HNKTQT là một thuật ngữ đã có từ lâu, nhưng cho đến nay vẫn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau:
Có ý kiến cho rằng HNKTQT là quá trình các quốc gia tiến hành xây dựng, thương lượng, ký kết và tuân thủ các cam kết song phương, đa phương. Lại có ý kiến cho rằng HNKTQT là quá trình loại bỏ dần các hàng rào thương mại quốc tế và di chuyển các nhân tố sản xuất giữa các nước.
Tuy còn có những quan điểm khác nhau nhưng hiện nay khái niệm tương đối phổ biến và được nhiều nước chấp nhận là: HNKTQT là sự gắn kết nền kinh tế của mỗi quốc gia và các tổ chức kinh tế khu vực, toàn cầu trong đó mỗi thành viên đều phải chịu một số ràng buộc theo qui định chung của khối. Là quá trình thực hiện tự do hoá thương mại và thực hiện cải cách toàn diện theo hướng mở cửa thị trường trên cơ sở tự nguyện tham gia vào các định chế kinh tế và tài chính quốc tế. Từ đó đem lại nhiều cơ hội thuận lợi như hàng hoá xuất khẩu có thể tiếp cận thị trường tốt hơn, thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài hơn và nhiều lợi ích gián tiếp khác, đi liền với cạnh tranh quốc tế gay gắt, tăng dần hiệu quả kinh tế theo quy mô.
Hội nhập kinh tế thế giới đã trở thành một xu thế khách quan trong thế giới ngày nay khi mà làn sóng toàn cầu hóa đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ, đặc biệt dưới sự tác động của cách mạng khoa học và công nghệ.
37 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4413 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và những giải pháp thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Chương I _ TỔNG QUAN VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ - 1 -
1.1. Khái niệm và bản chất của HNKTQT - 1 -
1.1.1. Khái niệm - 1 -
1.1.2. Bản chất - 1 -
1.2. Các hình thức HNKTQT - 2 -
1.3. Sự cần thiết HNKTQT đối với Việt Nam - 3 -
1.3.1. Những khó khăn: - 3 -
1.3.2 Những tác động tích cực của hội nhập đối với Việt Nam - 5 -
Chương II _ QUÁ TRÌNH HNKTQT Ở VIỆT NAM - 7 -
2.1. Quá trình hình thành chủ trương HNKTQT - 7 -
2.1.1 Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về HNKTQT - 7 -
2.1.2 Tiến trình HNKTQT của Việt Nam - 10 -
2.2. Cơ hội và thách thức trong HNKTQT - 12 -
2.2.1 Cơ hội trong HNKTQT - 13 -
2.2.2 Thách thức trong HNKTQT - 16 -
2.3. Thực trạng HNKTQT của nước ta - 19 -
2.3.1 Những mặt được - 19 -
2.3.2 Những yếu kém - 20 -
2.4. Những thành tựu đạt được trong HNKTQT hiện nay - 20 -
Chương III _ CHỦ ĐỘNG HNKTQT VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HNKTQT CỦA VIỆT NAM - 23 -
3.1. Chủ động HNKTQT _ một yêu cầu khách quan - 23 -
3.2. Các giải pháp thúc đẩy HNKTQT - 24 -
3.2.1 Nhóm giải pháp về điều chỉnh, kiện toàn chính sách và các biện pháp thực hiện chính sách thương mại - 24 -
3.2.2 Nhóm giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh - 26 -
3.2.3 Nhóm giải pháp hạn chế tác động xấu của quá trình hội nhập - 30 -
3.2.4 Nhóm giải pháp về đào tạo nâng cao kiến thức về hội nhập - 32 -
3.2.5 Bên cạnh đó, là phải cải thiện và bảo vệ môi trường - 34 -
3.2.6 Giải quyết tốt một số vấn đề xã hội - 35 -
TỔNG QUAN VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Khái niệm và bản chất của HNKTQT
Khái niệm
HNKTQT là một thuật ngữ đã có từ lâu, nhưng cho đến nay vẫn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau:
Có ý kiến cho rằng HNKTQT là quá trình các quốc gia tiến hành xây dựng, thương lượng, ký kết và tuân thủ các cam kết song phương, đa phương. Lại có ý kiến cho rằng HNKTQT là quá trình loại bỏ dần các hàng rào thương mại quốc tế và di chuyển các nhân tố sản xuất giữa các nước.
