Việt Bắc là một vùng phía Bắc Hà Nội thời kháng chiến chống Pháp (1945-1954) bao trùm nhiều tỉnh ở Bắc Bộ. Ngày nay nó thường được hiểu là khu vực gồm 6 tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên hay còn được gọi tắt là Cao - Bắc - Lạng - Thái - Tuyên - Hà.
Việt Bắc được gọi một cách văn hóa là Thủ đô kháng chiến, bởi đây là nơi trú đóng của đầu não Đảng Cộng sản Việt Nam thời trước khi khởi nghĩa năm 1945, và là nơi trú đóng của đầu não chính phủ Việt Minh trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954).
Việt Bắc là nơi có địa thế hiểm trở, hạn chế cả về cơ động, tầm quan sát lẫn khả năng triển khai lực lượng lớn và phương tiện chiến đấu hiện đại, khi tiến công tiến hành tác chiến lớn thì phải theo mùa.
Do đó đây là khu vực lãnh thổ có đầy đủ các yếu tố “địa lợi, nhân hòa”, nhất là có cơ sở vững chắc về quân sự và chính trị, cơ sở quần chúng cách mạng vững chắc, đảm bảo an toàn cho cán bộ và cơ quan lãnh đạo cách mạng hoạt động thuận lợi. Mặt khác, đây còn là nơi cung cấp về sức mạnh vật chất, quân sự, nguồn cổ vũ về tinh thần, chính trị trong cách mạng và kháng chiến. Vì vậy, trong cuộc chiến chống pháp, Việt Bắc đã trở thành một căn cứ địa chính của cả nước (trong Cách mạng tháng Tám và kháng chiến chống Pháp).
Cũng trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954), An toàn khu (ATK) cũng đã được xây dựng sâu trong căn cứ địa Việt Bắc (An toàn khu Trung ương). An toàn khu không chỉ là nơi bảo vệ cơ quan lãnh đạo, lực lượng cách mạng, kháng chiến mà còn là nơi thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Thấy được vị trí, vai trò quan trọng của căn cứ địa Việt Bắc Chính phủ Ramađiê đã quyết định cử Bôlae sang làm Cao ủy Pháp ở Đông Dương, thay Đácgiăngliơ (3-1947). Bôlae vạch ra kế hoạch tiến công Việt Bắc, nhằm đánh phá căn cứ địa, tiêu diệt đầu não kháng chiến và quân chủ lực, triệt đường liên lạc quốc tế của ta.
35 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 11603 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chiến dịch việt bắc thu - Đông năm 1947, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TP Hồ Chí Minh tháng 3 năm 2013
Đề tài:
CHIẾN DỊCH VIỆT BẮC THU-ĐÔNG NĂM 1947
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH
KHOA LỊCH SỬ
-----&-----
GVHD: Giảng viên Lê Văn Đạt
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Trang
MSSV: K37.602.104
Lớp: K37_Sử B
Môn: Lịch sử Việt Nam hiện đại học phần 1
MỤC LỤC
Mở đầu 3
I. Âm mưu, kế hoạch tấn công Việt Bắc của thực dân Pháp 5
II. Chủ trương, kế hoạch của ta 8
III. Diễn biến cuộc tấn công của địch và sự chiến đấu của quân dân ta trong chiến dịch Việt Bắc thu-đông 1947 10
1. Thực dân Pháp tiến công căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc 10
2. Quân dân ta chiến đấu chống đấu chống cuộc tiến công Việt Bắc của địch 12
* Giai đoạn 1: từ ngày 7-10-1947 đến ngày 20-11-1947 12
a) Cuộc chiến đấu của quân và dân ta trên mặt trận sông Lô-Chiêm Hóa 13
b) Cuộc chiến đấu của quân và dân ta trên mặt trận Đường số 4 15
c) Cuộc chiến đấu của quân và dân ta trên mặt trận Đường số 3 17
* Giai đoạn 2: từ ngày 21-11-1947 đến ngày 20-12-1947 18
IV. Kết quả, ý nghĩa, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm của chiến dịch Việt Bắc thu-đông 1947 20
1. Kết quả của chiến dịch Việt Bắc thu-đông 1947 20
2. Ý nghĩa của chiến dịch Việt Bắc thu-đông 1947 20
3. Nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm của chiến dịch Việt Bắc thu-đông 1947 21
V. Vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong chiến dịch Việt Bắc thu-đông 1947. 23
Phụ lục 27
Tài liệu tham khảo 35
MỞ ĐẦU
Việt Bắc là một vùng phía Bắc Hà Nội thời kháng chiến chống Pháp (1945-1954) bao trùm nhiều tỉnh ở Bắc Bộ. Ngày nay nó thường được hiểu là khu vực gồm 6 tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên hay còn được gọi tắt là Cao - Bắc - Lạng - Thái - Tuyên - Hà.
