1. Tính Cấp thiết của đề tài nghiên cứu.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, ngành Viễn thông Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định. Viễn thông Việt Nam đã nhanh chóng hiện đại hoá được mạng lưới, rút ngắn đáng kể khoảng cách về cơ sở hạ tầng Viênx thôngvới các nước trong khu vực cũng như trên thế giới. Đến hết năm 1998, đã có 61/61 tỉnh thành phố, 100% số huyện đã được trang bị tổng đài điện tử kỹ thuật số, gần 7000/9330 xã có máy điện thoại. Hầu hết các tỉnh, thành phố, thị xã đã liên lạc trực tiếp khắp cả nước và các nước trên thế giới qua 3 tổng đài, 6 trạm vệ tinh và các tuyến cáp quang biển. Đến nay Viênx thôngViệt Nam đã hoà nhập với mạng thông tin toàn cầu. Tuy nhiên so với thế giới, mật độ điện thoại của Việt Nam vẫn còn rất thấp. Mật độ điện thoại năm 1997 ở nước ta mới đạt 1,58 máy/100 dân và trong khi đó ở Châu á trung bình 5 máy/100 dân, toàn thê giới trung bình 12 máy/100 dân, Hàn Quốc 43,04 máy/100 dân, Singapore là 55 máy/100 dân, Đài Loan là 46,62 máy/100 dân. Mục tiêu đến năm 2020 ngành Viễn thôngViệt Nam đã phấn đấu đưa mật độ điện thoại lên 30 - 35 máy/100 dân tức là gấp 10 - 15 lần hiện nay và phải tiếp tục phát triển và hiện đại hoá mang thông tin liên lạc quốc gia, mở liên lạc điện thoại đến hầu hết các xã do đại hội VIII đảng cộng sản Việt Nam đề ra. Để đạt được mục tiêu đó, trong giai đoạn từ nay đến hết năm 2020, Viễn thông Việt Nam đòi hỏi một khối lượng vốn khổng lồ, (khoảng 25 tỷ USD) để phát triển. Bên cạnh đó, trước xu thế hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng: Từ sản xuất hàng hoá thuần tuý nay đã lan sang cả lĩnh vực dịch vụ trong đó có dịch vụ Viễn thông diễn ra ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Đây là một vấn đề, một đòi hỏi cấp bách đối với dịch vụ Viễn thông Việt Nam khi bước vào thế kỷ 21. Đứng trước những yêu cầu như vậy, thì từ nay đến năm 2020 dịch vụ Viễn thông Việt Nam phải có một chiến lược phát triển phù hợp với tình hình kinh tế xã hội đất nước, phù hợp với hiện trạng Viễn thông Việt Nam; để có thể phát huy được nội lực, thu hút vốn nước ngoài và hội nhập quốc tế. Từ tình hình đó, đề tài “Chiến lược tự do hoá và mở cửa thị trường dịch vụ Viễn thông Việt Nam trước xu thế hội nhập quốc tế” mang tính cấp thiết và ý nghĩa thực tiễn quan trọng.
2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn:
- Khái quát tình hình hội nhập quốc tế của Việt Nam trong thời gian vừa qua, các xu hướng phát triển Viễn thông trên thế giới và kinh nghiệm mở cửa, hội nhập của một số quốc gia trên thế giới.
- Phân tích thực trạng phát triển và mở cửa hội nhập của Bưu điện Việt Nam trong lĩnh vực dịch vụ Viễn thông trong thời gian qua.
- Xây dựng một chiến lược tổng thể về tự do hoá và mở cửa thị trường dịch vụ Viễn thông từ nay đến năm 2020, từ đó đề xuất một số kiến nghị và giải pháp cả về phía Nhà nước và các doanh nghiệp để thực hiện được chiến lược đã đề ra.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Với tính đa dạng của đề tài, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về chiến lược tự do hoá và mở cửa thị trường dịch vụ trên phương diện tổng thể sau khi đã nghiên cứu một cách cụ thể tình hình hội nhập kinh tế nói chung và lĩnh vực dịch vụ Viễn thông nói riêng trên thế giới, và tình hình phát triển hội nhập của Bưu điện Việt Nam trong lĩnh vực dịch vụ Viễn thông trong thời gian qua.