Tuy còn có những quan điểm khác nhau nhưng hiện nay khái niệm tương đối phổ biến và được nhiều nước chấp nhận là: HNKTQT là sự gắn kết nền kinh tế của mỗi quốc gia và các tổ chức kinh tế khu vực, toàn cầu trong đó mỗi thành viên đều phải chịu một số ràng buộc theo qui định chung của khối. Là quá trình thực hiện tự do hoá thương mại và thực hiện cải cách toàn diện theo hướng mở cửa thị trường trên cơ sở tự nguyện tham gia vào các định chế kinh tế và tài chính quốc tế. Từ đó đem lại nhiều cơ hội thuận lợi như hàng hoá xuất khẩu có thể tiếp cận thị trường tốt hơn, thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài hơn và nhiều lợi ích gián tiếp khác, đi liền với cạnh tranh quốc tế gay gắt, tăng dần hiệu quả kinh tế theo quy mô.
Hội nhập kinh tế thế giới đã trở thành một xu thế khách quan trong thế giới ngày nay khi mà làn sóng toàn cầu hóa đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ, đặc biệt dưới sự tác động của cách mạng khoa học và công nghệ.
Bản chất
HNKTQT là sự đan xen, gắn bó, phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế quốc gia và thế giới, vừa hợp tác vừa đấu tranh để phát triển. Trong bối cảnh hiện nay, HNKTQT không chỉ đơn thuần giới hạn trong phạm vi cắt giảm thuế quan mà đã được mở rộng ra tất cả lĩnh vực liên quan đến chính sách kinh tế thương mại, nhằm mục đích mở cửa thị trường cho hàng hoá và dịch vụ, loại bỏ các rào cản hữu hình và vô hình đối với trao đổi thương mại, đầu tư theo hướng tự do hóa kinh tế.
Hội nhập kinh tế một mặt tạo điều kiện thuận lợi mới cho các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh, mặt khác buộc các doanh nghiệp phải có những đổi mới để nâng cao sức cạnh tranh trên thương trường.
HNKTQT tạo thuận lợi cho việc thực hiện các công cuộc cải cách ở các quốc gia, nhưng đồng thời cũng là yêu cầu, sức ép đối với nước thành viên trong việc đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh tế, đặc biệt là các chính sách và phương thức quản lý vĩ mô.
HNKTQT tạo dựng các nhân tố, điều kiện mới cho sự phát triển của từng quốc gia và cộng đồng quốc tế trên cơ sở trình độ phát triển ngày càng cao, khoa học kỹ thuật ngày càng hiện đại.
HNKTQT chính là sự khai thông các dòng chảy nguồn lực trong, ngoài nước, tạo điều kiện mở rộng thị trường chuyển giao công nghệ, các kinh nghiệm quản lý.
Các hình thức HNKTQT
Các nền kinh tế khác nhau thực hiện sự hội nhập qua các hoạt động mậu dịch và hợp tác trong chính sách, biện pháp kinh tế khác nhau. Về cơ bản có thể chia theo những hình thức sau đây:
1) Hội nhập theo thị trường, là sự hội nhập kinh tế khu vực thông qua hoặc thúc đẩy bằng các hoạt động kinh doanh. Điều này có thể xảy ra mà không cần đến một khuôn khổ hội nhập liên chính phủ. Ví như việc giá xăng dầu của VN đang từng bước tiến tới “hội nhập với giá thế giới” để khắc phục những khiếm khuyết của loại giá bao cấp hiện nay, và theo dự tính của chính phủ, đến hết năm 2008 sẽ hoàn thành lộ trình này. (Báo Đầu tư ngày 22/11/2007)
2) Hội nhập theo chính sách, là sự hội nhập kinh tế khu vực được thúc đẩy thông qua một thoả thuận chính thức, thường là thông qua một thỏa thuận thương mại khu vực ưu đãi. Điều này có thể dễ dàng đưa ra ví dụ thông qua việc chúng ta tham gia vào các tổ chức kinh tế gần đây như ASEM, APEC, WTO …
Bên cạnh đó tuỳ theo trình độ sâu, nông, mà có thể chia ra thành:
1) Hội nhập sâu là sự kết hợp các hệ thống chính sách quốc gia của hai hay nhiều nước mà theo truyền thống các hệ thống chính sách đó hoàn toàn thuộc thẩm quyền của chính phủ quốc gia. Hệ thống chính sách này bao gồm chính sách cạnh tranh, tiêu chuẩn kĩ thuật, trợ cấp, chính sách tài chính - tiền tệ, các quy chế và giám sát các tổ chức tài chính, các vấn đề môi trường, việc mua sắm của chính phủ và một số chính sách khác. Cộng đồng Châu Âu (EC) là khu vực tiến xa nhất trong quá trình hội nhập sâu. Gần đây, EC đã thông qua việc thành lập một thị trường thống nhất và thực hiện các biện pháp đề ra trong Hiệp ước Maxtơrich. Ngoài ra, NAFTA cũng là một ví dụ về hội nhập sâu hiện nay.
