Sau 11 năm nộp đơn gia nhập WTO, đến tháng 11/2006 thì Việt Nam đã chính thức là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế gới. Song, để làm được điều này, chúng ta đã phải cam kết rất nhiều và từng bước sẽ hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Theo lộ trình, chúng ta từng bước phá bỏ những rào cản về thuế quan và phi thuế quan, mở cửa rộng hơn để các nước khác có thể vào đầu tư một cách thuận tiện và công bằng hơn. Do đó, chúng ta đang đứng trước nhiều thách thức to lớn mà chúng ta phải vược qua. Vấn đề NSNN, vấn đề lãi suất, lạm phát, tỷ giá, mà chúng ta phải đối mặt. Vì vậy, trên gốc độ quản lý vĩ mô, điều hành chính sách tiền tệ để đạt được những mục tiêu kinh tế xã hội đề ra là cả về khoa học lẫn nghệ thuật.
Lãi suất với tư cách là một trong những công cụ của chính sách tiền tệ được nhiều nhà kinh tế quan tâm nghiên cứu và từ lâu được nhiều quốc gia trên thế giới sử dụng như một công cụ hữu hiệu điều tiết nền kinh tế. Đặc biệt là trong cơ chế thị trường lãi suất trở thành công cụ đắc lực để NHTW (ngân hàng trung ương) thực thi chính sách tiền tệ nhằm điều tiết các mối quan hệ giữa tiết kiệm và đầu tư lạm phát và tăng trưởng kinh tế . Trong từng thời kỳ nhất định, việc thi hành một chính sách lãi suất thích hợp là vô cùng phức tạp mà vai trò đó thuộc ngân hàng nhà nước.
28 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2824 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách lãi suất của ngân hàng Nhà nước từ sau khi gia nhập WTO đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ TÀI:
CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CỦA NHTW TỪ SAU KHI GIA NHẬP WTO ĐẾN NAY
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sau 11 năm nộp đơn gia nhập WTO, đến tháng 11/2006 thì Việt Nam đã chính thức là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế gới. Song, để làm được điều này, chúng ta đã phải cam kết rất nhiều và từng bước sẽ hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Theo lộ trình, chúng ta từng bước phá bỏ những rào cản về thuế quan và phi thuế quan, mở cửa rộng hơn để các nước khác có thể vào đầu tư một cách thuận tiện và công bằng hơn. Do đó, chúng ta đang đứng trước nhiều thách thức to lớn mà chúng ta phải vược qua. Vấn đề NSNN, vấn đề lãi suất, lạm phát, tỷ giá,…mà chúng ta phải đối mặt. Vì vậy, trên gốc độ quản lý vĩ mô, điều hành chính sách tiền tệ để đạt được những mục tiêu kinh tế xã hội đề ra là cả về khoa học lẫn nghệ thuật.
Lãi suất với tư cách là một trong những công cụ của chính sách tiền tệ được nhiều nhà kinh tế quan tâm nghiên cứu và từ lâu được nhiều quốc gia trên thế giới sử dụng như một công cụ hữu hiệu điều tiết nền kinh tế. Đặc biệt là trong cơ chế thị trường lãi suất trở thành công cụ đắc lực để NHTW (ngân hàng trung ương) thực thi chính sách tiền tệ nhằm điều tiết các mối quan hệ giữa tiết kiệm và đầu tư lạm phát và tăng trưởng kinh tế ... Trong từng thời kỳ nhất định, việc thi hành một chính sách lãi suất thích hợp là vô cùng phức tạp mà vai trò đó thuộc ngân hàng nhà nước.
Xuất phát từ những vấn đề mang tính thời sự của lãi suất trên cơ sở môn học và để cùng nhau phân tích và mổ xẻ vấn đề, nhóm 8 chọn đề “Chính sách lãi suất của NHNN từ sau khi gia nhập WTO đến nay”.
Vì có những hạn chế nhất định nên trong quá trình nghiên cứu sẽ trong tránh khỏi những thiếu sót. Nhóm thực hiện rất mong sự đóng góp của các anh chị và Cô để đề tài hoàn thiện hơn.
CƠ SỞ LÝ LUẬN
Khái niệm
Lãi suất
Theo Samuelson, lãi suất là giá mà người đi vay phải trả cho người cho vay để được sử dụng một khoản tiền trong một thời gian xác định. Nó là giá cả của việc mua bán quyền sử dụng tiền trong một thời gian xác định. Trong nền kinh tế thị trường, giá cả của hàng hoá được hình thành là kết quả của sự vận động giữa cung và cầu... Quyền sử dụng vốn là một loại hàng hoá đặc biệt và kết quả của sự vận động giữa cung và cầu về vốn chính là lãi suất.
