1. Lý do chọn đề tài
Sau khi tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế và thoát khỏi cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 nền kinh tế Việt Nam đang trên đà tăng trưởng. Mục tiêu đề ra cho kế hoạch 5 năm (2006-2010) là tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới cuối năm 2007 đã làm cho nền kinh tế Việt Nam nói riêng và các nước khác trên thế giới nói chung chịu ảnh hưởng nặng nề. Có thể nói, giai đoạn từ năm 2006 đến nay là giai đoạn chứng kiến nhiều diễn biến phức tạp của nền kinh tế Việt Nam. Từ giai đoạn tăng trưởng nhanh (năm 2006 đến cuối năm 2007), đến giai đoạn rơi vào suy thoái (cuối năm 2007 đến đầu năm 2009) và bắt đầu chứng kiến sự phục hồi từ quý II năm 2009 đến nay. Song song với những thay đổi phức tạp của nền kinh tế thì hàng loạt chính sách vĩ mô đã được đưa ra, trong đó không thể không kể đến các chính sách tài khóa đã được đưa vào thực hiện nhằm ổn định và tăng trưởng kinh tế. Để tìm hiểu rõ hơn về việc thực hiện và vai trò của các chính sách tài khóa, nhóm quyết định chọn đề tài “Chính sách tài khóa Việt Nam giai đoạn 2006 đến nay” làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của đề tài là nêu lên những chính sách tài khóa được thực hiện ở Việt Nam giai đoạn từ năn 2006 đến nay. Qua đó thấy được các tác động của những chính sách này lên nền kinh tế Việt Nam, đánh giá những mặt tích cực cũng như tiêu cực của chính sách tài khóa trong giai đoạn này. Đồng thời đưa ra những giải pháp cho việc thực hiện chính sách tài khóa có được hiệu quả hơn.
3. Câu hỏi nghiên cứu
a. Những chính sách tài khóa nào đã được thực hiện trong giai đoạn từ năm 2006 đến nay?
b. Ảnh hưởng của các chính sách tài khóa đó lên nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2006 đến nay là gì?
c. Những kiến nghị chính sách nào cho việc thực hiện chính sách tài khóa đạt hiệu quả hơn?
16 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 11847 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Chính sách tài khóa Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2006 đến nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2006 ĐẾN NAY
Lời mở đầu
Lý do chọn đề tài
Sau khi tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế và thoát khỏi cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 nền kinh tế Việt Nam đang trên đà tăng trưởng. Mục tiêu đề ra cho kế hoạch 5 năm (2006-2010) là tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới cuối năm 2007 đã làm cho nền kinh tế Việt Nam nói riêng và các nước khác trên thế giới nói chung chịu ảnh hưởng nặng nề. Có thể nói, giai đoạn từ năm 2006 đến nay là giai đoạn chứng kiến nhiều diễn biến phức tạp của nền kinh tế Việt Nam. Từ giai đoạn tăng trưởng nhanh (năm 2006 đến cuối năm 2007), đến giai đoạn rơi vào suy thoái (cuối năm 2007 đến đầu năm 2009) và bắt đầu chứng kiến sự phục hồi từ quý II năm 2009 đến nay. Song song với những thay đổi phức tạp của nền kinh tế thì hàng loạt chính sách vĩ mô đã được đưa ra, trong đó không thể không kể đến các chính sách tài khóa đã được đưa vào thực hiện nhằm ổn định và tăng trưởng kinh tế. Để tìm hiểu rõ hơn về việc thực hiện và vai trò của các chính sách tài khóa, nhóm quyết định chọn đề tài “Chính sách tài khóa Việt Nam giai đoạn 2006 đến nay” làm đề tài nghiên cứu.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của đề tài là nêu lên những chính sách tài khóa được thực hiện ở Việt Nam giai đoạn từ năn 2006 đến nay. Qua đó thấy được các tác động của những chính sách này lên nền kinh tế Việt Nam, đánh giá những mặt tích cực cũng như tiêu cực của chính sách tài khóa trong giai đoạn này. Đồng thời đưa ra những giải pháp cho việc thực hiện chính sách tài khóa có được hiệu quả hơn.