2) Trái lại, là hình thức hội nhập nông thể hiện trong các hình thức hội nhập từ khu vực thương mại tự do. Trong hình thức hội nhập nông, mỗi nước thành viên vẫn tự do duy trì các chính sách khác của nước mình. Tuy vậy, hội nhập nông cũng có tác dụng thúc đẩy quá trình hợp tác hài hòa, cân đối chính sách.
Xét theo sự hội nhập các công ti, thì có 2 phương thức:
1) Hội nhập dọc khi các xí nghiệp, công ti sản xuất ra các sản phẩm ở các công đoạn khác nhau và nối tiếp nhau của một dây chuyền sản xuất hay của một sản phẩm hoàn chỉnh
2) Hội nhập ngang khi sản phẩm của các công ti ở cùng một công đoạn sản xuất.
1.3. Sự cần thiết HNKTQT đối với Việt Nam
Quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế và tự do hóa thương mại trên bình diện toàn cầu đang diễn ra nhanh chóng và trở thành vấn đề nổi bật của thế giới đương đại. Quá trình này tạo ra sự liên kết và phụ thuộc lẫn nhau ngày càng cao giữa các quốc gia và khu vực. Các định chế và tổ chức kinh tế - thương mại đã được hình thành để phục vụ cho quá trình HNKTQT, tạo lập hành lang pháp lý chung, để các nước cùng tham gia vào quá trình giải quyết các vấn đề lớn của kinh tế thế giới, mà không một quốc gia nào có thể thực hiện một cách đơn lẻ được. Và sau đây, những khó khăn về quan hệ mậu dịch, xuất nhập khẩu…trong giai đoạn hội nhập chưa phổ biến và những tác động của bối cảnh quốc tế, tác động tích cực của việc HNKTQT đến đời sống xã hội, bản sắc văn hoá, vấn đề việc làm…sẽ là minh chứng lý giải tại sao cần thiết phải hội nhập, và đẩy mạnh HNKTQT ở VN.
Những khó khăn:
Một là, xu hướng gia tăng tự do hóa thương mại và cạnh tranh toàn cầu
Biểu hiện cơ bản của quá trình hội nhập kinh tế là xu hướng tăng cường hợp tác song phương, liên kết khu vực, hợp tác liên khu vực và đẩy mạnh hợp tác đa phương. Một làn sóng tự do hóa thương mại đang diễn ra sôi động chưa từng có trên thế giới với việc hình thành các Khu vực Thương mại Tự do và các Thỏa thuận Thương mại Khu vực. Cho đến nay, hầu như tất cả các nước trên thế giới đều là thành viên, hoặc đang đàm phán tham gia, của ít nhất một tổ chức trên và khoảng trên 50% tổng giá trị giao dịch thương mại toàn cầu được tiến hành thông qua các thỏa thuận thương mại khu vực. Xu hướng tăng cường hợp tác đa phương thể hiện rõ nét qua việc ngày càng có nhiều nước xin gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Đến nay WTO đã có 151 thành viên được kết nạp và khoảng gần 30 nước đang xin gia nhập. WTO chiếm khoảng 85% tổng thương mại hàng hóa và 95% thương mại dịch vụ toàn cầu. Hiện nay, WTO đã chủ trương mở rộng đàm phán toàn diện trên cả bốn lĩnh vực: thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư liên quan đến thương mại, sỡ hữu trí tuệ và một số vấn đề mới phát sinh nhằm thúc đẩy tiến trình tự do hoá thương mại. Và xu thế này đã có những tác động không nhỏ đến nền kinh tế VN.