Một đồng tiền bỏ ra hôm nay sẽ tạo ra một giá trị lớn hơn trong tương lai do đồng tiền đó được trả lãi. Chính vì vậy, lãi suất là một biến số làm cân bằng giá trị của một lượng tiền nhận được trong tương lai với giá trị của nó ở thời điểm hiện tại, hay còn gọi là lãi suất hoàn vốn. Lãi suất hoàn vốn là thước đo chính xác nhất của khái niệm "lãi suất" mà người ta thường dùng. Do đó phép đo lãi suất chính là phép đo lãi suất hoàn vốn. Tuỳ theo các công cụ tài chính mà chúng ta có các phép đo khác nhau.
Lãi suất là giá cả của tiền tệ và là tỷ lệ giữa số lợi tức phải trả cho một khoản vay và số tiền gốc cho vay tính cho cùng một thời kỳ nào đó (năm, tháng, ngày).
Lãi suất danh nghĩa & Lãi suất thực
Lãi suất danh nghĩa : Là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ vào thời điểm nghiên cứu hay nói cách khác là loại lãi suất chưa loại trừ đi tỷ lệ lạm phát .
Lãi suất thực tế: là lãi suất được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi về lạm phát .Hay nói cách khác là lãi suất đã loại trừ đi tỷ lệ lạm phát.
Lãi suất cơ bản
Lãi suất cơ bản là lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh (Điều 9 Luật NHNN 06/1997/QHX)
Lãi suất chiết khấu
Lãi suất tái chiết khấu là hình thức lãi suất tái cấp vốn được áp dụng khi Ngân hàng Nhà nước tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác cho các tổ chức tín dụng. (Điều 9 Luật NHNN 06/1997/QHX)
Lãi suất tái cấp vốn
Tái cấp vốn: Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Nhà nước nhằm cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho tổ chức tín dụng.
Ngân hàng Nhà nước quy định và thực hiện việc tái cấp vốn cho tổ chức tín dụng theo các hình thức sau đây:
a) Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá;
b) Chiết khấu giấy tờ có giá;
c) Các hình thức tái cấp vốn khác.
(Theo Điêu 11 Luật NHNN số 46/2010/QH12)
Lãi suất tái cấp vốn là lãi suất do Ngân hàng Nhà nước áp dụng khi tái cấp vốn. (Điều 9 Luật NHNN 06/1997/QHX)
Lãi suất thực dương (âm)
Lãi suất thực dương là lãi suất tiền cho vay lớn hơn lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền gửi phải cao hơn mức lạm phát.
Mục tiêu của chính sách lãi suất
Mục tiêu đầu tiên và quan trọng nhất của phần lớn Ngân hàng Trung ương (NHTƯ) của các nước trên thế giới cũng như NHNN Việt Nam là ổn định giá trị đồng tiền của quốc gia - thông qua việc kiểm soát lạm phát. Trong đó, lãi suất là một trong những công cụ điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) của NHTƯ để đạt được mục tiêu tôn chỉ đó.
Chính sách lãi suất là một công cụ của CSTT. Vì vậy mục tiêu theo đuổi của chính sách lãi suất phải nằm trong mục tiêu của CSTT, quá trình hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất trong từng thời kỳ luôn phải đảm bảo mục tiêu bao trùm của CSTT là ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Điều đó có nghĩa, sự thay đổi cơ chế điều hành lãi suất không được gây ra những cú sốc thị trường, đảm bảo tính ổn định và thực hiện các mục tiêu kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh tế. Đây là nguyên tắc cơ bản trong hoạch định chính sách lãi suất từng thời kỳ.
Cơ chế truyền dẫn của chính sách lãi suất
Mô hình số nhân tiền tệ
Số nhân tiền (kM) là hệ số phản ánh khối lượng tiền được tạo ra từ một đơn vị tiền mạnh.
Tiền mạnh - H (tiền cơ sở) bao gồm tiền mặt ngoài ngân hàng và tiền dự trữ trong ngân hàng.
H = Tiền mặt ngoài NH + dự trữ trong NH
M1= Tiền mặt ngoài NH + tiền gửi SD séc
Nếu số nhân của tiền là kM, khi phát hành vào nền kinh tế H đồng, khối lượng tiền sẽ là:
Lãi suất chiết khấu: là lãi suất mà các ngân hàng trung gian phải trả khi vay tiền từ NHTW.