4. Kết cấu nội dung của bài viết.
Bài viết gồm 122 trang, được kết cấu thành 3 chương chủ yếu sau:
Chương I - Tính tất yếu khách quan của hội nhập quốc tế và những vấn đề đặt ra đối với lĩnh vực dịch vụ Viễn thông Việt Nam.
Chương II - Tình hình phát triển và mở cửa hội nhập của Bưu điện Việt Nam trong lĩnh vực dịch vụ Viễn thông trong thời gian qua.
Chương III - Chiến lược tự do hoá và mở cửa thị trường dịch vụ Viễn thông Việt Nam trước xu thế hội nhập quốc tế.
126 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2093 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chiến lược tự do hóa và mở cửa thị trường dịch vụ viễn thông Việt Nam trước xu thế hội nhập quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời nói đầu
1. Tính Cấp thiết của đề tài nghiên cứu.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, ngành Viễn thông Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định. Viễn thông Việt Nam đã nhanh chóng hiện đại hoá được mạng lưới, rút ngắn đáng kể khoảng cách về cơ sở hạ tầng Viênx thôngvới các nước trong khu vực cũng như trên thế giới. Đến hết năm 1998, đã có 61/61 tỉnh thành phố, 100% số huyện đã được trang bị tổng đài điện tử kỹ thuật số, gần 7000/9330 xã có máy điện thoại. Hầu hết các tỉnh, thành phố, thị xã đã liên lạc trực tiếp khắp cả nước và các nước trên thế giới qua 3 tổng đài, 6 trạm vệ tinh và các tuyến cáp quang biển. Đến nay Viênx thôngViệt Nam đã hoà nhập với mạng thông tin toàn cầu. Tuy nhiên so với thế giới, mật độ điện thoại của Việt Nam vẫn còn rất thấp. Mật độ điện thoại năm 1997 ở nước ta mới đạt 1,58 máy/100 dân và trong khi đó ở Châu á trung bình 5 máy/100 dân, toàn thê giới trung bình 12 máy/100 dân, Hàn Quốc 43,04 máy/100 dân, Singapore là 55 máy/100 dân, Đài Loan là 46,62 máy/100 dân... Mục tiêu đến năm 2020 ngành Viễn thôngViệt Nam đã phấn đấu đưa mật độ điện thoại lên 30 - 35 máy/100 dân tức là gấp 10 - 15 lần hiện nay và phải tiếp tục phát triển và hiện đại hoá mang thông tin liên lạc quốc gia, mở liên lạc điện thoại đến hầu hết các xã do đại hội VIII đảng cộng sản Việt Nam đề ra. Để đạt được mục tiêu đó, trong giai đoạn từ nay đến hết năm 2020, Viễn thông Việt Nam đòi hỏi một khối lượng vốn khổng lồ, (khoảng 25 tỷ USD) để phát triển. Bên cạnh đó, trước xu thế hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng: Từ sản xuất hàng hoá thuần tuý nay đã lan sang cả lĩnh vực dịch vụ trong đó có dịch vụ Viễn thông diễn ra ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Đây là một vấn đề, một đòi hỏi cấp bách đối với dịch vụ Viễn thông Việt Nam khi bước vào thế kỷ 21. Đứng trước những yêu cầu như vậy, thì từ nay đến năm 2020 dịch vụ Viễn thông Việt Nam phải có một chiến lược phát triển phù hợp với tình hình kinh tế xã hội đất nước, phù hợp với hiện trạng Viễn thông Việt Nam; để có thể phát huy được nội lực, thu hút vốn nước ngoài và hội nhập quốc tế. Từ tình hình đó, đề tài “Chiến lược tự do hoá và mở cửa thị trường dịch vụ Viễn thông Việt Nam trước xu thế hội nhập quốc tế” mang tính cấp thiết và ý nghĩa thực tiễn quan trọng.
2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn:
- Khái quát tình hình hội nhập quốc tế của Việt Nam trong thời gian vừa qua, các xu hướng phát triển Viễn thông trên thế giới và kinh nghiệm mở cửa, hội nhập của một số quốc gia trên thế giới.
- Phân tích thực trạng phát triển và mở cửa hội nhập của Bưu điện Việt Nam trong lĩnh vực dịch vụ Viễn thông trong thời gian qua.
