Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, hoạt động của các công ty đa quốc gia ( MNCs - Multinational Corporations hoặc MNEs – Multinational Enterprises) đang và sẽ là lực lượng chủ đạo thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá, tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội trên phạm vi quốc tế. Chúng là lực lượng chủ chốt trong truyền tải khoa học, kỹ thuật và công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế thế giới và là mẫu hình thực hiện kiểu tổ chức sản xuất hàng hoá hiện đại. Vì vậy, MNCs đang thâm nhập mạnh mẽ vào tất cả các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là những quốc gia có nền kinh tế chuyển với chiến lược hết sức phong phú và nhạy bén.
38 trang |
Chia sẻ: khactoan_hl | Lượt xem: 3762 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chiến lược thâm nhập của các công ty đa quốc gia vào các nước đang phát triển và các hình thức thủ đoạn “chuyển giá” của các công ty ĐQG ở các nước nhận đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
=========000=========
TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Đề tài: Chiến lược thâm nhập của các công ty đa quốc gia vào các nước đang phát triển và các hình thức thủ đoạn “chuyển giá” của các công ty ĐQG ở các nước nhận đầu tư
Giáo viên hướng dẫn: Ph.D Nguyễn Thị Lan
Sinh viên thực hiện – Mã SV - STT : + Đặng Thị Tình – 1211510067 - 121 (40%) + Lê Thị Ngọc Linh – 1211510036 - 75(30%)
+ Đỗ Thị Mĩ Hạnh – 1211510020 - (30%)
Lớp: Anh 2 - Kinh doanh quốc tế, K51
Hà Nội – 30.9.2013
Mục Lục
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, hoạt động của các công ty đa quốc gia ( MNCs - Multinational Corporations hoặc MNEs – Multinational Enterprises) đang và sẽ là lực lượng chủ đạo thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá, tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội trên phạm vi quốc tế. Chúng là lực lượng chủ chốt trong truyền tải khoa học, kỹ thuật và công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế thế giới và là mẫu hình thực hiện kiểu tổ chức sản xuất hàng hoá hiện đại. Vì vậy, MNCs đang thâm nhập mạnh mẽ vào tất cả các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là những quốc gia có nền kinh tế chuyển với chiến lược hết sức phong phú và nhạy bén.
Khi các quan hệ kinh tế được thiết lập đa dạng, có sự liên kết, phối hợp giữa các chủ thể kinh doanh, thì việc xác định lợi lợi ích ích kinh tế đã vượt ra ngoài phạm vi của một chủ thể riêng lẻ, mà được tính trong chung của cả tập đoàn hay nhóm liên kết. Với môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, câu hỏi làm sao để lợi ích tổng thể đạt tối ưu luôn được đặt ra với các chủ thể kinh doanh. Chuyển giá được xem là một lời giải cho bài toán lợi ích mà ở đó nhà đầu tư không cần thêm vốn hay mở rộng sản xuất. Đơn giản vì phương cách này giúp họ giảm tổng nghĩa vụ thuế. Từ đó lợi nhuận sau thuế sẽ gia tăng.
Trong xu thế mở rộng cửa chào đón các tập đoàn kinh tế quốc tế, phát huy nội lực với các công ty cha - mẹ - anh - chị - em.., thì chuyển giá sẽ là công cụ dễ được các chủ thể kinh doanh sử dụng nhằm thay đổi những nghĩa vụ thuế phải thực hiện với nhà nước. Sự mới mẻ và chứa đựng những hấp dẫn về lợi ích kinh tế của chuyển giá là điều được các nhà quản lý lưu tâm, được các chủ thể kinh doanh, người hoạch định chiến lược tài chính của doanh nghiệp lên chương trình hành động cho mình.
Hiện tượng chuyển giá không chỉ gây thiệt hại cho chính phủ nước chủ nhà do bị thất thu thuế, giảm phần lợi nhuận của bên góp vốn của nước chủ nhà do giá trị góp vốn của họ thấp mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến thương mại quốc tế. Do các quy luật của thị trường tự do, đặc biệt là quy luật cung cầu không hoạt động trong các tập đoàn đa quốc gia, nên gây ra nhiễu loạn quá trình lưu thông quốc tế. Điều này dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh. Ngoài ra chuyển giá còn tạo tiền đề cho các doanh nghiệp nước ngoài từng bước thôn tính các doanh nghiệp trong nước trong liên doanh, liên kết, tăng nhập siêu và tiềm ẩn nhiều bất ổn xã hội.