Tăng lãi suất chiết khấu làm giảm cung tiền.
Giảm lãi suất chiết khấu làm tăng cung tiền.
Tăng Lãi suất chiết khấu ( Giảm Cung tiền ( Lãi suất thị trường tăng ( Đầu tư giảm ( Tổng cầu giảm ( Sản lượng giảm
Giảm Lãi suất chiết khấu ( Tăng lượng cung tiền ( Lãi suất thị trường giảm ( Đầu tư tăng ( Tổng cầu tăng ( Sản lượng tăng
Mối quan hệ giữa lãi suất với một số yếu tố
Mối quan hệ giữa chính sách lãi suất với lạm phát
Chính sách lãi suất có quan hệ trực tiếp theo tương quan tỷ lệ nghịch tới xu hướng và động thái lạm phát của một nước. Lãi suất càng thấp, đồng tiền càng ‘rẻ”, càng kích thích mở rộng đầu tư và tiêu dùng, do đó, càng làm tăng áp lực lạm phát tiền tệ và lạm phát cơ cấu. Vì vậy, khi lạm phát gia tăng, chính phủ nào cũng phải có chính sách đề cao bản tệ, mà tiêu biểu là tuân thủ chính sách lãi suất thực dương .
Nâng lãi suất sẽ khuyến khích tiết kiệm cả trong đầu tư và trong tiêu dùng, hạn chế tích trữ - đầu cơ, làm tăng tiền gửi và sử dụng tiết kiệm các khoản vay, làm tăng cung và giảm cầu tín dụng, thu hẹp nhập khẩu. Mức lãi suất càng cao hơn mức lạm phát thì tác động tức thời của nó đến việc giảm phát càng rõ rệt.
Tuy nhiên, lãi suất quá cao sẽ thu hẹp đầu tư xã hội, dẫn đến tăng đình trệ, suy thoái, thất nghiệp và phá sản. Ngoài ra, mức lãi suất cho vay cao "ở đầu vào" sẽ được người vay - doanh nghiệp tự động chuyển vào giá cả hàng hóa và dịch vụ "ở đầu ra", từ đó làm tăng mức giá xã hội chung, tức lại làm tăng lạm phát... Thêm nữa, nguyên tắc thị trường đòi hỏi tiền huy động được phải sinh lợi thông qua cho vay lại hoặc đầu tư, nếu không muốn gây áp lực lạm phát tương lai bởi gánh nặng nợ lãi huy động cho ngân hàng và ngân sách nhà nước.
Vì thế, mức lãi suất thông thường trong nền kinh tế bình thường luôn được khuyến nghị tuân theo bất phương trình sau:
L1<L2<L3<L4, trong đó:
L1: mức lạm phát;
L2: lãi tiền gửi;
L3: lãi cho vay và
L4: lợi nhuận bình quân xã hội trong cùng kỳ hạn lãi suất.
Nhiệm vụ của Nhà nước là lựa chọn mức "trần" lãi suất hoặc sử dụng “lãi suất cơ bản” sao cho phù hợp điều kiện cụ thể và mục tiêu vĩ mô kinh tế - xã hội của mình, đồng thời, phải luôn tính đến và có những biện pháp khắc phục hậu quả mặt trái luôn song hành của cả việc nâng cao hay hạ thấp lãi suất, nếu không, sẽ vấp phải vòng xoáy mới của lạm phát tuỳ theo mức độ phản ứng cuả các chủ thể kinh tế…
Mối quan hệ giữa lãi suất với tỷ giá
Lãi suất cao còn có thể làm gia tăng lượng cung tiền từ nước ngoài, từ đó làm tăng áp lực lạm phát tiền tệ ngoại nhập. Điều này càng rõ nét và nguy hiểm trong bối cảnh tự do hoá tài chính cao theo cam kết hội nhập trong các tổ chức kinh tế quốc tế (vì nếu lãi suất cao thì dòng vốn nước ngoài đổ vào gửi hoặc cho vay trong nước càng cao nhằm hưởng chênh lệch lãi suất so với thị trường lãi suất khu vực và quốc tế).
TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT
Lãi suất ở thời kỳ thực thi cơ chế quản lý nền kinh tế theo phương thức quản lý kế hoạch hóa tập trung (trước năm 1988):
Đặc trưng cơ bản của lãi suất thời kỳ thực thi chế độ quản lý nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung kéo dài, đó là áp dụng chính sách lãi suất bao cấp khá nặng nề, lãi suất đựơc xây dựng thoát ly lãi suất của nền kinh tế thế giới. Dẫn đến lãi suất thực thi trong thời kỳ này với tình trạng “lãi giả và lỗ thật” làm cho ngân hàng không thể bảo toàn vốn của mình do lạm phát tăng cao và lãi suất thực là số âm, vì tỷ lệ lạm phát đã lớn hơn lãi suất danh nghĩa.
Lãi suất thời kỳ nền kinh tế bắt đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước (từ năm 1988 đến 2006).
Bước ngoặt trong tiến trình đổi mới, cải cách nền kinh tế VN trong lĩnh vực ngân hàng bắt đầu bằng Nghị định 53/HĐBT ngày 26.3.1988 của HĐBT (nay là Chính phủ). Nội dung cơ bản của Nghị định 53/HĐBT đó là “Đã hình thành việc phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng chuyên doanh, làm tiền đề cho hai pháp lệnh về: Ngân hàng Nhà nước và pháp lệnh về ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính ngày 23.5.1989 của Hội đồng nhà nước. Hai pháp lệnh này có hiệu lực từ ngày 1.10.1990 với nội dung chủ yếu: Xóa hẳn mô hình ngân hàng một cấp và xây dựng mô hình ngân hàng hai cấp phù hợp với mô hình của ngân hàng các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Trong đó Ngân hàng Nhà nước VN thực hiện chức năng ngân hàng của các ngân hàng, quản lý hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng trong nền kinh tế, còn ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng, thực hiện chức năng kinh doanh trực tiếp về lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và ngân hàng trong nền kinh tế. Từ Pháp lệnh ngân hàng có hiệu lực 1.10.1990, đến ngày 1.10.1998 Luật ngân hàng nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng ra đời và có hiệu lực cho đến nay đã tạo ra hành lang pháp lý quan trọng cho hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế.
Nhìn lại diễn biến của chính sách lãi suất qua từng thời kỳ, cho chúng ta thấy những bước phát triển của mỗi thời kỳ tương xứng với sự phát triển của nền kinh tế. Quá trình tự do hóa lãi suất của Việt Nam được thể hiện tổng quát như sau:
Cơ chế thức thi chính sách lãi suất cố định (1989-5.1992):
Đây là cơ chế lãi suất đã có từ trước nhưng có sự thay đổi căn bản, theo nguyên tắc của việc xác định lãi suất là: Bảo toàn được vốn và có lãi, được áp dụng ở các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế. Cơ chế lãi suất này được điều chỉnh theo biến động của chỉ số giá, đặc biệt là lãi suất ngoại tệ được áp dụng theo mức lãi suất của thị trường tiền tệ quốc tế. Thực tế vận hành trong một thời gian (1989-1992), cơ chế lãi suất thời kỳ này đã bắt đầu phát huy tác dụng, là bước chuyển của cơ chế lãi suất thực âm sang cơ chế lãi suất thực dương.
Cơ chế điều hành khung lãi suất (6.1992-1995):
Đặc trưng của cơ chế này là Ngân hàng Nhà nước điều hành cơ chế lãi suất theo khung lãi suất, quy định rõ sàn lãi suất tiền gửi và trần lãi suất cho vay đối với nền kinh tế. Các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng căn cứ khung lãi suất của ngân hàng thương mại để đưa ra các lãi suất thích hợp cho mình, thực chất là bước chuyển đổi căn bản từ cơ chế lãi suất âm sang cơ chế lãi suất dương, đảm bảo cho các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng kinh doanh có hiệu quả, đây là cơ chế lãi suất khởi đầu cho quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam.
Cơ chế điều hành lãi suất trần (1996-7.2000):
Nét cơ bản của cơ chế điều hành trần lãi suất, đó là Ngân hàng Nhà nước đã thay đổi căn bản cơ chế điều hành linh hoạt trần lãi suất, bước đầu đã thực hiện tự do hóa lãi suất huy động (lãi suất đầu vào của ngân hàng thương mại) và linh hoạt trần lãi suất cho vay (lãi suất đầu ra). Cơ chế lãi suất này đã góp phần duy trì sự tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định sức mua của VND trong sự tương quan của các đồng tiền trong khu vực do có khủng hoảng tiền tệ năm 1997-1998 ở các nước Đông Nam Á.
Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ (8.2000-5.2002):
Nội dung của cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ là Ngân hàng Nhà nước đã điều hành cơ chế lãi suất theo luật ngân hàng để thay thế cho cơ chế lãi suất trần. Lãi suất cơ bản và biên độ được công bố định kỳ hàng tháng, trường hợp cần thiết, Ngân hàng Nhà nước sẽ công bố điều chỉnh kịp thời.
Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ, về cơ bản các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng được ấn định lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn trong nước của từng loại ngoại tệ. Theo cơ chế lãi suất này cho thấy Ngân hàng Nhà nước VN đã quyết tâm đổi mới chính sách lãi suất theo hướng tự do hóa và từng bước gắn lãi suất trong nước vào thị trường khu vực và thế giới.
Cơ chế lãi suất thỏa thuận (6.2002 – 2008):
Trong thực tế, cơ chế lãi suất này được Ngân hàng Nhà nước chuyển đổi từng bước bắt đầu từ tháng 5.2001 áp dụng cho hình thức vay bằng ngoại tệ, tiếp theo 5.2002 là áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng trong nước. Nhìn một cách tổng quát thì quá trình thực thi cơ chế tự do hóa lãi suất ở VN bước đầu đã có kết quả nhất định.
ĐÁNH GIÁ CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT
Cơ chế điều hành
NHNN có 2 cơ chế điều hành lãi suất:
Quy định lãi suất trần: NHNN sẽ công bố Lãi suất cơ bản và tỷ lệ lãi suất được phép cho vay của các Ngân hàng (ví dụ: không được cao hơn 150% LSCB)
Cơ chế tự thỏa thuận: NHTM sẽ được tự thỏa thuận mức lãi suất cho vay với khách hàng.
Từ năm 2007 đến nay có thể nói cơ chế điều hành lãi suất của NHNN qua 3 giai đoạn:
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Giàu cho biết trên thị trường tiền tệ, có 3 nhóm lãi suất chủ yếu:
Một là lãi suất kinh doanh (huy động, cho vay…) của tổ chức tín dụng được hình thành trên cơ sở cung -cầu vốn thị trường, lạm phát, mức độ rủi ro và sự điều tiết của ngân hàng trung ương;
Hai là lãi suất vay mượn ngắn hạn lẫn nhau giữa các tổ chức tín dụng trên thị trường nội tệ liên ngân hàng, chịu tác động chủ yếu của cung- cầu vốn khả dụng của tổ chức tín dụng và điều tiết của lãi suất chính sách Ngân hàng Trung ương;
Ba là lãi suất chính sách của Ngân hàng Trung ương (lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu…) điều tiết trực tiếp lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng và định hướng lãi suất thị trường, phù hợp với các mục tiêu của chính sách tiền tệ.
(Trích: Ngày 25/12/2010, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội tổ chức phiên họp mời Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam báo cáo giải trình về thực trạng và những giải pháp xung quanh vấn đề lãi suất hiện nay.)
Năm 2007
Mục tiêu
Tổng sản phẩm trong nước tăng khoảng 8.0% - 8.5%
Chỉ số giá tiêu dùng tăng khoảng 6.5% - 7%,
Bội chi ngân sách ở mức 5% GDP
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội là 43.4% GDP
Thành tựu kinh tế
Năm 2007 là năm đầu tiên Việt nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) nên có nhiều tác động tích cực và nhiều thách thức với thị trường trong nước. Mặc dù chỉ số giá tiêu dùng đã tăng lên 2 chữ số, CPI ở mức 12,61% so với tháng 12 năm 2006 (cao nhất trong vòng 12 năm qua) nhưng nhiều chỉ tiêu đặt ra đều đạt và vượt mức kế hoạch. Kinh tế đất nước tăng trưởng nhanh, GDP đạt 8,5%, mức cao nhất trong 10 năm trở lại đây.