Câu hỏi nghiên cứu
Những chính sách tài khóa nào đã được thực hiện trong giai đoạn từ năm 2006 đến nay?
Ảnh hưởng của các chính sách tài khóa đó lên nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2006 đến nay là gì?
Những kiến nghị chính sách nào cho việc thực hiện chính sách tài khóa đạt hiệu quả hơn?
Chính sách tài khóa
Một số khái niệm:
a. Chính sách tài khóa: là các chính sách của Chính phủ nhằm tác động lên các định hướng phát triển của nền kinh tế thông qua những thay đổi trong chi tiêu chính phủ và thuế khóa.
b.Chính sách tài khóa mở rộng: là chính sách tăng cường chi tiêu của chính phủ hoặc giảm bớt nguồn thu từ thuế hoặc kết hợp cả 2. Việc này sẽ dẫn đến thâm hụt ngân sách nặng nề hơn hoặc thặng dư ngân sách ít hơn nếu trước đó có ngân sách cân bằng.
c.Chính sách tài khóa trung lập: là chính sách cân bằng ngân sách. Chi tiêu của chính phủ hoàn toàn được cung cấp do nguồn thu từ thuế và nhìn chung kết quả có ảnh hưởng trung tính lên mức độ của các hoạt động kinh tế.
d.Chính sách tài khóa thu hẹp:là chính sách trong đó chi tiêu của chính phủ ít đi thông qua việc tăng thu từ thuế hoặc giảm chi tiêu hoặc kết hợp cả 2. Việc này sẽ dẫn đến thâm hụt ngân sách ít đi hoặc thặng dư ngân sách lớn lên so với trước đó, hoặc thặng dư nếu trước đó có ngân sách cân bằng.
Ý nghĩa của việc thực hiện chính sách tài khóa:
Nội dung cơ bản của Chính sách tài khóa là kiểm soát thu chi ngân sách do những khoản thu chi này có tác động trực tiếp đến tăng trưởng, lạm phát và nhiều chỉ số kinh tế vĩ mô khác. Vì thế, Chính sách tài khóa được coi là một trong những chính sách quan trọng đối với việc ổn định và thực thi chính sách kinh tế vĩ mô. Một Chính sách tài khóa vững mạnh sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và làm cơ sở để các doanh nghiệp đưa ra các quyết định đầu tư lớn. Trong mối quan hệ với giá cả, Chính sách tài khóa là một trong những nguyên nhân cơ bản của lạm phát, một sự nới lỏng Chính sách tài khóa đều gây áp lực tăng giá cả hàng hóa dịch vụ trên hai kênh là thúc đẩy tăng tổng cầu và tài trợ thâm hụt.
Công cụ thực hiện:
Hai công cụ chính của chính sách tài khóa là chi tiêu của chính phủ và hệ thống thuế. Những thay đổi về mức độ và thành phần của thuế và chi tiêu của chính phủ có thể ảnh hưởng đến các biến số sau trong nền kinh tế:
Tổng cầu và mức độ hoạt động kinh tế
Kiểu phân bổ nguồn lực
Phân phối thu nhập
Nguyên tắc thực hiện:
Chính sách tài khóa sử dụng chi tiêu chính phủ và các chương trình thuế để kích thích nền kinh tế quốc gia trong thời gian thất nghiệp cao và lạm phát thấp ( nền kinh tế suy thoái), hoặc để xoa dịu nền kinh tế trong thời kỳ lạm phát cao và thất nghiệp thấp.