Hai là, sự tăng cường chính sách bảo hộ với các rào cản thương mại hiện đại đối với hàng xuất khẩu
Các nước ngày càng có xu hướng ít sử dụng những biện pháp bảo hộ mang tính lộ liễu như áp đặt lệnh cấm, hạn chế số lượng hoặc áp đặt thuế xuất nhập khẩu cao. Thay vào đó, các biện pháp bảo hộ được lồng vào những lý do chính đáng như để bảo vệ những ngành sản xuất trong nước trước những hành động thương mại không lành mạnh. Các quy định về an toàn thực phẩm trong thương mại quốc tế hiện cũng là một rào cản lớn đối với hàng xuất khẩu, nổi bật là xuất khẩu thủy sản của VN. Xu hướng gắn hoạt động thương mại với việc giữ gìn và tôn tạo môi trường sinh thái ngày càng phổ biến trên thế giới. Ngoài lý do về chất lượng của sản phẩm, những yêu cầu về môi trường đối với sản phẩm cũng đang được coi là những "Rào cản thương mại trá hình" mà ngôn ngữ trong thương mại thường gọi là "Hàng rào xanh" nhằm bảo hộ cho sản xuất trong nước và ngăn chặn sự xâm nhập của hàng nhập khẩu. Bên cạnh đó còn có những rào cản về luật chống phá giá, tự vệ, chống trợ cấp, thủ tục hải quan, ghi nhãn mác… Những tiêu chuẩn này nhiều khi được đặt ra quá cao so với trình độ kỹ thuật cũng như công nghệ sản xuất của các nước đang phát triển, từ đó tạo nên một số khó khăn trong quá trình tiếp cận thị trường các nước phát triển. (Tạp chí Cộng Sản số 5 ngày 12/3/2007)
Ba là, bối cảnh quốc tế
Những nhân tố nói trên đang tạo ra áp lực thách thức khả năng và tiến độ HNKTQT của chúng ta. Khi chúng ta chưa kịp tiến lên bắt kịp với thế giới thì đã lại tiếp tục bị bỏ lại đằng sau, trước một trào lưu mới. Nó đòi hỏi cần phải có những nỗ lực liên tục và gắng sức để có thể bắt kịp với xu thế phát triển của thế giới. Cụ thể là:
- Áp lực cạnh tranh sẽ tăng mạnh, nhất là từ phía Trung Quốc, Ấn Độ và phần lớn các nước ASEAN, vốn là những nước sản xuất nhiều sản phẩm mang tính cạnh tranh và lại có nhiều ưu thế hơn ta, thậm chí ngay cả trong những ngành xuất khẩu chủ lực của ta hiện nay như nông sản, thủy sản, may mặc, giày dép.
- Việc một số nước ASEAN tham gia vào nhiều thỏa thuận thương mại tự do (FTA) với các nước bên ngoài khối tạo ra nguy cơ chuyển hướng thương mại bất lợi đối với ta.
- Xu hướng HNKTQT và khu vực hiện nay sẽ tạo ra sức ép buộc ta phải tiến hành tự do hóa, mở cửa để hội nhập mạnh hơn và nhanh hơn. Nếu không cố gắng đi cùng nhịp với các nước trong khu vực thì VN có nguy cơ bị tụt hậu và chịu những thua thiệt của người đi sau.
Những tác động tích cực của hội nhập đối với Việt Nam
Một là, với vai trò của nhà nước
Với việc VN HNKTQT, quyền lực nhà nước của chính phủ được củng cố và mở rộng hơn, nhất là khả năng thực thi quyền lực. Mặc dù hiện nay có nhiều tranh luận về quy mô và vai trò tối ưu của nhà nước, nhưng nhìn chung đều nhất trí về tầm quan trọng của nhà nước trong việc hỗ trợ cung cấp cơ sở hạ tầng, vật chất, y tế cơ bản, giáo dục, hỗ trợ xã hội ngoài vai trò truyền thống trong lĩnh vực quân sự và hành chính công. Cùng với sự lớn mạnh của chính phủ, các giao lưu kinh tế thương mại càng trở nên quan trọng, các nền kinh tế ngày càng liên kết chặt chẽ với nhau hơn cùng với sự phát triển của quá trình phân công lao động quốc tế, và giảm bớt các hàng rào mậu dịch.