Nhiều ngành, lĩnh vực tiếp tục phát triển, góp phần vào tăng trưởng chung. Giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 17,1%, cao hơn mức kế hoạch; các ngành dịch vụ phát triển khá, nhất là thương mại bán lẻ; hoạt động ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông mở rộng hơn; xuất khẩu tăng trưởng cao, đạt hơn 48,3 tỉ USD; thu hút vốn đầu tư nước ngoài đạt mức kỷ lục (hơn 20 tỉ USD); thị trường chứng khoán phát triển mạnh, thu hút trên 5 tỉ USD, nhiều doanh nghiệp nhà nước lớn được tiến hành cổ phần hoá …
Nguồn: Tổng Cục Thống Kê
Chính sách lãi suất
Trên cơ sở các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Quốc hội và Chính phủ, các dự báo đánh giá của NHNN về lạm phát và tình hình kinh tế vĩ mô năm 2007, NHNN điều hành chính sách tiền tệ theo hướng "thắt chặt" tiền tệ để rút mạnh tiền từ lưu thông về, giảm tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng nhằm kiểm soát lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Ổn định lãi suất mức lãi suất cơ bản là 8,25%/năm,
Lãi suất tái cấp vốn là 6,5%/năm.
Lãi suất chiết khấu là 4,5%/năm.
Nguồn: Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam
Riêng đối với lãi suất tiền gửi USD của pháp nhân tại TCTD, kể ngày 01/03/2007, NHNN bỏ quy định trần lãi suất tiền gửi bằng USD đối với pháp nhân, các TCTD đã được phép ấn định lãi suất tiền gửi bằng USD của pháp nhân theo cơ chế thoả thuận, phù hợp với nhu cầu vốn kinh doanh, cung cầu vốn ở thị trường trong nước và lãi suất thị trường quốc tế.
Lý do chủ yếu của việc giữ ổn định lãi suất này là nhằm phát tín hiệu định hướng ổn định lãi suất thị trường để hạn chế tác động tăng lãi suất cho vay và cộng hưởng làm tăng chi phí sản xuất, từ đó góp phần kiểm soát lạm phát. Đối với việc kiểm soát mức tăng tiền tệ để kiềm chế lạm phát, thì chủ yếu sử dụng nghiệp vụ thị trường mở, dự trữ bắt buộc, còn lãi suất chỉ đóng vai trò bổ trợ cho các công cụ này.
Đánh giá chính sách lãi suất
10 tháng đầu năm 2007, lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng có xu hướng giảm từ 1-2,3%/năm so với cuối năm 2006, do vốn khả dụng toàn hệ thống dư thừa. Tuần đầu của nửa cuối tháng 11/2007, lãi suất thị trường liên ngân hàng tăng đột biến ở một vài thời điểm, có thời điểm lãi suất thị trường liên ngân hàng qua đêm ở mức 10-12,6%, do vốn khả dụng của một số NHTM Nhà nước cao, giao dịch nội tệ liên ngân hàng tăng đột biến ở một vài thời điểm, có thời điểm lãi suất thị trường liên ngân hàng qua đêm ở mức 10-12,6%, do vốn khả dụng của một số NHTM Nhà nước giảm với nguyên nhân chủ yếu là các tổ chức kinh tế và KBNN rút tiền gửi thanh toán. Để ổn định thị trường nội tệ liên ngân hàng và tránh tác động làm tăng mặt bằng lãi suất thị trường, NHNN đã thực hiện các phiên chào mua giấy tờ có giá với kỳ hạn 7 ngày trên nghiệp vụ thị trường mở để hỗ trợ cho các TCTD
NHNN thực hiện chào mua giấy tờ có giá theo phương thức đấu thầu khối lượng và công bố lãi suất ở mức 8% nhằm hạn chế tình trạng bỏ thầu lãi suất không phù hợp với lãi suất thị trường, gây tâm lý phản ứng tác động không thuận đối với điều hành CSTT của NHNN. Vì vậy, tình trạng thiếu hụt vốn khả dụng của NHTM đã cơ bản được khắc phục, lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng đã ổn định và có xu hướng giảm khoảng 0,5-2%/năm so với cuối tháng 11/2007.
Trên cơ sở hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất đồng bộ với việc phát triển thị trường tiền tệ, phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện thực tiễn Việt Nam. Trong năm 2007, nguồn ngoại tệ từ đầu tư gián tiếp nước ngoài vào rất lớn, thanh khoản các ngân hàng thừa, nên tăng dự trữ bắt buộc từ 5% lên 10% -> tăng lãi suất là hợp lý .
Tuy nhiên, mặt hạn chế :
Về nguyên nhân chủ quan do điều hành giá yếu, dự báo sai, điều hành chính sách tiền tệ chưa tốt. "Việc lúng túng trong điều hành thị trường tiền tệ cũng là một lý do khiến tốc độ tăng giá tiêu dùng (CPI) vượt quá tốc độ tăng GDP" (đánh giá của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũ