Đề tài Chủ thể của tư pháp quốc tế

Chủ thể của tư pháp quốc tế là các chủ thể tham gia vào quan hệ mà tư pháp quốc tế điều chỉnh. Chủ thể của tư pháp quốc tế thường thể hiện yếu tố nước ngoài ( 1 bên hay cả 2 bên ). Chủ thể phổ biến của tư pháp quốc tế là các cá nhân, pháp nhân và quốc

doc12 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 6324 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Chủ thể của tư pháp quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC CHỦ THỂ TƯ PHÁP QUỐC TẾ 1. Khái niệm: Chủ thể của tư pháp quốc tế là các chủ thể tham gia vào quan hệ mà tư pháp quốc tế điều chỉnh. Chủ thể của tư pháp quốc tế thường thể hiện yếu tố nước ngoài ( 1 bên hay cả 2 bên ). Chủ thể phổ biến của tư pháp quốc tế là các cá nhân, pháp nhân và quốc gia. 2. Các nhóm chủ thể của tư pháp quốc tế: 2.1 Người nước ngoài: 2.1.1 Khái niệm: - Người nước ngoài là những người cư trú và làm ăn sinh sống ởViệt Nam có quốc tịch nước khác hoặc không có quốc tịch. 2.1.2 Phân loại người nước ngoài: - Dựa vào dấu hiệu quốc tịch: người có quốc tịch nước ngoài và người không có quốc tịch. - Dựa vào nơi cư trú: người nước ngoài cư trú trên lãnh thổ Việt Nam và người nước ngoài cư trú ngoài lãnh thổ Việt Nam. - Dựa vào thời hạn cư trú: người nước ngoài thường trú và tạm trú. - Dựa vào quy chế pháp lý: người hưởng quy chế ưu đãi miễn trừ ngoài giao; người hưởng quy chế theo hiệp định quốc tế; người nước ngoài cư trú và làm ăn sinh sống ở nước sở tại. 2.1.3 Cơ sở pháp lý của người nước ngoài: Quy chế pháp lý của người nước ngoài mang tính song trùng pháp luật: khi cư trú làm ăn sinh sống ở nước sở tại thì người nước ngoài cùng lúc chịu sự điều chỉnh của hai hệ thống pháp luật là pháp luật của nước mà người đó mang quốc tịch và pháp luật của nước sở tại nơi người đó cư trú và làm ăn sinh sống. + Giải quyết xung đột pháp luật về năng lực pháp luật và năng lực hành vi của người nước ngoài: Để giải quyết xung đột về năng lực pháp luật và năng lực hành vi của người nước ngoài thì pháp luật các nước thường quy định người nước ngoài có năng lực pháp luật ngang hoặc tương đương với công dân nước sở tại (trừ những ngoại lệ quy định trong các hệ thống luật cụ thể của mỗi quốc gia hoặc trong các điều ước quốc tế). Để giải quyết xung đột pháp luật về năng lực hành vi thì đại đa số các nước đều áp dụng theo hệ thuộc luật quốc tịch, riêng Anh – Mỹ áp dụng theo hệ thuộc luật nơi cư trú. Theo quy định của Pháp luật Việt Nam. Điều 761. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là người nước ngoài 1. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là người nước ngoài được xác định theo pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch. 2. Người nước ngoài có năng lực pháp luật dân sự tại Việt Nam như công dân Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quy định khác. Điều 762. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là người nước ngoài 1. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là người nước ngoài được xác định theo pháp luật của nước mà người đó là công dân, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định khác. 2. Trong trường hợp người nước ngoài xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự tại Việt Nam thì năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài được xác định theo pháp luật Việt Nam. Còn đối với người không quốc tịch thì theo quy định tại Điều 760 BLDS áp dụng luật nơi người đó cư trú hoặc nếu người đó không có nơi cư trú thì áp dụng pháp luật Việt Nam. Đối với người hai hay nhiều quốc tịch: Áp dụng nguyên tắc quốc tịch và người đó cư trú; Áp dụng nguyên tắc quốc tịch hữu hiệu: nơi người đó gắn bó nhất nếu người đó không cư trú ở nước mà mình có quốc tịch. + Căn cứ pháp luật xây dựng chế định pháp lý dân sự cho người nước ngoài. Qui chế pháp lý áp dụng cho người nước ngoài : dựa trên các chế độ đối xử cơ bản như : - Chế độ tối huệ quốc : Người nước ngoài từ các quốc gia