Đề tài Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hiện hành - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình (HN&GĐ) quy định về tài sản chung của vợ, chồng. Theo đó, Việc xác định tài sản chung của vợ, chồng phải dựa vào nguồn gốc phát sinh tài sản. Cụ thể tài sản chung của vợ, chồng bao gồm những tài sản sau: Tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh trong thời kỳ hôn nhân và những thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ, chồng được tặng cho chung hoặc thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ, chồng thỏa thuận là tài sản chung. Các tài sản mà vợ, chồng mua sắm được bằng thu nhập nói trên; tài sản mà vợ, chồng có trước khi kết hôn hoặc những tài sản mà vợ, chồng được thừa kế riêng hay được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân nhưng vợ, chồng đã thỏa thuận nhập vào khối tài sản chung hoặc theo pháp luật quy định là tài sản chung. Luật HN&GĐ năm 2000 khẳng định quyền sử dụng đất mà vợ, chồng “có được” sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ, chồng; quyền sử dụng đất mà vợ, chồng “có được” trước khi kết hôn hoặc được thừa kế riêng đương nhiên là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ khi vợ, chồng có thỏa thuận là tài sản chung. Đối với những tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ, chồng. Tài sản chung của vợ, chồng là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia. Pháp luật quy định các quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với khối tài sản chung và mục đích của việc sử dụng tài sản chung là nhằm đáp ứng nhu cầu gia đình, đảm bảo cho vợ, chồng cùng nhau xây dựng gia đình và lao động tạo ra tài sản vì lợi ích chung của gia đình; những lợi ích đó còn là cơ sở trong việc chia tài sản chung của vợ, chồng. Xuất phát từ tình hình thực tế các quan hệ hôn nhân và gia đình, đồng thời nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của vợ, chồng về vấn đề tài sản, Luật HN&GĐ quuy định các trường hợp chia tài sản chung của vợ, chồng, đó là chia tài sản chung của trong thời kỳ hôn nhân, chia tài sản chung vủa vợ, chồng khi vợ, chồng chết và chia tài sản chung của vợ, chồng khi vợ, chồng ly hôn. Chia tài sản chung của vợ, chồng khi hôn nhân còn tồn tại là quy định mới của Luật HN&GĐ năm 1986 và năm 2000 so với Luật HN&GĐ năm 1959. Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là trường hợp chia tài sản đặc biệt và pháp luật chỉ cho phép chia tài sản chung của vợ, chồng khi hôn nhân tồn tại trong trường hợp thật sự cần thiết vì lợi ích của gia đình, của các đương sự hoặc của người thứ ba. Luật HN&GĐ năm 2000 không quy định phương thức chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân mà chỉ quy định “vợ, chồng có thể tự thỏa thuận chia tài sản chung”. Trong trường hợp “không thỏa thuận được thì yêu cầu tòa án giải quyết”

doc22 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3012 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hiện hành - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. Khái quát về chế độ tài sản của vợ, chồng a. Tài sản chung của vợ, chồng Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình (HN&GĐ) quy định về tài sản chung của vợ, chồng. Theo đó, Việc xác định tài sản chung của vợ, chồng phải dựa vào nguồn gốc phát sinh tài sản. Cụ thể tài sản chung của vợ, chồng bao gồm những tài sản sau: Tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh trong thời kỳ hôn nhân và những thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ, chồng được tặng cho chung hoặc thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ, chồng thỏa thuận là tài sản chung. Các tài sản mà vợ, chồng mua sắm được bằng thu nhập nói trên; tài sản mà vợ, chồng có trước khi kết hôn hoặc những tài sản mà vợ, chồng được thừa kế riêng hay được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân nhưng vợ, chồng đã thỏa thuận nhập vào khối tài sản chung hoặc