Khi nền kinh tế suy thoái: biểu hiện tình trạng sản lượng quốc gia ở mức thấp hơn mức sản lượng tiềm năng, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao. Chính phủ áp dụng chính sách tài khóa mở rộng bằng cách tăng chi ngân sách hoặc giảm thuế hoặc cả hai. Kết quả là làm tổng cầu tăng lên, sản lượng tăng, tạo thêm nhiều việc làm và giảm thất nghiệp.
Khi nền kinh tế có lạm phát cao: biểu hiện sản lượng quốc gia vượt quá mức sản lượng tiểm năng, đồng thời chỉ số giá cũng tăng cao tác động xấu đến nền kinh tế. Chính phủ cần áp dụng chính sách tài khóa thu hẹp, cụ thể giảm chi ngân sách, tăng thuế. Kết quả là làm giảm tổng cầu, sản lượng giảm, lạm phát giảm và việc làm có xu hướng giảm.
Thực trạng thực hiện chính sách tài khóa Việt Nam
Khái quát nền kinh tế Việt Nam trước 2006:
Trong những năm gần đây, kinh tế Việt Nam đã có sự trỗi dậy rõ rệt. Năm 1996, 1997, mức tăng trưởng cao và khá ổn định (tốc độ tăng trưởng GDP năm 1995 đạt 9,54%, năm 1996 đạt 9,34% và năm 1997 đạt 8,15%). Tỉ lệ lạm phát cũng ở mức thấp, đạt 4,5% năm 1996 và 3,6% năm 1997. Bước qua năm 1998, dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á làm nhu cầu tiêu dùng của người dân giảm xuống, tổng cung hàng hóa cao hơn cầu dẫn đến tình trạng giảm phát. Tỉ lệ lạm phát ở mức 0,1% năm 1999 và là -1,6% năm 2000. Để có đủ lượng vốn kích cầu, Chính phủ đã thu hút nhiều vốn ngoài lưu thông vào hệ thống kho bạc. Vì có độ trễ và khoảng cách giữa thời gian thu vào và thời gian bơm tiền ra nên thực tế trên thị trường khan hiếm tiền dẫn đến tình trạng đã thiểu phát lại càng thiểu phát hơn.
Biểu đồ lạm phát và tăng trưởng qua các năm 1996 – 2000
Đơn vị: %
Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam, 2000 – 2002, 2002 – 2003.
Tỉ lệ bội chi Ngân sách nhà nước giảm từ mức 3% GDP năm 1996 lên 4,95% GDP năm 2000. Tỉ lệ bội chi bình quân 5 năm là 3,87% GDP, cao hơn mức bình quân giai đoạn 1991 – 1995 (2,49%).
Biểu đồ bội chi Ngân sách nhà nước qua các năm 1996 – 2000
Nguồn: Bộ tài chính
Bước qua giai đoạn 2000 – 2006, nền kinh tế Việt Nam thoát khỏi tình trạng giảm phát, ổn định mức lạm phát thấp ( năm 2002:4%, năm 2003:3%), khuyến khích sản xuất, kinh doanh phát triển, góp phần tăng nguồn thu ngân sách. Chính sách tài khóa nới lỏng được thực hiện trong thời gian này giúp nền kinh tế vực dậy thời kì khó khăn.
Tuy nhiên, từ năm 2004 trở đi, tỉ lệ lạm phát có xu hướng tăng lên ( năm 2004: 9,5%, năm 2005: 8,4% ). Điều này xuất phát từ việc thực hiện chính sách tài khóa lỏng lẻo, đã làm cho thâm hụt ngân sách tăng lên cao hơn giai đoạn trước. Và việc bù đắp nguồn thâm hụt ngân sách bằng các nguồn vay từ nước ngoài hay trong nước làm tăng lượng tiền vào thị trường trong nước gây ra lạm phát.