nước ngoài khác nhau thì được đối xử tương tự nhau. - Chế độ đãi ngộ như công dân : Hưởng quyền và nghĩa vụ như công dân của quốc gia sở tại. - Chế độ có đi có lại : Quốc gia A đối xử tốt với công dân của B tương tự quốc gia B đối xử tốt với công dân của A, theo nghĩa tích cực. - Chế độ đãi ngộ đặc biệt : Nhân viên ngoại giao hưởng các quyền và nghĩa vụ đặc biệt. - Chế độ báo phục quốc : Cũng chính là nguyên tắc có đi có lại nhưng theo nghĩa tiêu cực, dùng để trả đũa lẫn nhau 2.1.4 Địa vị pháp lý của người nước ngoài ở Việt Nam: Là tổng thể các quyền và nghĩa vụ của người nước ngoài khi sinh sống cư trú làm ăn ở Việt Nam được qui định trong các văn bản pháp qui ở Việt Nam và trong các Điều ước quốc tế của Việt Nam. - Quyền: + Quyền cư trú đi lại trong pháp lệnh nhập cảnh xuất cảnh 2000 cho phép người nước ngoài tự do đi lại cư trú trên lãnh thổ Việt Nam trừ một số lĩnh vực an ninh.. + Quyền hành nghề: cho phép người nước ngoài tự do lựa chọn nghề nghiệp trong khuôn khổ pháp luật. Tuy nhiên hạn chế người nước ngoài làm việc trong một số ngành nghề an ninh quốc phòng. Được phép làm luật sư tư vấn pháp luật VN với điều kiện học qua trường Đại học Luật việt nam. + Được quyền sở hữu và thừa kế. + Quyền được học tập: cho họ tự do lựa chọn các trường tuy nhiên hạn chế một số trường liên quan đến an ninh quốc phòng. + Quyền tác giả và sở hữu công nghiệp: thể hiện rõ Điều 774 và Điều 775. + Lĩnh vực hôn nhân – gia đình cho phép họ kết hôn nuôi con nuôi bình đẳng đảm bảo quyền lợi cho phụ nữ và trẻ em. + Quyền bảo vệ sức khỏe. + Quyền tố tụng dân sự: áp dụng chế độ đãi ngộ quốc gia theo Điều 406 BLTTDS 2004 thì người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài khi khởi kiện ở tòa án Việt Nam được Nhà nước Việt Nam cho hưởng chế độ đối xử quốc gia trong tố tụng dân sự. - Nghĩa vụ: Tôn trọng pháp luật Việt Nam, tôn trọng phong tục tập quán, truyền thống tín ngưỡng của Việt Nam và khi người nước ngoài vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất vi phạm họ có thể bị xử phạt, bị trục xuất trước thời hạn và thậm chí truy cứu trách nhiệm hình sự. Quy chế pháp lý của pháp nhân nước ngoài tại Việt Nam được xác định trên cơ sở pháp luật Việt Nam và các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. 2.1.5 Địa vị pháp lý của người Việt Nam ở nước ngoài: Do pháp luật của nước nơi họ sinh sống qui định là cơ bản, ngoài ra nó còn được qui định trong luật pháp Việt Nam và trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã kí kết với các nước hữu quan. Công dân Việt Nam ở nước ngoài được các cơ quan ngoại giao và lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của họ. 3. Pháp nhân: 3.1 Khái niệm: Pháp nhân là một tổ chức nhất định của con người được pháp luật nhà nước quy định có quyền năng chủ thể. Theo pháp luật Việt Nam, Điều 84 BLDS pháp nhân phải là tổ chức có đủ 4 điều kiện sau đây: - Được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập đăng kí hoặc công nhận. - Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ. - Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm về tài sản đó. - Nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập. Pháp nhân nước ngoài là tổ chức hưởng tư cách pháp nhân theo quy định của pháp luật nước ngoài và được công nhận là có quốc tịch nước ngoài. Quốc tịch của pháp nhân là mối liên hệ pháp lý đặc biệt và vững chắc giữa pháp nhân với một nhà nước nhất định. Nguyên tắc xác định quốc tịch của pháp nhân: - Nguyên tắc xác định quốc tịch của pháp nhân theo nơi đặt trung tâm quản lý pháp nhân, trụ sở chính của pháp nhân (Pháp, Đức). - Nguyên tắc xác định quốc tịch của pháp nhân theo nơi đăng kí điều lệ pháp nhân khi thành lập (Anh, Mỹ). - Nguyên tắc xác định quốc tịch của pháp nhân theo nơi thành lập pháp nhân. - Nguyên tắc xác định quốc tịch của pháp nhân theo công dân nước nào nắm quyền quản lý pháp nhân sẽ có quốc tịch của nước đó. Theo quy định của pháp luật Việt Nam: - Điều 