Nhận thấy sự cần thiết và tầm quan trọng của vấn đề, chúng em đã lựa chọn và quyết định tìm hiểu, phân tích đề tài “Các thủ đoạn chuyển giá của các công ty đa quốc gia”. Mục đích của đề tài này là tìm hiểu, nghiên cứu và phân tích hiện tượng chuyển giá ngày càng phổ biến trong các doanh nghiệp. Thông qua việc tìm hiểu và nghiên cứu này sẽ đề ra một số biện pháp chống chuyển giá đảm bảo ổn định phát triển kinh tế tại Việt Nam, các nước trong khu vực và trên thế giới
I, Sơ lược về các công ty đa quốc gia:
1, Nguồn gốc ra đời và khái niệm:
+ Nguồn gốc: Trong quá trình phát triển của lịch sử sự ra đời của các TNC trên thế giới gắn liền với sự ra đời và phát triển của sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa .Đó là sự phát triển cao của chế độ tư bản chủ nghĩa là sự vận động sâu sắc của các quan hệ sản xuất tbcn.Khi các mối quan hệ kinh tế vượt dần ra khỏi phạm vi quốc gia và gia nhập vào guồng máy sản xuất kinh doanh quốc tế ngày càng được phát triển.hai nhà nghiên cứu mác và ăngghen khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh đã dự đoán tích tụ và tập trung cơ bản thông qua hiệp tác giản đơn và công trường thủ công cùng với sự phân công lao động ngày càng hoàn thiện tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời những xí nghiệp tư bản chủ nghĩa có quy mô lớnvà sự cạnh tranh của những xí nghiệp này càng trở nên gay gắt .Sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp tất yếu sẽ đưa đến kết quả là các xí nghiệp nhỏ và vừa bị phá sản hoặc bị sát nhập với nhau để trở thành những xí nghiệp lớn hơn .Chế độ xí nghiệp là chế độ điển hình sinh ra trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất.Khởi đầu xí nghiệp ra đời bằng con đương công trường thủ công nhờ sự kết hợp lao động một khi lao động đã liên kết theo một hình thức nào đó sẽ tạo điều kiện cho việc sáng tạo ra máy mócvà hợp thành hệ thống sản xuất bằng máy móc chế độ xí nghiệp đã có được cơ sở vững chắc về kỹ thuật.Với chế độ tự do cạnh tranh của thị trường đã điều tiết sự phân công và trao đổi của xã hội xí nghiệp và nhà máy cũng nhanh chóng trở thành hình thức tổ chức sản xuất điển hình để tổ chức sự phân công lao động xã hội .nhờ sự phát triểnmạnh mẽ của lực lượng sản xuất chế độ xí nghiệp nhà máy đã mở rộng phạm vi lĩnh vực phân công xã hội từ nội bộ quốc gia sang địa bàn quốc tế.Và do vậy phân công lao động và trao đổi quốc tế về nguyên vật liệu bán thành phẩm và sản xuất giữa các nước ngày c14
ng phát triển.
+ Khái niệm: Công ty đa quốc gia, thường viết tắt là MNC (Multinational corporation) hoặc MNE (Multinational enterprises), là khái niệm để chỉ các công ty sản xuất hay cung cấp dịch vụ ở ít nhất hai quốc gia; có thể có ảnh hưởng lớn đến các mối quan hệ quốc tế khi chúng có những tác động kinh tế lớn đến một vài khu vực cùng với những nguồn lực tài chính dồi dào, phục vụ cho quan hệ công chúng và vận động hành lang chính trị. Công ty đa quốc gia hoạt động và có trụ sở ở nhiều nước khác nhau. (khác với Công ty quốc tế, chỉ là tên gọi chung với những công ty nước ngoài tại 1 quốc gia nào đó).
Các công ty đa quốc gia đóng một vai trò quan trọng trong quá trình toàn cầu hóa; một dạng mới của MNC đang hình thành tương ứng với quá trình toàn cầu hóa – đó là xí nghiệp liên hợp toàn cầu.