Việt Bắc được gọi một cách văn hóa là Thủ đô kháng chiến, bởi đây là nơi trú đóng của đầu não Đảng Cộng sản Việt Nam thời trước khi khởi nghĩa năm 1945, và là nơi trú đóng của đầu não chính phủ Việt Minh trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954).
Việt Bắc là nơi có địa thế hiểm trở, hạn chế cả về cơ động, tầm quan sát lẫn khả năng triển khai lực lượng lớn và phương tiện chiến đấu hiện đại, khi tiến công tiến hành tác chiến lớn thì phải theo mùa.
Do đó đây là khu vực lãnh thổ có đầy đủ các yếu tố “địa lợi, nhân hòa”, nhất là có cơ sở vững chắc về quân sự và chính trị, cơ sở quần chúng cách mạng vững chắc, đảm bảo an toàn cho cán bộ và cơ quan lãnh đạo cách mạng hoạt động thuận lợi. Mặt khác, đây còn là nơi cung cấp về sức mạnh vật chất, quân sự, nguồn cổ vũ về tinh thần, chính trị trong cách mạng và kháng chiến. Vì vậy, trong cuộc chiến chống pháp, Việt Bắc đã trở thành một căn cứ địa chính của cả nước (trong Cách mạng tháng Tám và kháng chiến chống Pháp).
Cũng trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954), An toàn khu (ATK) cũng đã được xây dựng sâu trong căn cứ địa Việt Bắc (An toàn khu Trung ương). An toàn khu không chỉ là nơi bảo vệ cơ quan lãnh đạo, lực lượng cách mạng, kháng chiến mà còn là nơi thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Thấy được vị trí, vai trò quan trọng của căn cứ địa Việt Bắc Chính phủ Ramađiê đã quyết định cử Bôlae sang làm Cao ủy Pháp ở Đông Dương, thay Đácgiăngliơ (3-1947). Bôlae vạch ra kế hoạch tiến công Việt Bắc, nhằm đánh phá căn cứ địa, tiêu diệt đầu não kháng chiến và quân chủ lực, triệt đường liên lạc quốc tế của ta.
Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947, hay Chiến dịch Léa theo cách gọi của người Pháp, là một chiến dịch quân sự do quân đội Pháp thực hiện tại Việt Nam trong Chiến tranh Đông Dương. Chiến dịch này được xem là chiến thắng lớn đầu tiên của phe Việt Minh trong cuộc chiến, làm chiến lược "đánh nhanh thắng nhanh" của quân Pháp bị phá sản hoàn toàn. Nó cũng đã ghi dấu thất bại của Pháp trong việc tiêu diệt đầu não kháng chiến và quân chủ lực của Việt Minh ta.
I. Âm mưu, kế hoạch tấn công Việt Bắc của thực dân Pháp
Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, với danh nghĩa Đồng minh vào giải giáp quân Nhật, quân đội Anh đã vào chiếm đóng và giúp quân Pháp quay trở lại xâm lược Việt Nam. Vụ nổ súng gây hấn ở Sài Gòn ngày 23 tháng 9 năm 1945 là màn mở đầu của cuộc chiến tranh xâm lược lại nước Việt Nam do thực dân Pháp tiến hành.