- Xây dựng một chiến lược tổng thể về tự do hoá và mở cửa thị trường dịch vụ Viễn thông từ nay đến năm 2020, từ đó đề xuất một số kiến nghị và giải pháp cả về phía Nhà nước và các doanh nghiệp để thực hiện được chiến lược đã đề ra.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Với tính đa dạng của đề tài, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về chiến lược tự do hoá và mở cửa thị trường dịch vụ trên phương diện tổng thể sau khi đã nghiên cứu một cách cụ thể tình hình hội nhập kinh tế nói chung và lĩnh vực dịch vụ Viễn thông nói riêng trên thế giới, và tình hình phát triển hội nhập của Bưu điện Việt Nam trong lĩnh vực dịch vụ Viễn thông trong thời gian qua.
4. Kết cấu nội dung của bài viết.
Bài viết gồm 122 trang, được kết cấu thành 3 chương chủ yếu sau:
Chương I - Tính tất yếu khách quan của hội nhập quốc tế và những vấn đề đặt ra đối với lĩnh vực dịch vụ Viễn thông Việt Nam.
Chương II - Tình hình phát triển và mở cửa hội nhập của Bưu điện Việt Nam trong lĩnh vực dịch vụ Viễn thông trong thời gian qua.
Chương III - Chiến lược tự do hoá và mở cửa thị trường dịch vụ Viễn thông Việt Nam trước xu thế hội nhập quốc tế.
Chương I
Tính tất yếu khách quan của hội nhập quốc tế và những vấn đề đặt ra đối với lĩnh vực dịch vụ Viễn thông Việt Nam
Mục đích của chương này đi vào tìm hiểu tình hình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong thời gian qua. Đồng thời nêu lên các xu hướng phát triển Viễn thông trên thế giới và nghĩa vụ tự do hoá dịch vụ Viễn thông của Việt Nam khi tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế. Để rút ra được những kinh nghiệm và bài học cho chiến lược tự do hoá và mở cửa thị trường dịch vụ Viễn thông của Việt Nam trong thời gian tới, trong chương này khái quát một số kinh nghiệm và bài học mở cửa thị trường dịch vụ Viễn thông của một số nước trên thế giới. Chương I bao gồm 4 vấn đề được trình bày sau:
Hội nhập quốc tế -Một xu thế tất yếu của các quốc gia trên thế giới
Viễn thông Việt Nam trước xu thế hội nhập
Tính cấp thiết phải xây dựng chiến lược tự do hóa và mở cửa thị trường dịch vụ Viễn thông Việt Nam
Kinh nghiệm và lộ trình mở cửa thị trường dịch vụ Viễn thông các nước trong khu vực và trên thế giới
I - Hội nhập quốc tế -Một xu thế tất yếu của các quốc gia trên thế giới
Hội nhập đã trở thành một trào lưu không thể đảo ngược, và việc tham gia của các quốc gia vào tiến trình này là tất yếu với thực tế là các thể chế chính trị, kinh tế thương mại toàn cầu, liên khu vực vẫn không ngừng được củng cố và phát triển cả về lượng và chất
1.Tình hình hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian qua
Hai thập kỷ qua, quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế đã thực sự bước sang một giai đoạn mới -Giai đoạn toàn cầu hoá “Cơn lốc hoà nhập kinh tế “đã cuốn tất cả các nước trên thế giới từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam với tốc độ nhanh đến chóng mặt. Các nền kinh tế trên hành tinh xâm nhập lẫn nhau, liên kết với nhau, đưa nền kinh tế thế giới thành một nền kinh tế hoà nhập ngày càng đậm nét với một thị trường buôn bán toàn cầu sôi động. Đối với các quốc gia công nghiệp phát triển, hội nhâp kinh tế quốc tế là con đường ngắn nhất để họ nhanh chóng xác lập vị thế quốc tế, là phương thức phát triển giúp họ đẩy mạnh chi phối và dẫn dắt các xu thế kinh tế toàn cầu. Còn đối với các quốc gia đang phát triển hội nhập kinh tế quốc tế không những là chiến lược quan trọng thúc đẩy nhịp độ phát triển kinh tế xã hội mà còn là sự lựa chọn không thể tránh khỏi để đạt được sự tăng trưởng kinh tế bền vững. Hơn nữa ngày nay đông lực của hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ nhằm khai thác lợi thế so sánh mà còn là tiến bộ khoa học kỹ thuật và mở rộng cơ chế thị trường. Điều này càng làm cho các quan hệ đầu tư, thương mại, chuyển giao công nghệ, quản lý...đan chéo hoà nhập vào nhau hơn trong một chỉnh thể thống nhất mà trong đó các nền kinh tế quốc gia chỉ là một bộ phận hợp thành của kinh tế toàn cầu