2, Quá trình phát triển và bản chất:
Tự do cạnh tranh không chỉ làm cho quá trình tích tụ và tập trung sản xuất tăng lên mà còn là nguyên nhân cho sự ra đời của nền sản xuất dựa trên máy móc và theo đó chế độ xí nghiệp tbcn xuất hiện và ngày càng hoàn thiện.Chế độ xí nghiệp ra đời thúc đẩy phân công lao động mở rộng từ nội bộ quốc gia sang địa bàn quốc tế đã làm cho tích tụ và tập trung tư bản sản xuất tăng lên cao và theo đó các tổ chức độc quyền bắt đầu xuất hiện.C.MÁC và PH.ĂNGGHEN cũng đã khẳng định rằng độc quyền sinh ra từ tự do cạnh tranh nhưng không phủ định nó.Một trong những nhân tố thúc đẩy quá trình tập trung tư bản đó là tín dụng .C.MÁC đã nói:là cơ sở chủ yếu của việc chuyển hoá dần dần những xí nghiệp tư nhân tbcn thành những công ty cổ phần tư bản chủ nghĩa chế độ tín dụng đồng thời cũng là một phương tiện để mở rộng dần các xí nghiệp hợp tác tới một phạm vi toàn quốc ít nhiều rộng lớn.Một đặc trưng nổi bật trong giai đoạn độc quyền là sự cùng tồn tại đan xen nhau giữa độc quyền quốc gia và quốc tế.Cùng với sự phát triển quan hệ quốc tế làm cho các công ty tư bản liên minh với nhau sản xuất và phân phối hàng hoá trên thị trường thế giới đã hình thành nên các công ty độc quyền quốc tế .Khi nghiên cứu sự hình thành các tổ chức độc quyền quốc tế nói chung và các tổ chức độc quyền quốc tế xuyên quốc gia nói riêng phải xuất phát từ sự tích tụvà tập trung sản xuất.Tích tụ và tập trung sản xuất đạt đến một mức độ nhất định làm cho các nhà độc quyền quốc gia vươn ra khỏi biên giới quốc gia hoạt động trên phạm vi quốc tế thực hiện phân chia thế giới về mặt kinh tế.Tập trung sản xuất có bước phát triển mới thì xuất khẩu tư bản cũng được đẩy mạnh và trở thành cơ sở kinh tế quan trọng của sự mở rộng phạm vi hoạt động quốc tế của các công ty xuyên quốc gia.Một điểm đáng chú ý trong tiến trình phát triển của các công ty xuyên quốc gia là sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế mỹ từ nửa sau của thế kỷ XIX và càng ngày càng trở thành một trung tâm sức mạnh kinh tế của thế giới.Cùng với sự phát triển của các xí nghiệp công thương hiện đại chế độ xí nghiệp của mỹ cũng đã được mở rộng sang tây âu và nhật bản.Khi phạm vi địa lý của sự phân công nội bộ xí nghiệp công thương hiện đại vượt quá biên giới quốc gia thì tnc hình thành.TNC là một cơ cấu kinh doanh quốc tế dựa trên sự kết hợp giữa quá trình sản xuất quy mô lớn của nhiều thực thể kinh doanh quốc tế và quá trình phân phối quy mô quốc tế vào trong một cơ cấu công ty đơn nhất nhằm chiếm lĩnh và khai thác thị trường quốc tế đạt hiệu quả tối ưu để thu lợi nhuận độ quyền cao.TNC được hình thành trực tiếp trên cơ sở xí nghiệp công thương hiện đại,khi các xí nghiệp công thương hiện đại hưng thịnh chúng đã bắt đầu ngay vào việc đầu tư ra nước ngoài để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hoặc sản xuất và tìm mua nguyên liệu.Từ thập kỷ 60 lại đây dưới tác động của sự bùng nổ cách mạng khoa học kỹ thuật và khoa học công nghệ tnc đã phát triển nhanh chóng.TNC đã điều chỉnh các hoạt động kinh doanh xây dựng hệ thống phân công quốc tế kết hợp liên kết theo chiều ngang và dọc trong nội bộ công tycơ cấu tổ chức toàn cầu của tnc tương ứng ra đời .Từ những điều nêu trên ta có 3 giai đoạn quá trình phát triển của các công ty xuyên quốc gia đi từ tích tụ và tập trung sản xuất hình thành các công ty công ty cổ phần các công ty kinh doanh trong ngành công thương ...Một là quá trình tích tụ và tập trung sản xuất diễn ra song song với quá trình tích tụ quyền lực kinh tế tích tụ và tập trung sản xuất tạo ra những công ty cực lớn bao gồm trong đó rất nhiều công ty và người ta cũng gọi đó là những tập đoàn với công ty mẹ đứng đầu và các công ty con.Chúng còn được gọi là các công ty nhỏ và vừa chúng phụ thuộc về tài chính kỹ thuật vào công ty mẹ.