theo pháp luật quy định là tài sản chung. Luật HN&GĐ năm 2000 khẳng định quyền sử dụng đất mà vợ, chồng “có được” sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ, chồng; quyền sử dụng đất mà vợ, chồng “có được” trước khi kết hôn hoặc được thừa kế riêng đương nhiên là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ khi vợ, chồng có thỏa thuận là tài sản chung. Đối với những tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ, chồng. Tài sản chung của vợ, chồng là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia. Pháp luật quy định các quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với khối tài sản chung và mục đích của việc sử dụng tài sản chung là nhằm đáp ứng nhu cầu gia đình, đảm bảo cho vợ, chồng cùng nhau xây dựng gia đình và lao động tạo ra tài sản vì lợi ích chung của gia đình; những lợi ích đó còn là cơ sở trong việc chia tài sản chung của vợ, chồng. Xuất phát từ tình hình thực tế các quan hệ hôn nhân và gia đình, đồng thời nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của vợ, chồng về vấn đề tài sản, Luật HN&GĐ quuy định các trường hợp chia tài sản chung của vợ, chồng, đó là chia tài sản chung của trong thời kỳ hôn nhân, chia tài sản chung vủa vợ, chồng khi vợ, chồng chết và chia tài sản chung của vợ, chồng khi vợ, chồng ly hôn. Chia tài sản chung của vợ, chồng khi hôn nhân còn tồn tại là quy định mới của Luật HN&GĐ năm 1986 và năm 2000 so với Luật HN&GĐ năm 1959. Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là trường hợp chia tài sản đặc biệt và pháp luật chỉ cho phép chia tài sản chung của vợ, chồng khi hôn nhân tồn tại trong trường hợp thật sự cần thiết vì lợi ích của gia đình, của các đương sự hoặc của người thứ ba. Luật HN&GĐ năm 2000 không quy định phương thức chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân mà chỉ quy định “vợ, chồng có thể tự thỏa thuận chia tài sản chung”. Trong trường hợp “không thỏa thuận được thì yêu cầu tòa án giải quyết”… b. Tài sản riêng của vợ, chồng Điều 32 Luật HN&GĐ quy định: “1.Vợ, chồng có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng cho vợ. chồng theo quy định tại quy định tại khoản 1 Điều 29 và Điều 30 của Luật này; đồ dùng, tư trang cá nhân. 2. Vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung”. Luật HN&GĐ năm 1986 (Điều 16) cũng như Luật HN&GĐ năm 2000 đều quy định vợ, chồng có quyền có tài sản riêng và đồng thời quy định vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản chung. Do vậy việc quy định vợ, chồng có tài sản riêng không làm ảnh hưởng tới tính chất của quan hệ hôn nhân và cũng không làm ảnh hưởng tới hạnh phúc gia đình. Việc vợ, chồng nhập tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất và các tài sản khác có giá trị lớn thuộc sở hữu riêng vào khối tài sản chung của vợ, chồng phải được lập thành văn bản, có chữ ký của cả vợ, chồng. Văn bản đó có thể được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật. Việc nhập tài sản riêng vào tài sản chung của vợ, chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ thì vô hiệu. Tài sản riêng của vợ, chồng thì vợ hoặc chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt độc lập không phụ thuộc vào ý chí của người kia. Trong trường hợp vì lý do công tác hoặc bệnh tật mà vợ, chồng không thể trực tiếp quản lý được cũng không thể ủy quyền cho người khác quản lý thì người kia quản tài sản đó. Người có tài sản riêng phải chứng minh được đó là tài sản riêng của mình. Việc chứng minh có thể được thực hiện bằng sự công nhận của bên kia , bằng các giấy tờ như văn tự , di chúc hoặc chứng cứ khác…Nếu người có tài sản không chứng minh được là tài sản riêng của mình thì tài sản đó là tài sản chung của vợ, chồng. Tài sản riêng của vợ, chồng dùng để thanh toán những nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi người. Điều này bảo đảm cho vợ, chồng thực hiện các nghĩa vụ về tài sản độc lập, bảo vệ quyền lợi của người thứ ba là người có quyền. Như vậy, Luật HN&GĐ Việt Nam đã xác định rõ chế độ tài sản của vợ, chồng gồm sở hữu của vợ, chồng đối với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất và sở hữu của vợ, chồng đối với tài sản riêng. Đây là chế độ tài sản mà pháp luật đã quy định. Vợ, chồng không thể tự thỏa thuận để làm thay đổi chế độ tài sản của họ. II. Những vướng mắc, bất cập và hướng hoàn thiện quy định của Luật HN&GĐ về chế độ tài sản của vợ, chồng. 