1.1 Tiến bộ khoa học kỹ thuật thúc đẩy toàn cầu hoá.
Với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ trong thời gian vừa qua đã làm cho hội nhập kinh tế bước vào một giai đoạn mới -Giai đoạn toàn cầu hoá và khu vực hoá. Những tiến bộ to lớn về công nghệ thông tin cũng như trong lĩnh vực kỹ thuật và công nghệ khác đã cho phép tổ chức sản xuất và tiến hành buôn bán trên quy mô toàn cầu. Các máy Fax,cáp sợi thuỷ tinh,máy vi tính...tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty đa quốc gia tổ chức điều khiển từ xa các chi nhánh bố trí chằng chịt của họ một cách nhanh chóng, kịp thời. Các phương tiện vận chuyển khổng lồ rất hiện đại có tốc độ cao giúp cho việc tổ chức sản xuất, chế tạo, lắp ráp, và buôn bán các sản phẩm làm ra ở nhiều địa bàn khác nhau, có khi xa nhau hàng nghìn, hàng vạn km, nhằm khai thác lợi thế so sánh ở mỗi nơi. Điều này đã làm cho biên giới quốc gia đặc biệt là về kinh tế ngày càng mất tác dụng. Với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật cộng với sức mạnh khổng lồ của các công ty xuyên quốc gia đã và đang làm thay đổi bộ mặt thế giới từng phút từng giờ
1.2 Thúc đẩy tự do hoá thương mại thế giới
Từ những năm 1990, xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá của nền kinh tế thế giới đã tạo điều kiện cho thương mại thế giới phát triển một cách nhanh chóng. Việc tự do hoá mậu dịch với biện pháp bãi bỏ hàng rào thuế quan đã giúp cho nền thương mại thế giới phát triển một cách ngoạn mục một sự phát triển “trong cạnh tranh gay gắt”, thị trường của các quốc gia trên thế giới được khai thông và mở rộng trên mọi lĩnh vực. Nếu như trước kia thương mại thế giới chỉ tập trung vào những mặt hàng truyền thống thì nay nó còn lan ra cả dịch vụ, bất động sản...Theo nhận xét của báo “Tấm gương” (Đức)tốc độ tăng trưởng thương mại thế giới từ năm 1991 cho tới năm 1998 nhanh hơn gấp đôi tốc độ tăng trưởng GDP của thế giới ví dụ :Tốc độ tăng trưởng GDP của thế giới năm 1994 là 3,9% trong khi đó tốc độ tăng trưởng thương mại thế giới là 9,5%. Tương tự năm 1995:3,6%và 8%;năm 1996:4,1%và 7% ;năm 1997:4,1% và 9,4%. Mặc dù trong năm 1998,bị tác động bởi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu á nhưng tốc độ tăng trưởng thương mại thế giới vẫn đạt 3,7%.
