau đây :
- Đo lường và định lượng cấu trúc cơ chế tỷ giá trung lập bằng cách sử dụng thước
đo giá trị thực của tính cố định tỷ giá (hồi quy R2) và đương nhiên hồi quy R2
cũng tạo ra một thước đo giá trị thực tính linh hoạt của tỷ giá.
- Xác định rõ ngày tháng mà cơ chế tỷ giá thay đổi. Chúng ta thực hiện phương
pháp sử dụng tỷ lệ % thay đổi hàng tuần của tỷ giá mà phương pháp này tạo ra
những phân đoạn thời kỳ đối với giải pháp trong tuần. Qua đó, những dãy số liệu
thời gian của tính linh hoạt tỷ giá đã đạt được ở mỗi nước và giá trị R2 chiếm ưu
thế vào đúng thời điểm.
- Quyết định số lượng phân đoạn thời kỳ và sắp xếp những phân đoạn này dựa trên
những suy luận hợp lý.
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Phương pháp đo lường mức độ kiểm soát vốn
Để đo lường mức độ kiểm soát vốn hay mức độ tư do hóa trong chu chuyển vốn của
các nước Châu Á, tác giả bài viết đã ứng dụng các lý thuyết đã nêu tại phần II để đo mức
độ kiểm soát vốn danh nghĩa (hay còn gọi là kiểm soát vốn theo lý thuyết hay theo tuyên
bố chính thức của quốc gia) và một công cụ để đo mức độ chu chuyển dòng vốn trên thực
tế.
a. Công cụ để đo mức độ kiểm soát vốn danh nghĩa
Để đo mức độ kiểm soát vốn danh nghĩa tác giả dùng phương pháp Cơ sở dữ liệu
Chinn-Ito. Bằng việc sử dụng phân tích những nhân tố chủ yếu, Chinn and Ito (năm
2008) đã xây dựng một cơ sở dữ liệu về việc kiểm soát vốn danh nghĩa dựa trên những
thông tin mà các quốc gia cung cấp để làm cơ sở dữ liệu cho Quỹ tiền tệ thế giới (IMF).
9
Tác giả sử dụng cơ sở dữ liệu Chinn-Ito ở những nội dung sau :
- Mức độ kiểm soát tài khoản vốn danh nghĩa của cả các nền kinh tế năm 1970 và
năm 2007.
- Xu hướng tự do hóa dòng vốn trung bình của khu vực châu Á-11 (không bao gồm
Đài Loan) so thế giới năm 1970 và năm 2000
- Quá trình tự do hóa tài khoản vốn của Ấn Độ, Trung Quốc và Hàn Quốc, so sánh
với mức trung bình khối các nước châu Á-11 giai đoạn từ năm 1970-2007.
b. Mức độ tư do tài khoản vốn trên thực tế
Tính theo Tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
Tác giả sử dụng phương pháp tính tổng luồng luân chuyển trên GDP để đo lường
về mức độ tự do tài khoản vốn trên thực tế ở các nội dung sau:
- Giá trị trung bình của tỷ trọng dòng luân chuyển so với GDP của khối Châu Á-
11 (1998-2008)
- Tỷ trọng dòng luân chuyển so với GDP (thước đo của sự hội nhập toàn cầu) của
Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc và khối các nước Châu Á-11(1998-2008)
Phát triển khu vực tài chính
Tác giả đã sử dụng cơ sở dữ liệu của Dorrucci, Meyer-Circel, và Santabarbara
(2009) ở những nội dung sau:
- Các giá trị trung bình và trung vị sự phát triển khu vực tài chính của nền kinh tế
khối các nước Châu Á-11 từ năm 1990-2005.
- Năng lực hệ thống tài chính của Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc và mức bình
quân ở khối các nước Châu Á-11 từ năm 1991-2006.
Phương pháp cơ sở dữ liệu của Lane và Milesi-Ferretti
Tác giả sử dụng cơ sở dữ liệu của Lane và Milesi-Ferretti ở những nội dung sau:
- Mức độ tự do hóa tài khoản vốn năm 1970 so với năm 2007 của tất cả các nền
kinh tế.
- Xu hướng trong giá trị trung bình của 11 nước Châu Á giai đoạn 1994-2004
10
(không có số liệu sau năm 2004).
- Thước đo của Lane và Milesi-Ferreti.
2. Phương pháp xác định cơ chế tỷ giá hối đoái:
Tác giả đã sử dụng mô hình hồi quy tuyến tính dựa theo tỷ giá trao đổi tiền tệ chéo
để tiến hành nghiên cứu, đây là một phương pháp hữu ích để hiểu được cơ chế tỷ giá thực
tế là phương pháp hồi quy tuyến tính dựa trên tỷ giá chéo.
Đối với mỗi nước, hàng lọat thời kỳ phụ được nhận biết. Ở mỗi thời kỳ phụ, R2
của phương pháp hồi quy được xem như là một thống kê tóm tắt tính linh họat của
tỷ giá. Giá trị gần bằng 1 cho thấy sự cố định chặt chẽ. Tỷ giá thả nổi có giá trị giữa 0.4-
0.5.
Tác giả đã ứng dụng phương pháp này để nhận dạng cơ chế tỷ giá hối đoái của 11
nước Châu Á.
IV. NỘI DUNG VÀ CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Đo lường mức độ kiểm soát vốn danh nghĩa
Hình 1: Biểu đồ đo lường mức độ kiểm soát vốn danh nghĩa của Chinn-Ito trong 2
năm 1970 và 2007 của tất cả các nền kinh tế
Nguồn: Chinn and Ito (2008) và những tính toán của tác giả.
Cơ sở dữ liệu của Chinn-Ito cho thấy qua nhiều năm, tất cả các nước trên thế giới
hầu như đã dỡ bỏ kiểm soát tài khoản vốn. Hình 1 cho thấy đồ thị mật độ cốt lõi của
thước đo Chinn-Ito giữa 2 năm 1970 và 2007 của tất cả các n