Toàn cầu hóa là một quá trình tất yếu khách quan, đó là xu thế của thời đại. Việt Nam không nằm ngoài xu thế đó. Đổi mới năm 1986 là một bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển của Việt Nam, nó gần như thay đổi bộ mặt của đất nước không chỉ trong lĩnh vực kinh tế, xã hội mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến văn hóa của nước ta. Kinh tế cởi mở hơn, đặc biệt là có sự giao thương buôn bán với nước ngoài, và sự xâm nhập ngày càng sâu rộng của các tập đoàn đa quốc gia tạo nên một nền kinh tế đa dạng và phong phú. Kinh tế phát triển, thu nhập của người dân ngày càng tăng cao, GDP bình quân đầu người từ 200USD năm 1990 tăng lên 640USD năm 2005, và vượt ngưỡng 1.000USD năm 2008 (nguồn Tổng cục thống kê). Đây là một dấu hiệu đáng mừng đặc biệt từ khi gia nhập WTO năm 2006, Việt Nam đã chính thức trở thành một thành viên của cộng đồng quốc tế, sự hội nhập không dừng lại ở kinh tế mà nó đã kéo theo sự thay đổi mọi mặt trong đời sống xã hội và đặc biệt cả trong văn hóa. Nếu sự phát triển về kinh tế là một dấu hiệu đáng mừng thì sự du nhập văn hóa từ nước ngoài cần phải được bàn đến nhiều hơn. Văn hóa là vốn quý, là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển. Không phải văn hóa nào cũng phù hợp với xã hội, với những chuẩn mực văn hóa của Việt Nam. Sự va chạm giữa các nền văn hóa là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên làm thế nào để hội nhập về kinh tế mà không bị hòa tan, biến dạng về văn hóa là chiến lược quan trọng để phát triển. Thấy được tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy văn hóa dân tộc, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những chính sách có sự nhấn mạnh, điều chỉnh phù hợp trong từng thời kỳ. Chính sách về văn hóa không chỉ thể hiện các yêu cầu về văn hóa trong tình hình mới mà còn thể hiện các yếu tố, đặc điểm chính trị sâu sắc.
21 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2043 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách giữ gìn và phát triển văn hóa trong quá trình toàn cầu hóa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA XÃ HỘI HỌC
BỘ MÔN XÃ HỘI HỌC CHÍNH TRỊ
ĐỀ TÀI
CHÍNH SÁCH GIỮ GÌN VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA TRONG QUÁ TRÌNH TOÀN CẦU HÓA Ở VIỆT NAM
GVHD: TS. Vũ Quang Hà
Nhóm Cộng Đồng
Nguyễn Thị Trâm Thùy 0769151
Phạm Hà Thảo Nguyên 0769097
Vũ Thị Nhãn 0769100
Nguyễn Thị Bích Phương 0769111
Lê Thị Kim Phượng 0769113
Huỳnh Thị Thu Sen 0769121
Trần Thị Minh Thành 0769134
Nguyễn Thị Thoa 0769143
Chu Thị Thúy 0769148
Nguyễn Hoàng Tố Trinh 0769169
Phạm Thị Xuân 0769184
Đặng Hải Yến 0769186
Y Ay Ly Tâm 0769129
TP.HCM – THÁNG 12 NĂM 2010
I. DẪN NHẬP
Toàn cầu hóa là một quá trình tất yếu khách quan, đó là xu thế của thời đại. Việt Nam không nằm ngoài xu thế đó. Đổi mới năm 1986 là một bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển của Việt Nam, nó gần như thay đổi bộ mặt của đất nước không chỉ trong lĩnh vực kinh tế, xã hội mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến văn hóa của nước ta. Kinh tế cởi mở hơn, đặc biệt là có sự giao thương buôn bán với nước ngoài, và sự xâm nhập ngày càng sâu rộng của các tập đoàn đa quốc gia tạo nên một nền kinh tế đa dạng và phong phú. Kinh tế phát triển, thu nhập của người dân ngày càng tăng cao, GDP bình quân đầu người từ 200USD năm 1990 tăng lên 640USD năm 2005, và vượt ngưỡng 1.000USD năm 2008 (nguồn Tổng cục thống