Tổ chức thương mại thế giới - WTO và các tổ chức mậu dịch tự do khu vực như liên hiệp châu âu -EU, diễn đàn hợp tác kinh tế châu á - Thái bình dương - APEC, khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ-NAFTA, khu vực mậu dịch tự do ASEAN-AFTA..đã đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tự do hoá thương mại thế giới. Trong đó tổ chức thương mại thế giới WTO ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy xu hướng toàn cầu hoá thương mại. Tại hội nghị cấp bộ trưởng lần thứ nhất của WTO họp ở xingapore với 128 nước tham gia đã thông qua được hiệp định công nghệ thông tin ITA bao gồm việc xoá bỏ hàng rào thuế quan đối với các mặt hàng bán dẫn, các sản phẩm thông tin Viễn thông và các thiết bị máy tính, phần mềm và các thiết bị khoa học. Tiếp nối các hiệp định ban đầu của vòng đàm phán uruguay, vòng đàm phán Singapore càng thúc đẩy hơn nữa trong quá trình tự do hoá thương mại toàn cầu
Như vậy toàn cầu hoá với việc ra đời của EU, NAFTA, AFTA...và đặc biệt là WTO đã đánh dấu thời đại của hàng rào thuế quan cao, của cách thức đóng cửa khác nhau ở các thị trường, của một số đặc quyền ít ỏi trong mậu dịch quốc tế dành cho các nước phát triển đã chấm dứt. Buôn bán quốc tế đã chuyển sang một thời đại mới, thời đại của tự do hoá thương mại thế giới
1.3 FDI và vai trò của các công ty đa quốc gia
Vai trò ngày càng tăng của đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI là một nhân tố rất quan trọng để thúc đẩy xu thế toàn cầu hoá. Tổng giá trị FDI toàn thế giới năm 1994 là 209 tỷ USD; năm 1995 là 260 tỷ USD; năm 1996 là 320 tỷ USD; năm 1998 là 450 tỷ USD. Với việc đầu tư ra nước ngoài đã góp phần làm tăng nhanh quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế Thế giới, cả trong lĩnh vực sản xuất lẫn thương mại quốc tế. Nhưng ngược lại chính xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá kinh tế quốc tế càng thúc đẩy các công ty đa quốc gia đầu tư ra nước ngoài. Các nước G7 là các nước đứng đầu về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. FDI vào châu á chiếm khoảng 1/3 FDI toàn thế giới
Các công ty đa quốc gia MNCs là lực lượng chủ chốt đầu tư ra nước ngoài. Hàng năm các MNCs đầu tư ra khoảng 300-350 tỷ USD. Hoạt động của MNCs đã có vai trò to lớn trong phát triển thương mại quốc tế. Theo số liệu ước tính, những năm gần đây giá trị xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ của các MNCs đạt khoảng 6,5 đến 7 nghìn tỷ USD trong đó xuất khẩu nội bộ của MNCs đạt khoảng 2000 tỷ USD. Đến hết năm 1998 trên thế giới có khoảng 39000MNCs và có 300000 chi nhánh (công ty con) ở nước ngoài với tổng số vốn đầu tư trực tiếp ở nước ngoài FDI lên tới 3000 tỷ USD
Bên cạnh những đóng góp lớn về vốn cho phát triển sản xuất và thương mại quốc tế, các MNCs có vai trò to lớn trong chuyển giao công nghệ. Việc chuyển giao công nghệ là điều kiện khách quan giúp cho các MNCs chiếm lĩnh thị trường và nâng cao lợi nhuận, đồng thời có khả năng chi phối các đối tác trong hoạt động kinh doanh. Các MNCs có thể chuyển giao kỹ thuật công nghệ hiện đại trong nội bộ công ty mà chuyển giao kỹ thuật công nghệ ở cấp thấp hơn cho các nước khác, công ty khác
1.4 Liên kết kinh tế quốc tế mở rộng trên các cấp độ khác nhau
Hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian vừa qua theo nhiều chiều hướng và tầng nấc khác nhau: Song phương, tiểu khu vực, khu vực, liên khu vực và toàn cầu. Cùng với việc ra đời diễn đàn hợp tác kinh tế châu á Thái Bình Dương-APEC, khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ NAFTA, khu vực mậu dịch tự do ASEAN/AFTA...đã chứng minh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng củng cố và phát triển cả bề rộng lẫn bề sâu .