Ở một số nước tư bản chủ nghĩa số xí nghiệp nhỏ và vừa chiếm đến70_80% tổng số các xí nghiệp.sự thâu tóm các xí nghiệp nhỏ và vừa thực hiện kiểm soát tài chính kỹ thuật đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho tư bản sinh lợi.Nhưng về mặt tổ chức sản xuất hình thức này tỏ tính hiệu quả cao giảm được chi phí sản xuất tận dụng được mọi khả năng nguyên liệu phát huy tính năng động sáng tạo do đó làm tăng quy mô và tỷ suất lợi nhuận.Hai là quá trình tích tụ sản xuất cũng dẫn đến sự hình thành các tổ chức độc quyền .Độc quyền hiện đại mang nhiều dấu ấn của thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại.Hoạt động R&D cũng như chuyển giao công nghệ là thế mạnh của công ty xuyên quốc gia cùng với mạng lưới thị trường rộng khắp thế giới.ba là quá trình tích tụ sản xuất trong nông nghiệp ngày càng đẩy mạnh đưa đến việc xuất hiện các hình thức công ty liên hợp nông công nghiệp nông thương nghiệp.quá trình tích tụ sản xuất trong nông nghiệpcùng với sự tác động cảu cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại đã đưa đến hiện tượng cấu tạo hữu cơ tăng lên và giảm ý nghĩa của địa tô tuyệt đối tạo ra mối liên hệ ngày càng tăng giữa công nông nghiệp đẩy mạng xu hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu lao động cũng như trong tổng sản phẩm quốc dân.điều này cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp đã có tác động trở lại thúc đẩy nông nghiệp phát triển.và để toàn bộ nền kinh tế có thể phát triển mạnh trong cạnh tranh nền nông nghiệp cũng phải có khả năng cạnh tranh cao.qua những nhận xét trên cho thấy rằng quá trình tích tụ tư bản và tập trung sản xuất lâu dài đã dẫn đến sự hình thành các công ty xuyên quốc gia
+ Bản chất: Quá trình tích tụ và tập trung sản xuất tư bản đã dẫn đến sự biến đổi quan trọng về lượng và chất trong các mặt quan hệ sản xuất mà khâu quan trọng nhất là các quan hệ sở hữu.khi nghiên cứu về bản chất của các công ty xuyên quốc gia trên thế giới cần phải đi từ những vấn đề này.Vì đấy là bản chất đặc trưng của công ty xuyên quốc gia
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ở các nước tư bản phát triển có thể quan sát thấy nền sản xuất tbcn có sự phát triển.
3, Đặc điểm hoạt động:
Quyền sở hữu tập trung: các chi nhánh, công ty con, đại lý trên khắp thế giới đều thuộc quyền sở hữu tập trung của công ty mẹ, mặc dù chúng có những hoạt động cụ thể hằng ngày không hẳn hoàn toàn giống nhau.
Thường xuyên theo đuổi những chiến lược quản trị, điều hành và kinh doanh có tính toàn cầu. Tuy các công ty đa quốc gia có thể có nhiều chiến lược và kỹ thuật hoạt động đặc trưng để phù hợp với từng địa phương nơi nó có chi nhánh.
4, Mục đích phát triển:
+Thứ nhất, đó là nhu cầu quốc tế hóa ngành sản xuất và thị trường nhằm tránh những hạn chế thương mại, quota, thuế nhập khẩu ở các nước mua hàng, sử dụng được nguồn nguyên liệu thô, nhân công rẻ, khai thác các tìêm năng tại chỗ.
+Thứ hai, đó là nhu cầu sử dụng sức cạnh tranh và những lợi thế so sánh của nước sở tại, thực hiện việc chuyển giao các ngành công nghệ bậc cao.
+Thứ ba, tìm kiếm lợi nhuận cao hơn và phân tán rủi ro. Cũng như tránh những bất ổn do ảnh hưởng bởi chu kỳ kinh doanh khi sản xuất ở một quốc gia đơn nhất.
Ngoài ra, bảo vệ tính độc quyền đối với công nghệ hay bí quyết sản xuất ở một ngành không muốn chuyển giao cũng là lý do phải mở rộng địa phương để sản xuất. Bên cạnh đó, tối ưu hóa chi phí và mở rộng thị trường cũng là mục đích của MNC.