Cùng thời gian đó, 18 vạn quân Tưởng tràn vào miền Bắc, kéo theo bè lũ tay sai phản động hòng bóp chết nền Dân chủ Cộng hòa trẻ tuổi của chúng ta. Trước tình hình nguy ngập của vận nước, Đảng ra chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc" (25-11-1945) vạch ra kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng.
Nhưng trong tình hình phức tạp, một lúc phải chống chọi với nhiều kẻ thù bên ngoài và bên trong, Đảng đề ra sách lược đấu tranh sáng suốt nhằm bảo toàn lực lượng, tranh thủ thời gian để chuẩn bị tích cực cho cuộc chiến đấu sắp tới. Thực hiện sách lược "Hòa để tiến", Hồ Chủ Tịch đã ký với Pháp bản Hiệp định sơ bộ (6-3-1946) đuổi Tưởng về nước. Sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí với đại diện Chính phủ Pháp một bản Tạm ước (14-9-1946) để tiếp tục tranh thủ thời gian chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Pháp chắc chắn sẽ nổ ra.
Đảng nhận định không sớm thì muộn Pháp sẽ đánh ta và ta nhất định phải đánh Pháp. Cho nên mọi việc chuẩn bị phải được tiến hành tích cực, kịp thời và chu đáo. Đầu tháng 11-1946, Hồ Chủ tịch viết bài "Công việc khẩn cấp bây giờ" đặt nền móng tư tưởng chỉ đạo đường lối kháng chiến trong cả nước.
Từ cuối tháng 11, giặc Pháp càng lộ rõ thái độ hiếu chiến. Đầu tháng 12, giặc Pháp càng khiêu khích trắng trợn. Do đó tối ngày 19-12-1946, thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Hưởng ứng lời kêu gọi đó, quân và dân ta đã đứng lên chống Pháp. Cuộc chiến đấu anh dũng của quân dân ta đã giam chân địch, ngăn chặn bước tiến của chúng, tạo thời cơ thuận lợi cho việc chuẩn bị kháng chiến lâu dài.
Sau 3 tháng kháng chiến lan rộng ra toàn quốc, Pháp bắt đầu lúng túng trong chiến lược “Đánh nhanh, thắng nhanh” của mình, gặp nhiều khó khăn trên nhiều lĩnh vực khác nhau: kinh tế, chính trị, xã hội, do đó mà chúng muốn nhanh chóng kết thúc chiến tranh.
Sau khi có thêm viện binh chúng đã mở rộng vùng chiếm đóng ở đồng bằng Bắc Bộ, vùng Tây Bắc và duyên hải Đông Bắc.
Tháng 3-1947, Chính phủ Ramađiê đã quyết định cử Bôlae (Bollaert) sang làm Cao ủy Pháp ở Đông Dương, thay Đácgiăngliơ (D’Argenlieu) để thực hiện âm mưu mới của Pháp là tập hợp lực lượng dựng lên một chính quyền bù nhìn, đẩy mạnh hoạt động quân sự nhằm tiêu diệt quân chủ lực của ta, nhanh chóng kết thúc chiến tranh. Bôlae tuyên bố không công nhận Việt Nam độc lập thống nhất, không công nhận Chính phủ Hồ Chí Minh là đại diện chân chính của nhân dân Việt Nam.
Tướng Salan được Chính phủ Pháp cử sang Bắc kỳ thay thế đại tá Dèbes trong chức vụ Chỉ huy quân lực Pháp ở Bắc Đông Dương. Tướng Valluy vẫn giữ chức Chỉ huy tối cao quân đội viễn chinh thay thế Leclerc từ hồi tháng 6-1946.