Trong năm 1996, hội nghị cấp cao á -âu(ASEM) lần thứ nhất họp tại Băng cốc (Thái lan) với sự tham dự của vị nguyên thủ quốc gia và lãnh đạo chính phủ 10 nước châu á và các nước trong EU nhằm xây dựng thể chế liên kết kinh tế liên lục địa á-âu. Sự kiện này đã khép kín cạnh thứ ba của tam giác liên kết kinh tế liên lục địa trên thế giới, mà hai cạnh trước đã có từ trước là diễn đàn kinh tế châu á Thái bình dương APEC gắn liền với các nước châu á và châu mỹ ở ven hai bờ Thái bình dương, và khu vực mậu dịch xuyên Đại Tây Dưong TAFTA giữa Hoa Kỳ và Bắc Mỹ với EU và Tây Âu
Trong những năm qua, các tổ chức liên kết tiểu khu vực và khu vực tiếp tục phát triển. ở châu Phi, cộng đồng kinh tế các nước Tây phi (ECOWAS) nằm trong khu vực nghèo nhất thế giới gồm 16 nước thành viên trong đó có Nigeria, Ghana, Mali, Senegan...đã xúc tiến từng bước việc thiết lập liên minh hải quan vào năm 2000 và liên minh kinh tế toàn diện vào năm 2005. Cũng tại lục địa đen, 12 nước thành viên Cộng đồng phát triển phía nam Châu phi -SADC đã ký nghị định thư vào năm 1996 thành lập khu vực mậu dịch tự do với 130 triệu dân và kêu gọi cắt giảm thuế quan trong thời hạn tối đa 8 năm
Các nước ở Nam Mỹ đang tiến tới thiết lập khu vực buôn bán tự do châu Mỹ khổng lồ FTAA vào năm 2005, tạo ra một khối buôn bán tự do lớn thứ tư trên thế giới với 250 triệu người tiêu dùng và có GĐP là 800 tỷ USD. Các hàng rào thuế quan giữa các nước này dự định sẽ huỷ bỏ vào năm 2004
Tại châu á, trong những năm qua xu hướng hợp tác tiểu khu vực phát triển mạnh.Việc Trung Quốc, CHDCND Triều Tiên, Hàn Quốc, Mông Cổ, Nga ký kết các hiệp định thành lập khu vực phát triển kinh tế vùng sông Turmen ở Đông Bắc A hồi tháng 12/1995 đã mang đến sinh khí mới cho hợp tác kinh tế ở vùng này. Tại hội nghị quốc tế ở Bắc Kinh với chủ đề đẩy mạnh phát triển và hợp tác khu vực giữa các nước đông Bắc á trong thế kỷ 21, các học giả nhất trí cho rằng khi nền kinh tế khu vực Thái Bình Dương phát triển mạnh, vùng Đông Bắc á nên tăng cường hợp tác khu vực nhằm tạo một thị trường có tiềm lực lớn. Tại khu vực Nam á, 7 nước trong tổ chức SAARC -Hiệp hội các quốc gia Nam á vì sự hợp tác khu vực trong đó có ấn Độ, Pakistan đã đồng ý huỷ bỏ hàng rào buôn bán càng nhanh càng tốt nhằm tăng cường buôn bán và hợp tác khu vực trong các liên doanh, đầu tư và kỹ thuật với hy vọng thành lập được một khu vực buôn bán giống như ASEAN
Việc tổ chức ASEAN chính thức kết nạp Lào và Myanmar trong thời gian vừa qua đã mở ra triển vọng to lớn hình thành Tổ chức hiệp hội các nước Đông Nam á ASEAN và khu vực mậu dịch tự do thương mại AFTA bao gồm toàn thể 10 nước ở trong khu vực. Hiện tại ASEAN với 9 nước thành viên là khu vực kinh tế lớn thứ tư trên thế giới, có diện tích 3,3 triệu km( với 400 triêu dân, có GDP hơn 550 tỷ USD, xuất khẩu hơn 300tỷ USD/năm. AFTA đang đẩy mạnh việc thực hiện kế hoạch tự do buôn bán vào năm 2003 hoặc sớm hơn, thúc đẩy hình thành khu vực đầu tư tự do ASEAN và sau đó từng bước tiến tới nhất thể hoá ASEAN về kinh tế trong vùng vài ba chục năm tới
Tóm lại, toàn cầu hoá đang tạo ra những tác động tích cực và có những ảnh hưởng tiêu cực, những cơ hội to lớn và những thách thức nghiêm trọng, nó kích thích sự phát triển đối với những ai biết khai thác lợi thế của xu hướng lịch sử mới này và khiến những ai chậm chân, đứng bên lề có thể bị tụt hậu ngày càng xa
2. Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong thời gian qua
Hội nhập kinh tế quốc tế vừa là một xu hướng vừa là yêu cầu của các quốc gia trên thế giới. Đối với Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế nhằm tìm kiếm những nguồn lực và điều kiện thuận lợi bên ngoài để hỗ trợ cho sự nghiệp cải cách và công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để thực hiện mục tiêu đó, trong những năm vừa qua Việt Nam đã thực hiện chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ để thực hiện từng bước hội nhập. Việt Nam tích cực mở rộng các mối quan hệ thương mại, hợp tác kinh tế với nhiều nước và tổ chức quốc tế theo nhiều tầng nấc khác nhau: Song phương, tiểu khu vực, khu vực, liên khu vực và toàn cầu. Năm 1995, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của ASEAN và đang nỗ lực tham gia thực hiện các chương trình hợp tác kinh tế ASEAN, đặc biệt là chương trình khu vực mậu dịch tự do AFTA. Cùng với việc tham gia AFTA/ASEAN Việt Nam cũng đã tham gia diễn đàn hợp tác á - Âu (ASEM) ngay từ khi hình thành vào tháng 3/1997 với tư cách là thành viên sáng lập. Đặc biệt, năm 1997 đánh dấu một sự kiện quan trọng và có ý nghĩa lớn lao đối với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Sau một thời gian nỗ lực vận động và chuẩn bị, Việt Nam đã được các nhà lãnh đạo APEC tuyên bố sẽ kết nạp làm thành viên vào năm 1998. Đối với tổ chức thương mại thế giới (WTO) Việt Nam cũng đã đệ đơn xin gia nhập và trong hai năm 1997, 1998 Việt Nam đã chuẩn bị cho các vòng đàm phán gia nhập WTO với tổ công tác và các nước quan tâm.