Hoạt động của các MNC, vì được thực hiện trong một môi trường quốc tế, nên những vấn đề như thị trường đầu vào, đầu ra, vận chuyển và phân phối, điều động vốn, thanh toán… có những rủi ro nhất định. Rủi ro thường gặp của các MNC rơi vào 2 nhóm sau:
Rủi ro trong mua và bán hàng hóa như: thuế quan, vận chuyển, bảo hiểm, chu kỳ cung cầu, chính sách vĩ mô khác…
Rủi ro trong chuyển dịch tài chính như: rủi ro khi chính sách của chính quyền địa phương thay đổi, các rủi ro về tỷ giá, lạm phát, chính sách quản lý ngoại hối, thuế ,khủng hoảng nợ…
II, Chiến lược thâm nhập của các công ti ĐQG vào các nước đang phát triển:
1, Chiến lược quốc tế ( The international Strategy):
Sản phẩm được sản xuất tại thị trường nội địa và bán ra thị trường các quốc gia khác với sự điều chỉnh tối thiểu theo yêu cầu của địa phương. Từng SBU có quyền chủ động áp dụng chiến lược này.
Chiến lược này ít chịu sức ép giảm chi phí và sức ép của yêu cầu địa phương (vì hoạt động sản xuất chủ yếu diễn ra trong nước). Nhưng nó nhạy cảm cao đối với các rủi ro về tỷ giá và rủi ro về chính trị
Đặc trưng:
Khai thác lợi thế so sánh, vị trí trong nước để biến thành lợi thế cạnh tranh
Đi vào những thị trường thiếu kĩ năng của MNC. Giá trị được tạo ra bằng sự chuyển đưa những cốt lõi cạnh tranh từ chính quốc ra nước ngoài – nơi mà đối thủ cạnh tranh không có khả năng phát triển, đáp ứng, duy trì
Thường theo một kiểu mẫu giống nhau khi mở rộng thị trường nước ngoài
Tập trung hóa những chức năng phát triển sản phẩm như R&D tại chính quốc, sản xuất sản phẩm theo chuwnr mực nhu cầu thị trường nội địa.
Thiết lập các bộ phận sản xuất, marketing tại những khu vực, quốc gia trọng yếu, nơi họ kinh doanh quốc tế
Trụ sở chính kiểm soát chặt chẽ những chiến lược mark và sản phẩm, sự thích ứng địa phương thực hiện giới hạn.
Hoạt động quốc tế xếp thứ 2 sau thị trường tại chính quốc
Hạn chế: có thể bỏ sót cơ hội tại thị trường địa phương
2, Chiến lược xuyên quốc gia ( The Transnational Strategy )
Là chiến lược mà MNC tìm cách đạt hiệu quả toàn cầu và đáp ứng địa phương, có chia sẻ sứ mệnh chung của MNC nhưng có những hoạt động thay đổi theo yêu cầu của địa phương ( chuẩn hóa nơi có thể , thích ứng nơi bắt buộc )
Chọn được một địa điểm tối ưu không thể đảm bảo chắc rằng chất lượng và chi phí cho các yếu tố đầu vào ở đó cũng sẽ tối ưu. Chuyển giao kinh nghiệm có thể là một nguồn lực cốt lõi của lợi thế cạnh tranh, nhưng kinh nghiệm không thể tự động được chuyển giao.
Đặc trưng:
Lợi thế cạnh tranh có thể phát triển ở bất kì đơn vị hoạt động nào của MNC
Cố gắng đạt chi phí thấp dựa trên kinh tế vùng ,tính kinh tế của quy mô, học tập hiệu quả cũng như tạo sản phẩm khác biệt cho khách hang ở những khu vực khác nhau, khuyến khích mở cửa ở những nơi phát triển kĩ năng hoạt động trong hoạt động toàn cầu
Dòng sản phẩm và kĩ năng có thể chuyển đưa giữa các đơn vị trong MNC, tập trung thúc đẩy phát triển các kĩ năng tại các cơ sở học tập toàn cầu
Giá trị tạo ra bằng sự đổi mới củng cố và trao đổi ý tưởng ,sản phẩm và quy trình
Hạn chế :
Thực hiện chiến lược này có nhiều khó khăn vì đáp ứng địa phương làm tăng chi phí.
Cần tránh 2 khuynh hướng: tập trung hoạt động của công ty quá lớn vào một vị trí trung tâm, hoặc vì muốn tăng mức độ thích nghi theo địa phương mà phân tán hoạt động của công ty trên quá nhiều địa điểm khác nhau.