1. Những vướng mắc, bất cập của Luật HHN&GĐ về chế độ tài sản của vợ, chồng a. Tài sản chung của vợ, chồng * Vấn đề tài sản chung của vợ, chồng Luật HN&GĐ năm 2000 cũng như Luật HN&GĐ năm 1986 của Việt Nam thừa nhận sự tồn tại của ba khối tài sản trong thời kỳ hôn nhân của vợ, chồng: tài sản chung của vợ, chồng; tài sản riêng của vợ và tài sản riêng của chồng được nhà làm luật giành nhiều sự quan, bảo vệ. Theo tinh thần Luật HN&GĐ năm 2000 (tại khoản 3 Điều 27) thì trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng thì nó sẽ được suy đoán là tài sản chung. Vấn đề xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng dù đã được quy định trong Luật HN&GĐ năm 2000, tuy nhiên trong thực tiễn, một khi đời sống chung giữa vợ, chồng càng kéo dài thì các tài sản sẽ có xu hướng không thể tránh khỏi là lẫn lộn với nhau, đặc biệt khi vợ, chồng xác lập nhiều các giao dịch liên quan đến tài sản. Do đó, không phải lúc nào nguồn gốc của tài sản cũng có thể xác định được theo các quy định về việc xác định tài sản chung và tài sản riêng. Quy định về tài sản chung mà nhà làm luật đặt ra trong khoản 3 Điều 27 có ý nghĩa như một nguyên tắc suy đoán có tính chất định hướng trong việc giải quyết các tranh chấp giữa vợ, chồng với nhau về tranh chấp tài sản. Tuy nhiên, với tư cách là một nguyên tắc suy đoán, tác dụng của nguyên tắc này chỉ dừng lại ở chỗ thiết lập một sự suy đoán, không có ý nghĩa khẳng định chắc chắn tất cả tài sản trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản chung của vợ, chồng. Mặt khác, nguyên tắc này còn có ý nghĩa như một trở ngại không những đối với vợ, chồng trong việc chứng minh tài sản là của riêng, mà còn trở ngại đối với người thứ ba, cụ thể là các chủ nợ riêng của vợ, chồng (các chủ nợ chỉ được đảm bảo thanh toán bằng tài sản riêng) trong việc yêu cầu kê biên tài sản riêng. Các chủ nợ riêng này muốn kê biên tài sản riêng của vợ, chồng mắc nợ, buộc phải chứng minh tài sản mà họ yêu cầu kê biên là tài sản riêng của người mắc nợ. Như vậy chúng ta thấy vấn đề xác định tài sản chung của vợ, chồng tại Điều 27 Luật HN&GĐ Việt Nam mang tính chất như một nguyên tắc suy đoán tài sản chung, nhưng việc suy đoán tài sản chung ở đây lại chỉ được ghi nhận một cách đơn giản, sẽ dẫn đến sự mơ hồ, khó khăn cho các bên (vợ, chồng và thậm chí cả Tòa án) khi giải quyết về vấn đề chia tài sản chung. Luật HNGĐ năm 2000 đã khắc phục được phần nào vướng mắc, phức tạp trong vấn đề xác định, phân chia tài sản của vợ, chồng. Khoản 2 Điều 27 quy định: “Trong trường hợp thuộc sỡ hữu chung của vợ, chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sỡ hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sỡ hữu phải ghi tên của vợ, chồng”. Đây là quy định mới khẳng định sự bình đẳng giữa vợ và chồng trong quan hệ về tài sản, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc bảo vệ quyền sở hữu của hai bên vợ, chồng. Qua đó có thể tránh được những tranh chấp phát sinh về quyền tài sản giữa vợ, chồng, đồng thời tạo cơ sở để tòa án giải quyết một cách đúng đắn việc phân chia tài sản, bảo vệ tốt hơn quyền lợi của phụ nữ. Tuy nhiên, việc áp dụng trên thực tiễn các quy định của pháp luật về chứng minh nguồn gốc của tài sản là tài sản chung hay tài sản riêng cũng hết sức khó khăn, phức tạp. Thứ nhất, theo nghị quyết số 02/2000, “Trong trường hợp tài sản do vợ, chồng có được trong thời kỳ hôn nhân mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sỡ hữu, nhưng trong giấy chứng nhận quyền