Đơn vị: %
Biểu đồ lạm phát, tăng trưởng kinh tế và bội chi NSNN qua các năm 2000 -2005
(Nguồn: Tạp chí phát triển kinh tế số 215, tháng 9/2008)
Trong nguồn thu Ngân sách nhà nước thì thu từ nguồn dầu thô chiếm tỉ trọng lớn, ngoài ra còn có thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đưa vào cân đối ngân sách qua các năm đều tăng. Thuế được xem xét lại đúng vai trò của nó. Thuế tạo nguồn thu cho Ngân sách nhà nước, kích thích tăng trưởng, phân phối lại thu nhập. Ban hành nhiều sắc lệnh thuế phù hợp với thực trạng nền kinh tế trong nước và quốc tế.
Chính sách tài khóa giai đoạn 2006 – 2008
Giai đoạn 2006 – 2010, mục tiêu mà Chính phủ đặt ra là tăng GDP từ 7,5% lên 8% và có thể cao hơn nữa nhằm đặt mức thu nhập bình quân đầu người vào khoảng 1.100USD vào năm 2020. Như vậy, mục tiêu hàng đầu của giai đoạn này là tăng trưởng kinh tế. Và để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế đã đề ra, Chính phủ đã áp dụng chính sách tài khóa mở rộng, kết hợp với chính sách tiền tệ mở rộng để kích thích nền kinh tế. Chính phủ đã mở rộng đầu tư công qua các chương trình phát triển và hỗ trợ dưới nhiều hình thức cho khu vực doanh nghiệp nhà nước.
Năm 2006 tốc độ tăng trưởng vẫn ổn định và giữ ở mức tương đối cao. Tốc độ tăng trưởng GDP tăng 8,2. Tổng thu ngân sách năm 2006 đạt trên 261,1 nghìn tỉ đồng tăng 20,3% so năm 2005. Tổng chi ngân sách ước đạt trên 315 nghìn tỉ đồng tăng 20% so với năm 2005. Các khoản chi lớn như: đầu tư phát triển, lương và bảo hiểm xã hội, phát triển y tế, văn hóa, giáo dục, điều chỉnh lương tối thiểu, chi đột xuất hỗ trợ vùng bị thiên tai, phòng chống dịch bệnh, sâu bệnh... đã được thực hiện. Bội chi ngân sách nhà nước ước bằng 5% GDP (dự toán 5%), trong đó trên 80% được bù đắp bằng vay trong nước, 20% vay nước ngoài
Tỉ lệ lạm phát có xu hướng giảm đi rõ rệt, từ mức 8,4% năm 2005 xuống còn 6,6% năm 2006.
Tăng trưởng và lạm phát của Việt Nam từ 1998-2007
Nguồn: tính toán từ số liệu niên giám thống kê, VN, WB, IMF
Qua năm 2007, tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn giữ ở mức ổn định 8,44%,. Tổng sản phẩm trong nước ước tăng 8,44%, .
Nền kinh tế tăng trưởng cao dẫn theo việc thu chi ngân sách nhà nước cân đối, bội chi ngân sách trong phạm vi cho phép. Tổng thu ngân sách của cả năm 2007 đạt 287.900 tỉ đồng. Tổng chi ngân sách nhà nước cả năm là 56.500 tỉ đồng , chiếm 5% GDP.
Chỉ số giá tiêu dùng tăng 12,4% so với năm 2006. Mức lạm phát là 12,6%. Điều này cho thấy dường như Việt Nam đã đánh đổi lạm phát với tăng trưởng kinh tế.
Cuối năm 2007 và đầu năm 2008 , kinh tế thế giới biến động mạnh và bước vào thời kỳ suy thoái, và có ảnh hưởng mạnh đến nền kinh tế Việt Nam, thị trường tài chính trong nước không ổn định, lãi suất và tỉ giá biến động mạnh, lạm phát liên tục leo thang. Tuy nhiên, để chống lạm phát, Bộ tài chính lại thực hiện chính sách tài khóa nới lỏng, duy trì mức bội chi, trong khi chính sách tiền tệ lại được thắt chặt ( 6/2007 – 9/2008 ). Chính vì điều này đã tạo ra áp lực lạm phát và làm lãi suất ngày càng tăng. Giá tiêu dùng năm 2008 so với năm 2007 đã tăng 22,97%.