Tướng Valuy (Valluy)–Tổng tư lệnh quân đội Pháp ở Đông Dương đã giao cho tướng Salăng (Salan)–Tư lệnh quân đội Pháp ở Bắc Đông Dương gấp rút chuẩn bị “Kế hoạch tấn công Việt Bắc”. Valuy và Salăng nghiên cứu một cuộc hành quân đại quy mô vào vùng Việt Bắc mục đích phá vỡ các tổ chức quân sự dân sự của Việt minh, lùng bắt chính phủ Hồ Chí Minh và đặt các căn cứ kiểm soát vùng biên giới Hoa - Việt.
Sau khi chiếm vùng đồng bằng Bắc Bộ và các đô thị lớn tại miền Bắc, theo chiến lược "Đánh nhanh thắng nhanh", quân Pháp mở cuộc tấn công mới lên chiến khu Việt Bắc nhằm tiêu diệt đầu não kháng chiến của Việt Minh đang đóng tại đây, hoàn tất việc tái chiếm Đông Dương. Kế hoạch tiến công lên Việt Bắc của quân đội Pháp, do tướng Salăng vạch ra, được Chính phủ Pháp phê chuẩn tháng 7-1947 nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt quân chủ lực của ta, phá hoại kho tàng, xưởng máy, bao vây và khóa chặt biên giới, cố giành một thắng lợi về quân sự để tập hợp lực lượng phản động lập chính phủ bù nhìn tay sai và hi vọng kết thúc chiến tranh.
Kế hoạch tấn công dự kiến chia làm hai bước, bước một mang mật danh Lêa (Léa), mục tiêu đánh chiếm là khu tam giác Bắc Cạn – Chợ Đồn – Chợ Mới. Bước tiếp theo mang mật danh Xanhtuy, tức là “Siết chặt vành đai”, quân Pháp sẽ tập trung lực lượng càn quét khu tam giác Bắc Cạn - Chợ Chu – Chợ Mới, lấy vùng Chợ Chu làm mục tiêu trọng điểm.
Lực lượng Pháp tham gia tiến công trên 15 nghìn quân, bao gồm:
Năm trung đoàn bộ binh: Trung đoàn Ma-rốc số 6 (6eRTM), trung đoàn bộ binh thuộc địa Ma-rốc (RICM), trung đoàn bộ binh thuộc địa số 4 (4e - RIC), trung đoàn bộ binh Lê dương số 3 (3e REI) và một trung đoàn do Cô-xtơ (Coste) chỉ huy.
Ba tiểu đoàn dù, hai tiểu đoàn pháo binh, hai tiểu đoàn công binh, ba đại đội cơ giới.
Hai phi đội với 40 máy bay, ba thuỷ đội xung kích với 40 tàu, xuồng.
II. Chủ trương, kế hoạch của ta
Từ đầu mùa thu 1947, việc chuẩn bị đối phó với một cuộc tiến công lớn có thể xảy ra bất cứ lúc nào đã được xúc tiến.
Trước những thái độ ngang ngược của thực dân Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã chỉ thị “Mọi lực lượng của dân tộc ta phải động viên vào việc chống mưu mô “dùng người Việt trị người Việt” của thực dân Pháp và sửa soạn đối phó những cuộc tấn công lớn của địch trong những tháng tới”. Khẩu hiệu của dân tộc ta lúc này là “Tất cả cho mặt trận, tất cả của chiến thắng”. Bộ Tổng chỉ huy quân đội ta dự đoán: Bắc Bộ sẽ là chiến trường chính, nếu địch mạo hiểm thì chúng sẽ đánh Việt Bắc. Chiến lược của địch là “đánh nhanh, thắng nhanh”, nhằm mau chóng kết thúc chiến tranh.
Ngày 15-9-1947, Hội nghị quân sự lần thứ tư và sau đó mười ngày, Hội nghị quân sự lần thứ 5 được triệu tập liên tiếp để nhận định âm mưu địch, phán đoán hướng tiến công của chúng và đề ra chủ trương, kế hoạch đối phó của ta.