kê). Đây là một dấu hiệu đáng mừng đặc biệt từ khi gia nhập WTO năm 2006, Việt Nam đã chính thức trở thành một thành viên của cộng đồng quốc tế, sự hội nhập không dừng lại ở kinh tế mà nó đã kéo theo sự thay đổi mọi mặt trong đời sống xã hội và đặc biệt cả trong văn hóa. Nếu sự phát triển về kinh tế là một dấu hiệu đáng mừng thì sự du nhập văn hóa từ nước ngoài cần phải được bàn đến nhiều hơn. Văn hóa là vốn quý, là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển. Không phải văn hóa nào cũng phù hợp với xã hội, với những chuẩn mực văn hóa của Việt Nam. Sự va chạm giữa các nền văn hóa là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên làm thế nào để hội nhập về kinh tế mà không bị hòa tan, biến dạng về văn hóa là chiến lược quan trọng để phát triển. Thấy được tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy văn hóa dân tộc, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những chính sách có sự nhấn mạnh, điều chỉnh phù hợp trong từng thời kỳ. Chính sách về văn hóa không chỉ thể hiện các yêu cầu về văn hóa trong tình hình mới mà còn thể hiện các yếu tố, đặc điểm chính trị sâu sắc.
II. NỘI DUNG
Thao tác hóa các khái niệm
Chính sách
Có nhiều cách lý giải khác nhau về chính sách. Trong đó chính sách cũng được hiểu là “chính sách công”, Nhà nước là nhân vật then chốt.
Chính sách công là cái mà Chính phủ lựa chọn làm hay không làm (Thomas R. Dye, 1984).
Chính sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm các nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt các mục tiêu đó (William Jenkin, 1978).
Kraft và Furlong (2004) đưa ra một định nghĩa tổng hợp hơn. Theo đó, chính sách công là một quá trình hành động hoặc không hành động của chính quyền để đáp lại một vấn đề công cộng. Nó được kết hợp với các cách thức và mục tiêu chính sách đã được chấp thuận một cách chính thức, cũng như các quy định và thông lệ của các cơ quan chức năng thực hiện những chương trình.
(Nguồn: Viện Nghiên Cứu Phát Triển TP.HCM – HIDS )
Văn hóa
Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, mỗi định nghĩa phản ánh một cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau. Năm 1952, hai nhà nhân loại học Mỹ là Alfred Kroeber và Clyde Kluckhohn đã từng thống kê có tới 164 định nghĩa khác nhau về văn hóa trong các công trình nổi tiếng thế giới.
Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: Văn hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin.
(Nguồn: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia )
Định nghĩa của Hồ Chí Minh về văn hoá: "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá". ( )
Chính sách văn hóa
Chính sách văn hoá là chủ trương, biện pháp của Đảng và Nhà nước nhằm xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển con người toàn diện, phục vụ đắc lực yều cầu phát triển đất nước. Văn hoá vừa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. ( )
Toàn cầu hóa
Toàn cầu hóa được hiểu như một quá trình mà thông qua đó thị trường và sản xuất ở nhiều nước khác nhau sẽ trở nên phụ thuộc và liên kết với nhau.
Toàn cầu hóa là quá trình hình thành một chuỗi các liên kết ràng buộc giữa các chính phủ và các nhóm xã hội tạo lập nên một hệ thống thế giới hiện đại, quyết định hoạt động của cá thể và cộng đồng.
Toàn cầu hóa chỉ nên hiểu theo nghĩa kinh tế thế giới, nó là một quan hệ kinh tế mang tính phi lãnh thổ. Nó quyết định những cái không dừng lại ở cấp độ quốc gia hay lãnh thổ.