sỡ hữu chỉ ghi tên của vợ, chồng, nếu không có tranh chấp thì đó là tài sản chung của vợ, chồng; nếu có tranh chấp là tài sản riêng thì người có tên trong giấy chững nhận quyền sỡ hữu phải chứng minh được tài sản này do được thừa kế riêng, được tặng riêng trong thời kì hôn nhân hoặc tài sản này có được từ nguồn tài sản riêng quy định tại khoản 1 Điều 32” (điểm 3.b). Điều này nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các bên trong quan hệ hôn nhân vì “thực tiễn cho thấy chỉ có tài sản rất lớn, rất quan trọng đối với đời sống gia đình thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu mới ghi tên của cả vợ, chồng”. Đến nghị định số 70/2001 NĐ-CP ngày 3/10/2001 của chính phủ thi hành Luật HN&GĐ năm 2000 quy định: không buộc vợ, chồng phải đăng kí lại những tài sản chung đã đứng tên một người trước đó (trước ngày Nghị định có hiệu lực); nếu có tranh chấp bên nào đó có tài sản thuộc sở hữu riêng của mình, thì có nghĩa vụ chứng minh (khoản 3 điều 5). Các tài sản thuộc sở hữu chung của vợ, chồng khi đăng ký quyền sở hữu phải ghi tên của vợ, chồng theo quy định tại khoản 2 Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 bao gồm: nhà ở, quyền sử dụng đất và những tài sản khác mà pháp luật buộc phải đăng ký quyền sở hữu (khoản 1 Điều 5),và việc đăng ký các tài sản thuộc sỡ hữu chung của vợ, chồng được thực hiện từ ngày Nghị định này có hiệu lực. Như vậy các quy định hiện nay thể hiện giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản, giấy đăng ký tài sản hay giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là bằng chứng có giá trị pháp lý cao nhất trong việc chứng minh tài sản của vợ, chồng là tài sản chung hay tài sản riêng của một trong hai bên. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay, các quy định của Nghị định số 70/2001 vẫn chưa được áp dụng một cách đồng bộ và hiệu quả trong việc ghi tên chung cho các giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản chung, việc đổi giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản chung. Điều này cho thấy, giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam chưa được xem là loại bằng chứng có giá trị pháp lý cao nhất để chứng minh việc tài sản tranh chấp là tài sản chung hay tài sản riêng của vợ,chồng. Do vậy, trong việc chứng minh nguồn gốc tài sản chung, các thẩm phán thường phải chấp nhận một cách rộng rãi tất cả các loại bằng chứng có thể có một cách hợp pháp. Điều này đã tạo ra cho các bên vợ, chồng nhiều thuận lợi trong việc bảo vệ quyền lợi của mình, đặc biệt trong bối cảnh các loại tài sản có xu hướng lẫn lộn vào nhau. Trong trường hợp có tranh chấp chung giữa vợ, chồng về tài sản chung hay riêng tồn tại trong thời kỳ hôn nhân của họ thì cần phải đưa ra những loại bằng chứng nào để chứng minh? Pháp luật HN&GĐ lại không quy định rõ. Vì vậy trong thực tiễn có nhiều loại bằng chứng đều có thể được chấp nhận, cả bằng chứng viết (các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu riêng của vợ, chồng với tài sản đang tranh chấp), lời khai của nhân chứng, hóa đơn, chứng từ…thậm chí là cả sự thừa nhận của cả bên còn lại. Thứ hai, theo khoản 1 Điều 5 nghị định số 70/2001 thì tài sản thuộc sở hữu chung của vợ, chồng khi đăng kí phải ghi tên cả vợ và chồng, bao gồm: “nhà ở, quyền sử dụng đất và những tài sản khác mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu”. Hiện nay các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi thực hiện quy định này đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và giấy đăng ký ô tô, xe máy ghi tên vợ, chồng, những người đã được cấp giấy chứng nhận có thể yêu cầu cấp lại giấy tờ ghi tên cả vợ và chồng. Tuy nhiên ngoài những tài sản nói trên thì “những tài sản khác” là những tài sản gì vẫn chưa được quy định rõ. Hơn nữa, trên thực tế, chúng ta cũng thấy một điều rằng không phải tài sản thuộc sở hữu chung nào của vợ, chồng cũng được ghi tên cả vợ, chồng khi đăng ký, mà