Ngày 15-10-1947, Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Phải phá cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp”. Chỉ thị được công bố, bản chỉ thị chỉ rõ: “Địch yếu phải mạo hiểm”… “Cuộc tấn công này chỉ ào ạt lúc đầu”. Về cách đánh, ta sẽ dùng lực lượng nhỏ đánh địch vận động trên bộ, bẻ gãy từng gọng kìm của địch.
Lực lượng quân đội của ta trên toàn quốc thời gian này có 105.990 người (Bắc Bộ có 45.802 người), biên chế thành 20 trung đoàn, có hai trung đoàn 147 và 165 của Bộ và nhiều tiểu đoàn độc lập của khu và của Bộ. Trang bị thiếu thốn và không thống nhất, có gì dùng nấy. Một tiểu đoàn thường chỉ được trang bị tương đương với 1 đại đội của Pháp, với 2 đại liên, 1-2 súng cối 60mm, tám trung liên, 140 đến 160 súng trường đủ các kiểu (Nhật, Nga, Pháp). Chỉ có một số tiểu đoàn của Bộ là có pháo 20mm, trọng liên 13,2 mm, 12,7 mm và súng cối 81mm.
Bộ đội và cán bộ chỉ huy các cấp chưa được huấn luyện thành thục về kỹ thuật, chiến thuật. Trình độ và khả năng chiến đấu giữa các đơn vị không đồng đều. Trừ Trung đoàn Thủ đô và Trung đoàn Lạng Sơn đã được thử thách qua chiến đấu, phần lớn các đơn vị còn lại chưa hề qua chiến đấu, trình độ kỹ chiến thuật của bộ đội, trình độ tổ chức chỉ huy của cán bộ, tình hình trang bị không cho phép tiến hành những trận đánh lớn. Các binh chủng pháo binh, công binh chưa được tổ chức thành đơn vị. Phương tiện thông tin liên lạc và vận tải thiếu nhiều, chủ yếu là liên lạc chạy bộ. Chỉ có Bộ, Khu và trung đoàn là có vô tuyến điện, từ tiểu đoàn trở xuống liên lạc bằng chạy chân và tín hiệu thủ công. Cung cấp, tiếp tế hậu cần rất khó khăn, chủ yếu dựa vào chính quyền và nhân dân địa phương. Điểm mạnh duy nhất là tinh thần chiến đấu, khả năng chịu đựng gian khổ hy sinh của bộ đội và sự hỗ trợ, đùm bọc của nhân dân địa phương.
Riêng trên địa bàn chiến dịch, Việt Minh có 7 trung đoàn bộ binh, tổng cộng 18 tiểu đoàn chủ lực (trong đó có hai tiểu đoàn của Bộ), 30 đại đội độc lập, 4.228 dân quân du kích tập trung; ngoài ra còn có lực lượng tự vệ của các thị xã, thị trấn, công xưởng trên toàn Quân khu Việt Bắc. Pháo binh chỉ có tất cả là bốn khẩu (ba khẩu sơn pháo 75mm, một khẩu 70mm). Phòng không có hai pháo 20mm, hai khẩu 13,2 mm và sáu khẩu 12,7 mm.
Chiến dịch do Bộ Tổng chỉ huy trực tiếp chỉ huy, Võ Nguyên Giáp làm chỉ huy trưởng. Sở chỉ huy cơ bản ở Yên Thông; đến chiều 20 tháng 10 năm 1947, chuyển sang Tràng Xá (Thái Nguyên). Giai đoạn 2 chuyển về vùng Lục Rã, Quảng Nạp.