Nguồn: Tổng cục thống kê
Biểu đồ CPI qua 12 tháng năm 2008
Nguồn:Vneconomy
Theo báo cáo của Bộ Tài chính, tổng thu ngân sách nhà nước năm 2008 ước tính tăng 26,3% so với năm 2007. Tổng chi ngân sách Nhà nước năm 2008 ước tính tăng 22,3% so với năm 2007. Hầu hết các chính sách thuế đều được sửa đổi, bổ sung theo hướng bãi, miễn, giảm nhiều sắc thuế, như: giảm thuế TNDN từ 28% xuống còn 25%; điều chỉnh, bổ sung thuế GTGT, thuế TTĐB, thuế Tài nguyên. Tăng cường các chính sách ưu đãi thuế đối với các nhà đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất, công nghệ cao, những địa bàn khó khăn; Đồng thời, có chính sách miễn, giảm thuế khi các doanh nghiệp, hộ kinh doanh gặp khó khăn do suy giảm kinh tế… Nhờ đó, đã khuyến khích sản xuất kinh doanh phát triển, khuyến khích đầu tư, khuyến khích xuất khẩu và bảo đảm an sinh xã hội
Đánh giá
Trong giai đoạn 2006-2008 Chính Phủ đã thực hiện nhiều chính sách tài khóa tích cực. Điều này là một trong những nguyên nhân giúp nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng ổn định, đạt được những thành tựu khả quan. Tuy nhiên, bên cạnh đó chính sách tài khóa cũng đã bộc lộ một vài vấn đề cần lưu ý như:
Việc thiếu đồng bộ giữa các chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong giai đoạn từ tháng 6/2007 đến tháng 9/2008 đã tạo ra áp lực gây nên gia tăng lạm phát và làm lãi suất tăng cao
Để hỗ trợ cho việc phát triển kinh tế, Chính phủ đã tăng chi tiêu công dẫn đến bội chi ngân sách, điều này là cần thiết nhưng việc chi đầu tư không minh bạch làm cho tình trạng tham nhũng gia tăng, có nhiều công trình đầu tư thiếu hiệu quả, đầu tư dàn trải gây lãng phí. Tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội ở VN trong vài năm gần đây bình quân hàng năm trên 40% GDP và hệ số ICOR là 4,7 hệ số này cao cho thấy việc sử dụng vốn kém hiệu quả.
Chính việc đầu tư nhiều nhưng không hiệu quả làm cho tổng cung tăng hạn chế trong khi tổng cầu có xu hướng tăng mạnh hơn, đồng thời năm 2007, 2008 một số hàng hóa là yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất như: điện, xăng, dầu, than tăng giá là nguyên nhân gây nên lạm phát.
Chính sách tài khóa giai đoạn 2009 – 2011
Kinh tế Việt Nam cũng hứng chịu những tác động mạnh từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, đặc biệt tại thời điểm đầu 2009. Tăng trưởng sụt giảm thể hiện ở hầu hết tất cả các ngành kinh tế chủ lực, như nông nghiệp, công nghiệp chế biến, công nghiệp điện, nước, ga.
Tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2000 – 2009
Nguồn: Tổng cục thống kê
Nguồn: Tổng cục thống kê
Ý thức được tính chất nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng, Chính phủ Việt Nam đã nhanh chóng ban hành những chính sách kích thích kinh tế qui mô lớn. Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 30/2008/NQ-CP, đề ra các giải pháp hỗ trợ phát triển kinh tế, trong đó Chính sách tài khóa và tiền tệ được nới lỏng.