Theo Thomson, phá vỡ quan hệ kinh tế có thể dẫn đến sự phá vỡ văn hóa, chính trị. Đây là quan điểm được nhiều nhà chính trị ủng hộ.
Quan điểm của Phidel Castro: toàn cầu hóa là một quá trình lịch sử đang xác định khung cảnh thế giới. Đây là hiện tượng không thể đảo ngược, nó mang đặc trưng của các mối quan hệ tương tác kinh tế, dân tộc giữa các quốc gia không ngừng tăng lên, nó rút ngắn khoảng cách giữa các dân tộc trên thế giới.
Tóm lại, toàn cầu hóa là một quy luật mang tính xu hướng thế giới. Nhưng quan niệm về toàn cầu hóa và bản chất của toàn cầu hóa thì trong mỗi giai đoạn, trong mỗi quốc gia là khác nhau.
(Nguồn: Đề cương bài giảng Xã hội học chính trị, TS. Vũ Quang Hà)
Khái quát về văn hóa Việt Nam
Lãnh thổ Việt Nam nằm ở phần phía Đông của bán đảo Đông Dương, có 4.550km đường biên giới đất liền. Phía Bắc giáp Trung Quốc, phía tây giáp Lào và Campuchia, phía Đông và Đông Nam giáp Biển Đông. Dải đất liền hình chữ S với diện tích 331.689km2, trải dài 1.650km từ vĩ độ 23o23’ Bắc đến 8o27’ Bắc theo hướng Bắc – Nam. Chỗ rộng nhất trên đất liền khoảng 500km và nơi hẹp nhất gần 50km. Việt Nam có 2 vùng đồng bằng màu mỡ: Đồng bằng Sông Hồng (Miền Bắc) và Đồng bằng Sông Cửu Long (Miền Nam). Hai đồng bằng nối liền bởi cao nguyên Miền Trung với dãy núi Trường Sơn hùng vĩ.
Thủ đô Hà Nội nằm ở trung tâm vùng Đồng bằng Sông Hồng cùng với TP.HCM nằm ở vùng hạ lưu sông Đồng Nai (Đông Nam Bộ) tạo nên ở hai đầu đất nước là hai trung tâm phát triển lớn nhất về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội.
Địa lý Việt Nam có vị trí khá đặc biệt. Đây cũng là điều kiện thuận lợi để Việt Nam có thể giao lưu với các nước trên thế giới và có cơ hội tiếp nhận ảnh hưởng của nhiều nền văn hóa khác nhau, điển hình là văn hóa Phù Nam ở Miền Nam, văn hóa Champa ở Miền Trung, văn hóa Ấn Độ ở Miền Nam, văn hóa Trung Quốc ở Miền Bắc. Cộng đồng dân tộc Việt Nam có hơn 86 triệu người (năm 2009, nguồn Tổng cục thống kê) với 54 dân tộc anh em, trong đó người Kinh chiếm 85% Dân tộc Việt Nam. Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo và tín ngưỡng. Bên cạnh Phật Giáo và Công Giáo là hai tôn giáo phổ biến ở Việt Nam còn có các tôn giáo khác như: Hòa Hảo, Cao Đài, Tin Lành, Hồi Giáo cùng với nhiều loại tín ngưỡng trong dân gian.
Văn hóa của Việt Nam là một sự pha trộn đặc biệt giữa văn hóa cổ xưa cùng với văn hóa bản xứ của người Bách Việt. Với ảnh hưởng lớn của văn hóa Trung Hoa, văn hóa Việt Nam đã lập ra rất nhiều đặc điểm khá giống với những dân tộc của các nước Đông Á và khác những nước ở khu Thái Bình Dương (như là Campuchia, Lào và Thái Lan) - nơi vốn chịu một phần lớn ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ. Mặc dù ảnh hưởng Trung Hoa được coi là ảnh hưởng lớn nhất của văn hóa ngoại lai trên nền văn hóa cổ truyền Việt Nam. Bên cạnh đó còn chịu ảnh hưởng từ văn hóa Phương Tây, nhưng dân tộc Kinh vẫn giữ gìn được rất nhiều nét văn hóa của riêng mình. Cho tới ngày nay những nét riêng ấy vẫn rất quan trọng trong đời sống của người Việt.