III. Diễn biến cuộc tấn công của địch và sự chiến đấu của quân dân ta trong chiến dịch Việt Bắc thu-đông 1947
1. Thực dân Pháp tiến công căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc
Theo kế hoạch tiến công lên Việt Bắc do tướng Salăng vạch ra, Pháp huy động 12.000 quân cùng với hầu hết máy bay ở Đông Dương do tướng Valuy chỉ huy, mở một cuộc hành quân tiến công Việt Bắc mang mật danh Lêa từ ngày 7-10-1947.
Rạng sáng ngày 7-10-1947, binh đoàn quân dù do Sôvannhắc chỉ huy đổ quân xuống chiếm thị xã Bắc Kạn, thị trấn Chợ Mới, Chợ Đồn. Cùng ngày, binh đoàn bộ binh do Bôphơrê (Beaufré) chỉ huy từ Lạng Sơn, ngược Đường số 4 lên Na Sầm, Thất Khê, đánh lên Cao Bằng rồi vòng xuống Bắc Kạn, theo Đường số 3 bao vây Việt Bắc ở phía Đông và phía Bắc.
Va-luy đã lầm lẫn lớn khi cho rằng thị xã Bắc Kạn là “Thủ đô mới” của Việt Minh. Va-luy không hề biết rằng, trong suốt chiến tranh, không khi nào có cơ quan Trung ương Việt Minh nào ở tại một thị xã, thị trấn, mà tất cả đã chia thành những bộ phận nhỏ, thường xuyên di chuyển, được sự che chở của nhân dân, nếu một bộ phận bị phá thì vẫn có những bộ phận khác thay thế.
Khi quân Pháp nhảy dù tập hậu, lực lượng Việt Minh ở thị xã Bắc Cạn chỉ có một bộ phận của tiểu đoàn 49, Trường võ bị Trần Quốc Tuấn lúc này cũng chỉ có một tiểu đoàn tân binh. Hai đơn vị nhỏ này chủ yếu nổ súng để bảo vệ cho nhân dân và một số cơ quan đóng ở đây tản cư rút vào rừng núi an toàn. Pháp phá được xưởng in tiền và công binh xưởng, một số kho tàng và thu được 10 triệu bạc Việt Nam của Ty Ngân khố, nhưng còn quá xa so với mục tiêu “phá huỷ tiềm năng chiến tranh của Việt Minh” mà Pháp đề ra.
Salăng coi cuộc hành binh Lêa ngày 7-10-1947 là một đòn quyết định “đánh thẳng vào tim kẻ thù”. Ông ta ngồi trên máy bay trực tiếp thị sát cuộc nhảy dù xuống thị xã Bắc Cạn. Lúc 11 giờ 35 phút, Sôvanhắc (Sauvagnac) từ mặt đất báo cáo qua vô tuyến điện: “Ông Hồ Chí Minh bị bắt đã yêu cầu chấm dứt chiến tranh”. Salăng vội bay về Hà Nội báo tin mừng với Sài Gòn. Cao uỷ Bôlae và quyền tổng chỉ huy Battet bay ngay ra Hà Nội. Nhưng ít giờ sau, Salăng đã biết mình lầm, đành phải xin lỗi. Hai quan chức trên quay về Sài Gòn sau khi đã trách mắng Salăng nặng nề... Thực chất hôm ấy, lính dù bắt được một cụ già chững chạc, nói tiếng Pháp yêu cầu chấm dứt chiến tranh xâm lược nên tưởng lầm. Đó là cụ Nguyễn Văn Tố, Trưởng ban Thường trực Quốc hội. Lúc biết không phải là Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân Pháp đã bắn chết khi cụ Tố tìm cách chạy trốn.
Ngày 9-10-1947, một binh đoàn hỗn hợp gồm bộ binh và lính thủy đánh bộ do Commuynan (Communal) chỉ huy, từ Hà Nội ngược sông Hồng và sông Lô lên Tuyên Quang, đến Chiêm Hóa, đánh vào Đài Thị, bao vây Việt Bắc ở phía Tây.