Sang đến quí I/2009, Chính phủ đã nhanh chóng ban hành hai gói kích thích kinh tế qui mô lớn: Gói kích cầu đầu tiên trị giá khoảng 1 tỷ USD hỗ trợ lãi suất; Gói kích cầu thứ hai trị giá 8 tỷ USD, gồm các nội dung: tăng chi đầu tư; tăng chi an sinh xã hội, giảm thuế.
Chương trình cắt giảm thuế:Bộ Tài chính đã nhanh chóng hướng dẫn thi hành các ưu đãi trong lĩnh vực thuế, phí và thủ tục: Giảm thuế VAT cho một loạt các mặt hàng; Giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp cho doanh nghiệp vừa và nhỏ trong quí IV/2008 và cả năm 2009; Miễn trừ thuế thu nhập cá nhân trong nửa đầu năm 2009. Trên thực tế đã có trên 125.500 lượt doanh nghiệp và khoảng 937.000 đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân được hưởng các ưu đãi về chính sách thuế. Tổng số thuế miễn, giảm, giãn khoảng 20.000 tỷ đồng (Bộ Tài chính 2009).
Sang đến năm 2010, khi nền kinh tế đã có những bước hồi phục tương đối rõ nét, chính sách của Bộ Tài chính tập trung vào việc tiếp tục thực hiện các chính sách kích thích kinh tế trong năm 2009 và kéo dài sang năm 2010. Đồng thời, Bộ Tài chính cũng hết sức chú trọng các giải pháp bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát.
Nguồn: vnexpress.net; economy.vn
Việc thực hiện các chính sách kích thích kinh tế của Bộ Tài chính còn thể hiện rất rõ trong cán cân ngân sách năm 2009 và 2010. Dưới tác động của gói kích thích kinh tế, thâm hụt ngân sách năm 2009 lên tới 6,9%/GDP.
Chính sách kích thích kinh tế trong năm 2009 nửa đầu năm 2010 đã thu được những thành công nhất định. Sau quí I/2009, nền kinh tế đã trải qua 4 quí liên tiếp tăng trưởng quí sau cao hơn quí trước nền kinh tế có khẳ năng bước ra khỏi giai đoạn thu hẹp của một chu kỳ kinh tế
Bên cạnh đó là việc đẩy mạnh triển khai thủ tục hải quan điện tử, hiện đại hóa thu Ngân sách Nhà Nước nhằm giảm thiểu chi phí, thời gian cho các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu.
Bộ Tài chính xác định nhiệm vụ năm 2011 là tăng cường phối hợp đồng bộ, chặt chẽ chính sách tài khóa với chính sách tiền tệ và các chính sách khác nhằm tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, thực hiện có hiệu quả các mục tiêu kinh tế - xã hội.
Đánh giá:
Dưới tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, Chính phủ đã đưa ra nhiều chính sách tài khóa, trong đó đặc biệt là các gói kích cầu, giảm thuế. Các giải pháp trên đã phát huy được tác dụng của mình khi đã có các dấu hiệu cho thấy nền kinh tế Việt Nam đang dần phục hồi. Tuy nhiên, trong việc thực hiện các gói kích cầu và giảm thuế vẫn có có những điều cần nhìn nhận lại. Cụ thể: gói kích cầu đầu tiên trị giá 1 tỷ USD để giảm lãi suất, hỗ trợ các doanh nghiệp bị thua lỗ. Điều này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả tiếp tục tồn tại, đồng thời do tính không minh bạch tạo điều kiện cho hiện tượng tham nhũng tồn tại. Việc hoãn thuế thu nhập cá nhân cũng có vấn đề sau: đa phần những người bị đanh thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam là những người có thu nhập cao và có xu hướng dùng hàng ngoại. Do đó viêc hoãn thuế thu nhập cá nhân vừa làm cho giảm nguồn thu ngân sách vừa tạo điều kiện cho những người có thu nhập cao sử dụng hàng ngoại, điều này làm giảm tác dụng của chính sách tài khóa mà Chính phủ đã đưa ra.