Nghiên cứu lịch sử phát triển của Việt Nam các nhà khoa học nhận thấy mỗi dân tộc đều có nền văn hóa riêng, đó là biểu hiện của sức sống, sự phát triển đa sắc màu trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Mỗi nền văn hóa đều là thành tựu của mỗi dân tộc. Việt Nam còn có một nền văn hoá khá rộng lớn được hình thành vào khoảng nửa đầu thiên niên kỉ thứ nhất trước Công nguyên và phát triển rực rỡ vào giữa thiên niên kỷ này. Đó là văn hoá Đông Sơn. Nền văn hoá ấy phát triển cao so với các nền văn hoá đương thời khác trong khu vực, có những nét độc đáo riêng nhưng vẫn mang nhiều điểm đặc trưng của văn hoá vùng Đông Nam Á. Những con đường phát triển khác nhau của văn hoá bản địa tại các khu vực khác nhau (lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Cả…) đã hội tụ với nhau, hợp thành văn hoá Đông Sơn. Đây cũng là thời kỳ ra đời Nhà nước "phôi thai" đầu tiên của Việt Nam dưới hình thức cộng đồng liên làng và siêu làng (để chống giặc và đắp, giữ đê trồng lúa) từ đó các bộ lạc nguyên thuỷ phát triển thành dân tộc.
Khi tìm hiểu văn hóa Việt Nam, các nhà khoa học đã đặt văn hóa Việt trong mối quan hệ với các nền văn hóa để thấy được những nét tương đồng, cũng như những khác biệt và từ đó tìm thấy cái riêng trong bản sắc văn hóa Việt Nam. Mặc dù, chịu ảnh hưởng nhiều nền văn hóa nhưng văn hóa Việt Nam vẫn giữ được những nét đặc trưng riêng. Điều đó chứng minh rằng văn hóa Việt Nam giàu bản sắc, có sức sống mãnh liệt trong suốt các giai đoạn lịch sử. Đó cũng là biểu hiện của nền văn hóa luôn ở thế dung hòa, vừa có khả năng tiếp thu những giá trị văn hóa khác vừa có thể bảo tồn những giá trị văn hóa của riêng mình để không bị đồng hóa, và có khả năng chống lại sự chi phối bởi các nền văn hóa khác. Điểm nổi bật trong bản sắc văn hóa Việt Nam là tinh thần yêu nước, yêu hòa bình, yêu độc lập, tự do. Hơn thế nữa, chủ nghĩa yêu nước đã trở thành yếu tố cốt lõi trong hệ tư tưởng Việt Nam.
Quá trình toàn cầu hóa ở Việt Nam hiện nay
Theo một số nhà nghiên cứu thì thế giới trải qua ba làn sóng toàn cầu hóa:
Làn sóng thứ nhất, diễn ra từ năm 1870 – 1914, được kích thích bằng sự kết hợp giữa chi phí vận tải giảm và việc cắt giảm các hàng rào thuế quan. Thời kỳ 1914 – 1945 là thời kỳ thụt lùi trở về chủ nghĩa quốc gia. Các nước đã gia tăng chủ nghĩa bảo hộ và áp đặt các biện pháp kiểm soát nhằm ngăn chặn xuất khẩu vốn.
Thời kỳ 1945 – 1980 diễn ra làn sóng toàn cầu hóa thứ hai. Trong làn sóng thứ hai này, trên thực tế tồn tại hai hệ thống thương mại: hệ thống Bắc – Nam cũ và hệ thống Bắc – Bắc mới. Hầu hết các nước đang phát triển không tham dự vào sự tăng trưởng của các hoạt động thương mại các sản phẩm chế tạo và dịch vụ trên toàn cầu.
Làn sóng toàn cầu hóa mới (làn sóng thứ ba) được bắt đầu từ thập kỷ 1980 với những đặc trưng: nhiều nước đang phát triển đã thâm nhập vào thị trường toàn cầu, một số nước khác bi cách ly khỏi nền kinh tế thế giới, sự di dân và di chuyển vốn quốc tế trở nên đặc biệt quan trọng (Toàn cầu hóa và tác động của hội nhập đối với Việt Nam – NXB Thế giới).
Toàn cầu hóa thực sự được mọi người biết đến nhiều khi nó bắt đầu xuất hiện từ 1986 – 1994 tại một hội nghị thuế quan mậu dịch họp trong vòng 8 năm ở Uruguay. Kết thúc hội nghị, một tổ chức kinh tế lớn nhất thế giới đã ra đời: WTO. Tổ chức này quy ước một số nước với nhau. Sự xuất hiện của tổ chức này đã đẩy mạnh toàn cầu hóa lên một mức độ cao hơn.
Là một tiến trình phát triển, toàn cầu hóa không chỉ giới hạn trong lĩnh vực kinh tế, chính trị mà còn mở rộng sang khía cạnh văn hóa, xã hội... Trong đó, toàn cầu hóa kinh tế vừa là trung tâm, vừa là cơ sở và động lực thúc đẩy các lĩnh vực khác của xu thế toàn cầu hóa. Việt Nam là nước đang phát triển. Việt Nam bắt đầu tiến hành mở cửa và hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới từ năm 1986, điều này đã tạo nên nhiều sự thay đổi của đất nước ta. Đặc biệt, từ khi Việt Nam gia nhập WTO đến nay đã mang lại nhiều cơ hội và thách thức để mở rộng giao lưu và phát triển đất nước trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam:
1-1995: Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO. Ban Công tác xem xét việc gia nhập của Việt Nam được thành lập với Chủ tịch là ông Eirik Glenne, Đại sứ Na Uy tại WTO (riêng từ 1998–2004, Chủ tịch là ông Seung Ho, Hàn Quốc).
8-1996: Việt Nam nộp “Bị vong lục về chính sách thương mại”.
1996: Bắt đầu đàm phán Hiệp định Thương mại song phương với Hoa kỳ (BTA).
1998 - 2000: Tiến hành 4 phiên họp đa phương với Ban Công tác về Minh bạch hóa các chính sách thương mại vào tháng 7-1998, 12-1998, 7-1999, và 11-2000. Kết thúc 4 phiên họp, Ban công tác của WTO đã công nhận Việt Nam cơ bản kết thúc quá trình minh bạch hóa chính sách và chuyển sang giai đoạn đàm phán mở cửa thị trường.
7-2000: ký kết chính thức BTA với Hoa Kỳ.
12-2001: BTA có hiệu lực.
4-2002: Tiến hành phiên họp đa phương thứ 5 với Ban Công tác. Việt Nam đưa ra Bản chào đầu tiên về hàng hóa và dịch vụ. Bắt đầu tiến hành đàm phán song phương.
2002 – 2006: Đàm phán song phương với một số thành viên có yêu cầu đàm phán, với 2 mốc quan trọng:
10-2004: Kết thúc đàm phán song phương với EU - đối tác lớn nhất.
5-2006: Kết thúc đàm phán song phương với Hoa Kỳ - đối tác cuối cùng trong 28 đối tác có yêu cầu đàm phán song phương.
26-10-2006: Kết thúc phiên đàm phán đa phương cuối cùng, Ban Công tác chính thức thông qua toàn bộ hồ sơ gia nhập WTO của Việt Nam. Tổng cộng đã có 14 phiên họp đa phương từ tháng 7-1998 đến tháng 10-2006.
7-11-2006: WTO triệu tập phiên họp đặc biệt của Đại Hội đồng tại Geneva để chính thức kết nạp Việt Nam vào WTO.