2. Quân dân ta chiến đấu chống đấu chống cuộc tiến công Việt Bắc của địch
{ Giai đoạn 1: từ ngày 7-10-1947 đến ngày 20-11-1947
Từ ngày 8 tháng 10, các đại đội độc lập cùng quân dân du kích liên tiếp tập kích, quấy rối các vị trí Chợ Đồn, Ngân Sơn, Chợ Rã, diệt hai trung đội Pháp. Đại đội bảo vệ 15 (đơn vị tiền thân của Bộ tư lệnh Cảnh vệ-Bộ Nội vụ và Lữ đoàn cận vệ 144-Bộ Quốc phòng sau này) bảo vệ Trung ương Đảng, Chính phủ và các cơ quan Trung ương khẩn trương sơ tán đến nơi an toàn.
Ngày 9 tháng 10, khẩu đội 12,7 mm của đại đội 675 trung đoàn 74 bố trí ở đồi Thiên Văn, thị xã Cao Bằng bắn rơi chiếc máy bay vận tải Junker Ju 52 chở sĩ quan tham mưu chiến dịch Pháp đi thị sát chiến trường, 12 sĩ quan tham mưu, trong đó có Lambert, đại tá, phó tham mưu trưởng quân Pháp ở Đông Dương thiệt mạng. Việt Minh thu được bản kế hoạch tiến công Việt Bắc. Chiến sĩ liên lạc Nguyễn Danh Lộc của trung đoàn đã chạy bộ, vượt rừng, mang “bản kế hoạch tiến công Việt Bắc” về cho Bộ Tổng chỉ huy.
Ngày 13 tháng 10, Bộ Tổng chỉ huy đã khẩn trương điều chỉnh, tổ chức lại lực lượng. Lực lượng gồm các tiểu đoàn chủ lực của Bộ và khu.
Ngày 15-10-1947, Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Phải phá cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp”. Kết thúc cuộc họp, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Tình hình cực kỳ rối ren về chính trị ở Pháp và phong trào đấu tranh ở các nước thuộc địa đã dẫn Pháp đến chỗ muốn sớm kết thúc chiến tranh Đông Dương. Chúng chỉ tiến công ồ ạt lúc đầu. Nếu ta thực hiện được đánh địch khắp nơi, buộc chúng dàn mỏng lực lượng đối phó, chúng sẽ thất bại. Ta giữ gìn được chủ lực qua mùa đông này là coi như thắng lợi. Nếu chuyến này không thắng nhanh để kết thúc chiến tranh thì cục diện sẽ đổi mới có lợi cho ta”.
Chỉ thị nêu rõ: Ta cần phải giam chân địch tại mấy căn cứ chúng vừa chiếm, bao vây những căn cứ đó… Chặt đứt giao thông liên lạc giữa các cứ điểm của địch, không cho chúng tiếp ứng và tiếp tế… Phải giữ gìn lực lượng, nhưng đồng thời cũng phải nhằm những chỗ yếu của địch đánh những trận vang dội, những trận tiêu diệt…
Nhiệm vụ của quân và dân Việt Bắc và cả nước là “làm cho địch thiệt hại nặng để không gượng lại được sau chiến dịch mùa đông này”… “bắt địch chuyển sang thế thủ”.
Cùng ngày 15, Bộ Tổng chỉ huy ra Huấn lệnh ĐB/101 nêu những nguyên tắc mới về tổ chức bộ đội và bố trí lực lượng, về nhiệm vụ của các đại đội độc lập và tiểu đoàn tập trung.
Cũng trong ngày 15, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi quân và dân Việt Bắc ra sức đánh bại cuộc hành binh của địch, quân dân cả nước tích cực đánh địch để phối hợp với Việt Nam. Bác Hồ viết: “Địch hội quân ở Bắc Kạn tạo thành cái ô bọc lấy Việt Bắc, rồi cụp ô xuống, dưới đánh lên, trên đánh xuống, phá cho được cơ quan đầu não của kháng chiến… Chúng mạnh ở hai gọng kìm, gọng kìm mà gãy, thì cái ô cụp xuống sẽ thành ô rách và cuộc tiến công thất bại”.