Trong thời gian qua, tiếp theo việc bình thường hoá quan hệ ngoại giao giữa Việt nam và Mỹ, hai nước đã tiến hành nhiều vòng đàm phán để ký kết các hiệp định kinh tế song phương về các vấn đề về nợ , bản quyền, từng bước bình thường hoá quan hệ kinh tế thương mại. Song song với những việc trên, trong những năm qua Việt Nam tích cực hợp tác với các tổ chức tài chính quốc tế như WB, IMF... nhằm tận dụng một cách có hiệu quả sự hợp tác của các tổ chức đó phục vụ tiến trình phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế của mình. Nhưng có một điều là tất cả sự hợp tác, quan hệ trên đều phải lấy các nguyên tác của WTO làm tiêu chuẩn.
3. Những cơ hội và thách thức với Việt Nam trong quá trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Đối với Việt Nam là một nước đang phát triển, có nền kinh tế chuyển đổi, tham gia hội nhập với xuất phát điểm thấp hơn nhiều so với nhiều nước trên thế giới.Vì vậy, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế một mặt đang mở ra nhiều cơ hội cho chúng ta, mặt khác cũng đặt ra cho chúng ta nhiều thách thức lớn lao.
3.1. Những lợi ích của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Hiện tại Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn đầu của công cuộc công nghiệp hoá đất nước. Việt Nam mở cửa và hội nhập vào kinh tế quốc tế sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam thay đổi cơ cấu kinh tế thích hợp hướng công nghiệp hoá và xuất khẩu, tạo cơ hội để phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, thương mại và dịch vụ.
+ Việt Nam sẽ không bị phân biệt đối xử trong thương mại quốc tế và mở rộng được nhiều thị trường xuất khẩu ra bên ngoài do việc được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN) và ưu đãi quốc gia (NT) của các nước thành viên, đặc biệt là các mặt hàng xuất khẩu mà ta có lợi thế so sánh như gạo, cà phê, hải sản, may mặc, dày dép...
Ví dụ: Việc Việt Nam tham gia vào APEC sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam hợp tác về thương mại với các nước khu vực châu á - Thái Bình dương. Thương mại giữa Việt Nam và các nước trong khu vực châu á - Thái Bình Dương chiếm hơn 80% tổng lượng thương mại quốc tế của Việt Nam. Tham gia vào APEC sẽ giúp Việt Nam khai thác được lợi thế, tận dụng những ưu đãi của APEC dành cho các nước đang phát triển, tránh rơi vào thế bị cô lập trong xu thế hợp tác và cạnh tranh khu vực.
+ Khi tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế Việt Nam phải tiến hành cải cách thể chế, chính sách, luật pháp cho phù hợp với yêu cầu của các tổ chức này. Điều này công với các lợi thế so sánh mà lâu nay Việt Nam có như lao động, vị trí địa lý... sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam có cơ hội thu hút được vốn đầu tư nước ngoài nhiều hơn.
+ Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo ra động lực để các công ty trong nước đổi mới công nghệ, cải tiến phương pháp quản lý, tăng cường hiệu quả kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm để cạnh tranh và tồn tại trong điều kiện kinh tế mở. Ngoài ra, hội nhập kinh tế quốc tế còn tạo điều kiện cho các công ty Việt Nam bước vào thị trường thế giới để mở rộng sản xuất kinh doanh, cạnh tranh tr