(A.P., Sở Ngoại vụ TPHCM, ngày 7-11-2006)
Sự kiện nước ta gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) chứng tỏ sự thừa nhận của cộng đồng quốc tế đối với những thay đổi tích cực, to lớn và toàn diện trong 20 năm thực hiện đường lối đổi mới đúng đắn của Ðảng ta. Sự kiện này có ý nghĩa sâu sắc về chính trị, kinh tế, xã hội; khẳng định vị thế ngày càng cao của đất nước ta trên thế giới; thể hiện rõ ý chí của toàn Ðảng, toàn dân ta quyết tâm xây dựng một quốc gia độc lập tự chủ, ổn định về chính trị, đồng thuận về xã hội, xứng đáng là một trong những nền kinh tế phát triển năng động, sẵn sàng thực hiện các cam kết chung với cộng đồng quốc tế.
Những chính sách giữ gìn và phát triển văn hóa
Các văn kiện từ Ðại hội lần thứ VI đến Ðại hội lần thứ X của Ðảng đã thể hiện rất rõ quá trình đổi mới tư duy của Ðảng trong lý luận và thực tiễn, với một hệ thống gồm nhiều vấn đề, liên quan trực tiếp đến tất cả các lĩnh vực của xã hội, con người Việt Nam, trong đó có việc đặt ra, giải quyết quan hệ giữa văn hóa và phát triển. Trong quá trình đó, bám sát thực tiễn và tổng kết thực tiễn đổi mới của đất nước, Ðảng ta đã kế thừa, bổ sung, phát triển những quan điểm cơ bản được trình bày trong Ðề cương văn hóa Việt Nam (1943) - văn kiện đầu tiên có tính chất cương lĩnh của Ðảng ta về văn hóa, qua đó xây dựng các quan niệm mới, toàn diện, ngày càng sâu sắc về vị trí, vai trò của văn hóa trong đời sống xã hội và đối với phát triển. Ðó là bước tiến rất quan trọng trong tư duy có tính chiến lược của Ðảng ta đối với sự phát triển bền vững của đất nước.
Đại hội Đảng lần thứ VI
Ðại hội Đảng lần thứ VI (tháng 12/1986) tiên phong cho sự đổi mới của đất nước, những vấn đề về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội được xem là quan trọng và cấp thiết lúc này đòi hỏi phải có những phương hướng chính sách phù hợp vì sự phát triển của quốc gia và lợi ích của nhân dân.
Trước những khó khăn, thách thức, những biến động phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, Đảng luôn kiên định xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách đổi mới đúng đắn trên nhiều lĩnh vực trong đó có lĩnh vực văn hóa, chỉ đạo hoạch định các chính sách văn hóa nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Văn kiện Ðại hội Đảng lần thứ VI nhấn mạnh: "Không có hình thái tư tưởng nào có thể thay thế được văn học và nghệ thuật trong việc xây dựng tình cảm lành mạnh, tác động sâu sắc vào việc đổi mới nếp nghĩ, nếp sống của con người".