Nghiên cứu thế và lực của ta và địch trên chiến trường, Bộ Tổng chỉ huy quyết định tập trung lực lượng đánh địch trên ba mặt trận: mặt trận sông Lô-Chiêm Hóa; mặt trận Đường số 4 và mặt trận Đường số 3.
Ở Mặt trận Sông Lô-Chiêm Hóa, Trung đoàn chủ lực của Khu 10 và một tiểu đoàn chủ lực của Bộ, có nhiệm vụ đánh địch trên sông Lô, đoạn từ Việt Trì đến Tuyên Quang; Trung đoàn 147 và 2 tiểu đoàn chủ lực Bộ bố trí ở phía nam đường liên tỉnh Tuyên Quang-Thái Nguyên.
Ở Mặt trận Đường số 3, Trung đoàn 121 để lại tiểu đoàn 25 làm nhiệm vụ cơ động, lực lượng còn lại phân tán thành 7 đại đội, hoạt động trên các địa bàn trọng điểm Thái Nguyên, Vĩnh Yên và Phúc Yên; đồng thời sử dụng các đại đội khác bố trí ở các huyện Đông Anh, Đa Phúc, Kim Anh, Yên Lãng, Phú Bình, Võ Nhai, Chợ Chu, Đại Từ, Đồng Hỷ. Trung đoàn 72 để lại Tiểu đoàn 25, lực lượng còn lại phân tán thành 5 đại đội bố trí ở Chợ Đồng, Chợ Rã, Ngân Sơn. Trung đoàn 165 được tăng cường Tiểu đoàn 11 bố trí ở các huyên Chợ Rã, Chợ Đồn và thị xã Bắc Kạn.
Trên Mặt trận đường số 4, Trung đoàn 74 để lại Tiểu đoàn 73 cơ động, còn lại 6 đại đội được bố trí ở các huyện Nguyên Bình, Sóc Giang, Hòa An, Quảng Nguyên, Phục Hòa, Đông Khê. Trung đoàn 11 để lại Tiểu đoàn 374 làm nhiệm vụ cơ động, hai tiểu đoàn còn lại phân thành 6 đại đội về hoạt động ở các huyện Thất Khê, Na Sầm, Đồng Đăng, Điềm He, Lộc Bình và Đồng Mỏ. Với tổng số khoảng 20 tiểu đoàn bộ binh và pháo binh tập trung triển khai lực lượng, hình thành các mặt trận trên ba hướng chiến dịch, không những ta tránh được chỗ mạnh của địch mà còn từng bước vô hiệu hóa, trước hết là hướng Tây (Sông Lô-đường số 2), tiến tới bẻ gãy từng gọng kìm, phá thế hợp vây tiến công Việt Bắc bằng hai gọng kìm của địch.
Nhận rõ chỗ yếu chí mạng của Pháp là vấn đề bảo đảm hậu cần, Bộ Tổng chỉ huy chủ trương “Đánh mạnh ở Mặt trận Sông Lô và đường 4, phá giao thông vận tải tiếp tế của địch, kết hợp chặt việc phát động nhân dân làm vườn không nhà trống, triệt nguồn tiếp tế tại chỗ của địch”.
a) Cuộc chiến đấu của quân và dân ta trên mặt trận sông Lô-Chiêm Hóa
Mặt trận sông Lô-Chiêm Hóa do Trần Tử Bình và Tạ Xuân Thu chỉ đạo. Có nhiệm vụ đánh quân thủy, bộ vận động, ngăn chặn tăng viện tiếp tế, tiến tới bẻ gãy gọng kìm của địch phía tây. Pháo binh thực hiện nghi binh, cơ động linh hoạt, bố trí sát bờ sông.
Ngày 10 tháng 10 năm 1947, trên sông Hồng