3, Chiến lược toàn cầu ( The Global Strategy):
MNC mở rộng thị trường nước ngoài dựa trên sự chuẩn hóa và chi phí có tính cạnh tranh; giá trị được tạo ra dựa trên việc thiết kế sản phẩm cho thị trường toàn cầu và sản xuất, marketing hiệu quả nhất.
Quy mô sản xuất, phân phối sản phẩm được nâng cao, thuận lợi cho việc đầu tư phát triển và giảm chi phí rất tích cực; nhưng khó đáp ứng nhu cầu địa phương.
Đặc trưng:
Liên kết SBU ở nhiều nước để chia sẻ nguồn tài nguyên giá rẻ, nhấn mạnh đến vấn đề đảm bảo qui mô lợi suất kinh tế.
Chuẩn hóa sản phẩm toàn cầu để tối đa lợi nhuận vì khai thác tính quy mô, học tập kinh tế vùng (vị trí chiến lược).
Không cố gắng đáp ứng địa phương.
Thích hợp cho sản phẩm công nghiệp.
Mục tiêu chiến lược là theo đuổi chiến lược chi phí thấp trên phạm vi toàn cầu để hỗ trợ “ chiến lược giá công kích ” (aggressive pricing) trên thế giới.
Phân tán vài hoạt động chủ yếu và hỗ trợ như sản xuất ,marketing ,R&D ở vài vị trí thuận lợi nhất trên phạm vi toàn cầu (outsource).
Quyết định tập trung hóa tại trụ sở chính.
Hạn chế: Không phù hợp tại những thị trường cần sự thích ứng cao.
4, Chiến lược đa nội địa (The multi-domestic Strategy):
Những quyết định chiến lược và hoạt động phân chia theo đơn vị kinh doanh từng quốc gia. Chiến lược này có cơ hội khách hàng hóa cao nhưng hạn chế khai thác quy mô kinh tế, học tập và phối hợp thông tin
Đặc trưng:
Tập trung sự cạnh tranh tại từng thị trường
Thu lợi bằng việc khách hàng hóa sản phẩm đáp ứng yêu cầu thị hiếu của những thị trường quốc gia khác nhau, dẫn đến gia tăng giá trị sản phẩm tại thi trường quốc gia địa phương và đẩy giá sản phẩm lên cao
Mức độ phân quyền cho địa phương cao (gần gũi về vị trí và văn hóa )
Giá trị được tạo ra bằng việc giao quyền cho nhà QT địa phương để thích ứng với môi trường kinh tế luật pháp văn hóa địa phương
Thích hợp khi có nhiều chi nhánh tại các quốc gia và áp lực giảm chi phí không lớn
Thích hợp cho sản phẩm tiêu dùng
Hạn chế: chi phí cao
5, Hình thức thâm nhập thị trường của các Công ty đa quốc gia tại Việt Nam:
- Hình thức liên doanh chiếm ưu thế lớn trong những năm đầu:
Ở Việt Nam, những năm đầu mở cửa và hợp tác với nước ngoài (tính từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài 12/1987), việc thu hút đầu tư nước ngoài dưới hình th ức liên doanh có nhiều nổi trội so với hình thức đầu tư khác. Phía Việt Nam có thể góp vốn bằng quyền sử ụng đất; hoạt động theo nguyên tắc nhất trí H ội đồng quản trị , nên các thành viên phía Việt Nam và đối tác có quyền ngang nhau. Qua đó, nhà kinh doanh Việt Nam có cơ h ội để học hỏi trực tiế p các nhà đầu tư nước ngoài; được tham gia vào hoạch định chính sách, tổ ch ức, ki ểm soát hoạ t đ ộng kinh doanh, rủi ro được phân chia về hai bên…nên
hình thức này trở thành hình th ức thu hút các công ty ĐQG ch ủ y ếu.
- Hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài đang trở nên phổ biến, thay cho hình thức liên doanh
Xu hướng này là các chi nhánh TNCs khi đầu tư vào Vi ệ t Nam mu ốn tự quản lý, quyết định chiến lược kinh doanh, chủ động hơn trong việc lựa chọn địa điểm thực hiện dự án, trong việc tổ chức kinh doanh và tiếp cận thị trường. Hơn nữa, khi Việ t Nam ban hành luật đầu tư nước ngoài s ửa đ ổi (năm 1996), chính sách đối x ử bình đẳng gi ữa doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đã khiến cho các doanh nghiệp nước ngoài không còn cố bám vào các doanh nghi ệp trong nước để tìm kiếm c