Về chủ trương, đường lối mà Đảng xác định phải xây dựng là nền văn hóa với đặc trưng dân tộc, hiện đại, nhân văn. Và có những định hướng phát triển về văn hóa. Công tác văn hóa, văn học, nghệ thuật phải được nâng cao chất lượng, mỗi hoạt động văn hóa văn nghệ đều phải tính đến hiệu quả xã hội, tác động tốt đến tư tưởng, tâm lý, tình cảm, nâng cao trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa và trình độ thẩm mỹ của nhân dân. Quan tâm đáp ứng nhu cầu, thị hiếu lành mạnh của các tầng lớp xã hội và các lứa tuổi. Xây dựng các hệ thống thư viện, nhà văn hóa, câu lạc bộ, viện bảo tàng, nhà truyền thống từ Trung ương đến địa phương. Công tác xuất bản, công tác điện ảnh và công tác phát hành sách, báo, phim ảnh cần được quản lí chặt chẽ, nâng cao chất lượng thông tin, đưa các phương tiện truyền thông, về các vùng sâu vùng xa. Cải tiến chính sách đối với người làm công tác nghệ thuật chuyên nghiệp, đãi ngộ xứng đáng đối với lao động nghệ thuật, động viên, khuyến khích các tài năng. Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết cho văn hóa và nghệ thuật, giữ gìn và tôn trọng những di tích lịch sử, văn hóa. Hoàn thành việc sưu tầm vốn văn hóa và nghệ thuật các dân tộc, khuyến khích tìm tòi và thể nghiệm, bảo đảm các đơn vị nghệ thuật hoạt động ổn định và ngày một nâng cao chất lượng, ngăn chặn khuynh hướng thương mại và các hiện tượng tiêu cực khác. Đại hội đã có những bước tiến đáng kể trong việc định hướng phát triển văn hóa.
Ðại hội Đảng lần thứ VII
Sau 5 năm thực hiện công cuộc đổi mới bên cạnh việc đạt được những thành tựu nhất định, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng về kinh tế xã hội, vượt qua những khó khăn trước mắt thì cũng phải nhìn nhận rằng chúng ta chỉ mới đổi mới hình thức, tình hình kinh tế và đời sống của nhân dân vẫn còn nhiều khó khăn, đất nước vẫn trong tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội cho nên từ tháng 6 đến tháng 12 năm 1991, nước ta đã tiến hành Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII do đồng chí Võ Chí Công, Ủy viên Bộ chính trị Ban Chấp hành Trung ương (khóa VI) trình bày. Đại hội diễn ra trong bối cảnh quốc tế và trong nước có những diễn biến phức tạp, đó là sự khủng hoảng trầm trọng của chế độ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, sự chống phá nhiều phía vào chủ nghĩa xã hội, vào chủ nghĩa Mác – Lênin và Đảng Cộng Sản, những âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch quốc tế hòng xóa bỏ chủ nghĩa xã hội hiện thực và sự hoang mang dao động của một bộ phận những người cộng sản trên thế giới đã tác động đến tư tưởng và tình cảm của một bộ phận cán bộ, Đảng viên và nhân dân Việt Nam.
Thông qua Đại hội này, Đảng ta đã đưa ra một số đường lối, phương hướng, chủ trương, chính sách… về các mặt trong đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội để từ đó từng bước đưa đất nước phát triển đi lên. Bên cạnh việc phát huy những định hướng từ Đại hội VI thì đại hội VII cũng có chính sách mới và cụ thể hơn.
Nâng cao đời sống văn hóa và tinh thần của nhân dân, xây dựng nền văn hóa mới, lối sống mới, con người mới, bắt đầu từ mỗi gia đình. Chọn lọc, giữ gìn và nâng cao tinh hoa văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và của từng dân tộc. Bảo tồn và phát triển ngôn ngữ và chữ viết của các dân tộc. Tiếp thu những giá trị văn hóa, khoa học của nhân loại. Dùng nhiều hình thức sinh động giáo dục lý tưởng, trau dồi đạo đức, bồi dưỡng tình cảm, tâm hồn và thẩm mỹ, nâng cao trình độ hiểu biết và hưởng thụ văn hóa, nghệ thuật của nhân dân, ngăn chặn các văn hóa phẩm và hoạt động nghệ thuật gây độc hại. Hình thành nếp sống và tâm lý xã hội có sức đề kháng chống những lề thói, tư tưởng lạc hậu, lối sống thấp hèn, suy đồi đạo đức. Bảo vệ nhân phẩm của phụ nữ.
Khuyến khích tự do sáng tạo các giá trị văn hóa, vun đắp các tài năng. Giữ gìn và nâng cao các loại hình văn hóa, nghệ thuật truyền thống, bảo vệ và tôn t