có những trường hợp khi đăng ký những loại tài sản kể trên hoặc tài sản khác chỉ có tên của chồng hoặc vợ. Vậy phải chăng ở đây các nhà làm luật đã ít quan tâm đến thực tế, dẫn đến luật quy định một đàng, trên thực tế nhiều trường hợp diễn ra lại theo một đàng khác. * Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Chế độ tài sản chung của vợ, chồng được quy định tại các Điều 27 và 28 Luật HN&GĐ năm 2000 là chế độ tài sản pháp định với hình thức chế độ cộng đồng tạo sản. Nghĩa là tài sản mà vợ, chồng có được trong thời kỳ hôn nhân được xác định là tài sản chung, trừ những tài sản theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng. Về nguyên tắc, khi hôn nhân còn tồn tại thì tài sản chung vẫn còn tồn tại. Chế độ tài sản này chỉ chấm dứt khi hôn nhân chấm dứt về mặt pháp lý. Tuy nhiên, trên thực tế vì các lý do khác nhau mà nhiều cặp vợ, chồng muốn được chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Khoản 1 Điều 29 Luật HN&GĐ năm 2000 quy đinh: “khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ, chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì vợ, chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung, việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản, nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết”. Như vậy, theo quy định của luật, trong trường hợp có lý do chính đáng, việc chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kì hôn nhân có thể được thực hiện thông qua thỏa thuận bằng văn bản giữa vợ và chồng, hoặc quyết định của Tòa án; còn quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng không thay đổi. Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân dựa trên những cơ sở sau: Thứ nhất, trong cuộc sống gia đình, nhiều cặp vợ, chồng đã có những mâu thuẫn bất hòa nhưng vẫn chưa muốn ly hôn hoặc chưa thể ly hôn vì nghĩ đến lợi ích của con cái, danh dự, uy tín của cá nhân hoặc gia đình…Việc chia tài sản được coi là biện pháp giảm bớt những xung đột của vợ, chồng trong quan hệ tài sản. Thứ hai, quy định như vậy vừa nhằm đảm bảo quyền tự do kinh doanh của cá nhân, quyền tự chủ của vợ, chồng khi tham gia vào các quan hệ kinh tế, xã hội, vừa để tránh những hậu quả không tốt có thể xảy ra ảnh hưởng đến kinh tế chung của gia đình. Thứ ba, quy định này cũng góp phần bảo đảm quyền lợi của người thứ ba khi tham gia giao dịch liên quan đến tài sản của vợ, chồng. Qua đó người thứ ba có thể biết được quyền sở hữu của vợ, chồng đối với tài sản để xác định phạm vi giao dịch, mức độ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ về tài sản của vợ, chồng. Quy định về tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân là điều cần thiết, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn đời sống kinh tế, xã hội, phù hợp với ý chí, nguyện vọng vủa nhân dân. Tuy nhiên, Luật HN&GĐ năm 2000 chưa quy định cụ thể nguyên tắc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, gây khó khăn trong thực tiễn áp dụng giải quyêt các tranh chấp phát sinh. Luật cũng chưa quy định rõ về trách nhiệm của vợ, chồng đối với các tài sản được sử dụng vào mục đích chung của gia đình sau khi hai bên đã chia tài sản chung. Bên cạnh đó, Luật HN&GĐ năm 2000 quy định các trường hợp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân mà không có lý do chính đáng thì bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu. Tuy nhiên, luật lại chưa đề cập ai là người có quyền yêu cầu Tòa án hủy bỏ thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân trong trường hợp thỏa thuận đó vi phạm các điều kiện quy định tại Điều 29 Luật HN&GĐ hoặc gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống gia đình, đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên hoặc con đã thành niên mất năng lực hanh vi dân sự, không có khả năng lao động, không có thu nhập, không có tài sản để tự nuôi mình. Khi chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân hoặc khôi phục chế độ tài sản chung của vợ, chồng pháp luật lại không quy định cần phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận, vì vấn đề này liên quan trực tiếp đến quyền lợi của những người khác khi kí kết các hợp đồng liên quan đến tài sản vợ, chồng và lợi ích của gia đình.Tất cả những vấn đề này cần được quy định trong luật. Mặt khác, chúng ta thấy ở Khoản 1 Điều 29 này quy định về điều kiện chia tài sản chung đó là vợ, chồng chỉ có thể chia tài sản chung khi có lý do chính đáng như đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng…tuy nhiên khi vợ, chồng tự thỏa thuận chia tài sản chung thì không có cơ chế nào được Luật nêu ra để kiểm soát được lý do chia tài sản chung của vợ, chồng là có chính đáng hay không, mà chỉ có quy định về sự vô hiệu của bản thỏa thuận chia khi nó được lập ra nhằm để trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ về tài sản. Về cách thức chia, khác với cách thức chia tài sản chung trong trường hợp vợ, chồng hoàn toàn tự do thỏa thuận về cách thức chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thậm chí không có quy định nào không cho phép vợ, chồng chia toàn bộ tài sản chung cho một người, hay chỉ chia một phần tài sản riêng còn khối tài sản còn lại vẫn là tài sản chung. Việc cho phép vợ, chồng tự thỏa thuận về cách thức chia có thể tạo kẻ hỡ cho việc lách luật trốn thuế hoặc dẫn đến việc vợ, chồng chia toàn bộ tài sản khiến cho không bất cứ tài sản chung nào trong khi tiêu dùng cho gia đình lại là tiêu dùng chung. Ví dụ: Chị A và anh B là vợ, chồng, có tài sản chung là ngôi nhà, khi bán cho em trai của em rể của A thì vợ, chồng sẽ phải nộp thuế thu nhập cá nhân, nhưng nếu A và B thỏa thuận chia tài sản riêng rồi A tặng cho em gái, em gái lại chia cho em rể, em rể lại tặng cho em trai của em rể thì sẽ không ai phải đóng thuế thu nhập cá nhân. Về hậu quả pháp lí của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân (là sự thay đổi của các khối tài sản), thì theo quy định của Điều 30 Luật HN&GĐ thì hậu quả của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là “hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thuộc sỡ hữu riêng của mỗi người, phần còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ, chồng”. Như vậy, quyền sỡ hữu tài sản riêng của vợ, chồng được mở rộng phạm vi đó là hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng sẽ thuộc sỡ hữu riêng của vợ, chồng , phần tài sản chung chưa chia vẫn thuộc sỡ hữu chung của vợ, chồng. Nghị định 70 hướng dẫn chi tiết Luật HN&GĐ đã quy định thêm về hậu quả chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân như sau: “Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng trừ trường hợp vợ, chồng có thỏa thuận khác” (Khoản 2 Điều 8 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP, 3/10/2001). Tuy nhiên, quy định trên thực tế đã làm thay đổi chế độ tài sản vợ, chồng. Theo quy định này thì chỉ có những tài sản được tặng cho, thừa kế chung, tài sản vợ, chồng thỏa thuận là tài sản chung và những hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản chung mới thuộc khối tài sản chung, còn những tài sản là thu nhập hợp pháp của vợ, chồng như lương, tài sản mà một người tạo ra trong thời kỳ hôn nhân thuộc khối tài sản riêng của vợ, chồng…do đó nếu như vợ, chồng quyết định chia tất cả tài sản chung thì khối tài sản chung sẽ gần như không còn có thể tồn tại nếu không có tài sản thừa kế chung, tặng cho chung hay vợ, chồng không khôi phục lại chế độ tài sản chung. Có ý kiến cho rằng quy định này thực chất đã là chấp nhận chế độ biệt sản của vợ, chồng (TS. Nguyên Văn Cừ, Chế độ tài sản vợ, chồng theo pháp Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, tr.253), có ý kiến cho rằng quy định này là trái luật và phải bị vô hiệu hóa (TS. Nguyễn Ngọc Điện, Một số vấn đề lý luận và các phương pháp phân tích luật viết, NXB Tư pháp 2006, tr.123).  Việc pháp luật HN&GĐ chỉ công nhận vợ, c
Luận văn liên quan