Kiến nghị chính sách
Như những vấn đề đã được trình bày và đánh giá ở trên nhóm đưa ra những kiến nghị để xây dựng và thực hiện chính sách tài khóa đối với Việt Nam như sau:
Trong các kế hoạch chi tiêu công để đầu tư phát triển kinh tế cần phải được kiểm soát chặt chẽ, tăng tính minh bạch trong việc chi tiêu công, nếu thấy cần thiết có thể thiết lập 1 cơ quan độc lập để giám sát các chính sách tài khóa. Cơ quan này chịu trách nhiệm xác định những thay đổi trạng thái chu kỳ của nền kinh tế, đánh giá mức độ phù hợp và giám sát hiệu quả của các chính sách tài khóa.
Trong việc thực hiện các chính sách vĩ mô phải có sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa các bộ, ban ngành đặc biệt giữa Bộ Tài Chính với Ngân hàng Trung Ương giúp cho các chính sách vĩ mô có thể hỗ trợ lẫn nhau. Khi đó chính sách tài khóa sẽ phát huy được tác dụng của mình.
Chính phủ nên dùng ngân sách để hỗ trợ cho những người bị thất nghiệp, đầu tư vào các ngành phụ trợ, cơ sở hạ tầng, giáo dục, y tế, hỗ trợ tiêu dùng thiết yếu trong nước thay vì tìm cách cứu các doanh nghiệp đang thua lỗ.
Việc dựa vào các khoản thu từ dầu thô và các hoạt động xuất nhập khẩu là thiếu ổn định và không bền vững. Do đó Chính phủ cần xây dựng kế hoạch dài hạn để giảm chi tiêu, giảm mạnh chi phí hành chính trong các cơ quan nhà nước nhằm giảm bớt sức ép về cầu nhất là các loại cầu không tạo ra hiệu quả chuyển các khoản đầu tư công sang khu vực tư nhân
Kết luận:
Chính sách tài khoá có tác động rất mạnh tới các vấn đề kinh tế vĩ mô đặc biệt là đối với mô hình kinh tế như của Việt Nam hiện nay. Do tầm quan trọng đó, việc cần phải có những chính sách tài khóa phù hợp để tác động vào nền kinh tế nhằm làm ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng, kiềm chế lạm phát là việc làm hết sức cần thiết và cần phải được quan tâm, đồng thời công tác thực hiện chi tiêu của Chính phủ phải được minh bạch, việc kiểm tra, giám sát cần phải được quan tâm nhiều hơn để các chính sách tài khóa phát huy được tác dụng như mong đợi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PGS.TS. Trần Hoàng Ngân và ThS. Võ Thị Tuyết Anh, “Lạm phát, nguyên nhân và giải pháp” Tạp chí Phát Triển Kinh Tế, số 210, tháng 4/2008.
Nguyễn Sinh Cúc, “Tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2006 và triển vọng năm 2007” Số 1 (122) năm 2007,
truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2011
Nguyễn Sinh Cúc, “Tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2007” Số 1 (145) năm 2008, , truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2011
Phương Ngọc, “5 năm (2006-2010) - đánh dấu sự chuyển mình của ngành thuế”, ngày 30 tháng 6 năm 2010,
truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2011
PGS.TS. Sử Đình Thành, “Chính sách tài khóa và bài toán ổn định chu kỳ kinh tế ở Việt Nam”, ,truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2011.
TS. Phạm Văn Hà Nhóm Tư vấn chính sách - Bộ Tài chính, “Chính sách tài chính giai đoạn hậu khủng hoảng” ngày 07 tháng 09 năm 2010, , ngày truy cập 13 tháng 2 năm 2011.
TS. Lê Quốc Hội, “Tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2010 và khuyến nghị cho năm 2011”, , truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2011.
truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2011.