Hai là, với bản sắc văn hoá dân tộc
Quá trình HNKTQT sẽ giúp mang đến cho ta nhiều màu sắc văn hoá độc đáo, làm đa dạng, phong phú hơn đời sống văn hoá của các nước nhờ tác động tương tác qua lại trong quá trình kinh doanh, hợp tác, trao đổi. Từ đó tiếp thu những nét mới, hiện đại, tinh tuý của các nước bạn và tiếp tục phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc VN.
Ba là, với vấn đề việc làm
Nhiều người đã từng lo ngại rằng, toàn cầu hoá và HNKTQT sẽ làm tăng nguy cơ thất nghiệp, nhưng cho đến nay các nghiên cứu thực chứng chưa khẳng định được tính thuyết phục của quan điểm này. Trong khi đó ở Trung Quốc, việc Trung Quốc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO năm 2001 lại chỉ ra rằng khả năng tạo ra việc làm mới nhiều hơn so với số việc làm sẽ bị mất đi. Xét về mối quan hệ tổng thể của những yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội cho đến nay thì có thể nói việc hội nhập có thể giải quyết được phần nào tình trạng thất nghiệp của một quốc gia. (Báo Tuổi trẻ cuối tuần ngày 1/8/2007)
Bốn là, với vấn đề phát triển con người
HNKTQT có nhiều tác động tích cực tới sự phát triển con người, làm cho con người có nhiều điều kiện hơn để thoả mãn các nhu cầu về vật chất, tinh thần … phát huy khả năng sáng tạo và các cơ hội mở rộng hơn để lựa chọn. Thông qua việc hợp tác cùng các quốc gia trên thế giới có thể học hỏi, nâng cao khả năng, trình độ của bản thân góp phần xây dựng đất nước.
QUÁ TRÌNH HNKTQT Ở VIỆT NAM
Quá trình hình thành chủ trương HNKTQT
Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về HNKTQT
Những bước đi quan trọng của VN trong quá trình HNKTQT đều được sự chỉ đạo chặt chẽ và kịp thời của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bộ Chính trị. Từ Đại hội Đảng lần thứ VI, với đường lối đổi mới Đảng ta đã có chủ trương: “Công bố chính sách khuyến khích nước ngoài đầu tư vào nước ta dưới nhiều hình thức, nhất là đối với các ngành và cơ sở đòi hỏi kỹ thuật cao, làm hàng xuất khẩu. Đi đôi với việc công bố Luật đầu tư, cần có các chính sách và biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài và Việt kiều vào nước ta để hợp tác kinh doanh” (Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội năm 2006, tr.58). Đây là những nền tảng quan trọng để thúc đẩy quá trình HNKTQT của nước ta. Đến Đại hội VII, Đảng ta tiếp tục chủ trương mở rộng hợp tác, bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, các tổ chức quốc tế, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình. Để từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới, tăng cường thu hút nguồn vốn từ nước ngoài phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, Đảng ta chủ trương khai thông quan hệ giữa các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB).., mở rộng quan hệ với các tổ chức hợp tác khu vực, trước hết ở châu Á - Thái Bình Dương. Một trong những biện pháp quan trọng là "Chúng ta cần tích cực cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư, đổi mới tổ chức và quản lý hoạt động hợp tác, liên doanh với nước ngoài, có nhiều hình thức thích hợp để tận dụng mọi nguồn vốn đầu tư, chú trọng phát triển các quan hệ hợp tác với các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia nhằm tạo thế đứng trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới". (Văn kiện Hội nghị Trung ương, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội năm 2006, tr.18)
Trước những diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế, chính trị thế giới, với tầm nhìn chiến lược, Đại hội VIII của Đảng đã khẳng định: “xây dựng một nền kinh tế mở”, “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”. Nghị quyết 04 của Ban chấp hành TW khoá VIII đã nêu rõ: “tích cực và chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế”, “tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán hiệp định thương mại với Mỹ, gia nhập APEC và WTO. Có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện các cam kết trong khuôn khổ AFTA". Tiếp đó, trong Báo cáo Chính trị Đại hội Đảng lần thứ IX đã nêu rõ quan điểm của Đảng: "Chủ động HNKTQT và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc dân tộc, bảo vệ môi trường". Đây là một chủ trương lớn trong chính sách đối ngoại, hội nhập của Đảng và Nhà nước ta. Theo quan điểm này HNKTQT trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế là một quá trình mà trọng tâm là chủ động mở cửa kinh tế, tham gia sâu vào phân công hợp tác quốc tế, tạo điều kiện để kết hợp có hiệu quả mọi nguồn lực trong nước và nước ngoài, mở rộng không gian và môi trường để phát triển, nâng cao thế và lực của nước ta trong quan hệ kinh tế quốc tế.
Tiến trình HNKTQT của VN trong thời gian tới tiếp tục được đẩy mạnh theo chủ trương Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng: “ Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế theo lộ trình, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế đất nước từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020, thực hiện cam kết với các nước về thương mại, đầu tư và các lĩnh vực khác, chuẩn bị tốt các điều kiện để ký kết và thực hiện các hiệp định thương mại tự do song phương, đa phương. Thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện và có hiệu quả với các nước ASEAN, các nước Châu Á – Thái Bình Dương, củng cố và phát triển quan hệ hợp tác song phương tin cậy với các đối tác chiến lược, khai thác có hiệu quả các cơ hội và giảm tối đa những thách thức, rủi ro khi nước ta là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO)”. (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội năm 2006, tr.40)
HNKTQT là một nội dung quan trọng của xu thế toàn cầu hoá kinh tế. Nói hội nhập là nhấn mạnh đến tính chủ động tham gia vào quá trình toàn cầu hoá. HNKTQT bao gồm một số nội dung chủ yếu như: chủ động tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế, đặc biệt là trong những lĩnh vực kinh tế mới; chủ động tham gia và mở rộng thương mại quốc tế; chủ động tham gia vào các hoạt động tài chính quốc tế…Khẳng định tầm quan trọng của HNKTQT, Nghị quyết 07-NT/TW của Bộ Chính trị, ngày 27/11/2001 về HNKTQT đã đề ra 5 quan điểm chủ đạo trong quá trình HNKTQT của nước ta trong thời kỳ mới:
- Quán triệt chủ trương được xác định tại Đại hội IX là: “Chủ động HNKTQT và khu vực … bảo vệ môi trường”.(đã trích trên)
- HNKTQT là sự nghiệp của toàn dân, trong quá trình hội nhập cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
- HNKTQT là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội, vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tuỳ theo đối tượng, vấn đề, trường hợp, thời điểm cụ thể; vừa phải đề phòng tư tưởng trì trệ, thụ động, vừa phải chống tư tưởng giản đơn, nôn nóng.
- Nhận thức đầy đủ đặc điểm nền kinh tế nước ta, từ đó đề ra kế hoạch và lộ trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, vừa đáp ứng các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia; tranh thủ những ưu đãi dành cho các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi từ kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường.
- Kết hợp chặt chẽ quá trình HNKTQT với yêu cầu giữ vững an ninh, quốc phòng, thông qua hội nhập để tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia, nhằm củng cố chủ quyền và an ninh đất nước, cảnh giác với những mưu toan thông qua hội nhập để thực hiện ý đồ "diễn biến hoà bình" đối với nước ta.
Để cụ thể hoá Nghị quyết của Đảng, thực hiện tốt Nghị quyết trong thực tiễn, Chính phủ đã thông qua một Chương trình hành động bao gồm các nhiệm vụ cụ thể được phân công trách nhiệm thực hiện rõ ràng cho các bộ, ban, ngành và địa phương có liên quan, có sự phối hợp thực hiện với các cơ quan trung ương. Cụ thể đầu mối nhiệm vụ là: Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Văn hoá - Thông tin với công tác tư tưởng, thông tin, tuyên truyền; Bộ Tư pháp với nhiệm vụ xây dựng, sửa đổi, bổ sung pháp luật, cơ chế, chính sách kinh tế thương mại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế với nhiệm vụ