16 LTM: doanh nghiệp nước ngoài là danh nghiệp thành lập, đăng kí kinh doanh theo pháp luật nước ngoài; và được pháp luật nước ngoài thừa nhận. - Theo Nghị định 138/2006 pháp nhân nước ngoài là pháp nhân được thành lập theo pháp luật nước ngoài. Pháp nhân luôn phải chịu tác động đồng thời của 2 hệ thống pháp luật : - Pháp luật của quốc gia sở tại chi phối các hoạt động cụ thể của pháp nhân được tiến hành trên lãnh thổ quốc gia sở tại. - Pháp luật của quốc gia mà pháp nhân mang quốc tịch. Các vấn đề pháp lý của pháp nhân : sáp nhập, chia tách, giải thể phá sản … sẽ do pháp luật của quốc gia mà pháp nhân mang quốc tịch chi phối Pháp luật của quốc gia sở tại tuyệt đối không thể can thiệp vào các vấn đề pháp lý của pháp nhân. Trong khi đó pháp luật của quốc gia mà pháp nhân mang quốc tịch có thể chi phối các hoạt động cụ thể của pháp nhân Qui chế pháp lý áp dụng cho pháp nhân sẽ dựa trên chế độ tối huệ quốc. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân được qui định tại điều 765 luật dân sự. 3.2 Quy chế pháp lý dân sự của pháp nhân nước ngoài: Đặc điểm quy chế pháp lý dân sự của pháp nhân nước ngoài thể hiện trước hết ở chỗ cùng một lúc pháp nhân nước ngoài phải tuân theo hai hệ thống pháp luật là pháp luật của nước mà pháp nhân mang quốc tịch và pháp luật nơi pháp nhân hoạt động, nhưng trước hết phải tuân theo pháp luật nước sở tại. Nếu quyền và lợi ích hợp pháp của pháp nhân nước ngoài trên lãnh thổ nước sở tại bị xâm phạm thì pháp nhân đó được nhà nước của mình bảo hộ về mặt ngoại giao. Nội dung quy chế pháp lý của pháp nhân nước ngoài ở các nước không giống nhau, tùy thuộc vào thái độ chính trị, chính sách kinh tế đối ngoại của nước sở tại, vai trò của vốn, công nghệ, kỹ thuật của nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế xã hội của nước sở tại. 3.3. Quy chế pháp lý dân sự của pháp nhân nước ngoài ở Việt Nam: Quy chế này được xác định trên cơ sở pháp luật Việt Nam và các Điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia. Theo điều 765 khoản 1 Bộ LDS Việt Nam năm 2005, năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước ngoài được xác định theo pháp luật của nước nơi pháp nhân đó thành lập, trừ trường hợp pháp luật Việt nam có qui định khác. Trong trường hợp pháp nhân nước ngoài xác lập thực hiện các giao dịch dân sự tại Việt nam, thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước ngoài được xác định theo pháp luật Việt Nam. * Quy chế pháp lý của pháp nhân nước ngoài đầu tư tại Việt Nam: Chủ thể và lĩnh vực đầu tư: Việt Nam hoan nghênh và khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ vào Việt Nam phù hợp với pháp luật Việt Nam và thông lệ quốc tế, bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp đối với vốn, tài sản và quyền lợi khác của tổ chức, cá nhân nước ngoài. Các tổ chức được khuyến khích đầu tư vào Việt Nam thuộc mọi quốc tịch và mọi thành phần kinh tế, bao gồm cả các tổ chức quốc tế. Các pháp nhân nước ngoài được đầu tư vào lĩnh vực của nền kinh tế quốc tư pháp quốc tế dân của Việt Nam. Hình thức đầu tư: Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh Thành lập doanh nghiệp lien doanh trên cơ sở hợp đồng kinh doanh,doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Thành lập doanh nghiệp 100%vốn nước ngoài. Hợp đồng xây dựng-kinh doanh- chuyển giao (BOT). Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư nước ngoài trong thời gian đầu tư tại Việt Nam: - Được nhà nước Việt nam áp dụng các biện pháp bảo đảm đầu tư: Bảo đảm quyền sở hữu tài sản hợp pháp; Bảo đảm đối xử bình đẳng giữa các nhà đầu tư; Bảo đảm cơ chế giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động đầu tư; Bảo đảm việc chuyển lợi nhuận và thu nhập hợp pháp khác của nhà đầu tư ra nước ngoài; Bào đảm quyền lợi của nhà đầu tư khi có những thay đổi về chính sách, pháp luật. Được nhà nước ta khuyến khích đầu tư: ưu đãi về tài chính, đất… Nghĩa vụ khi tiến hành hoạt động đầu tư tại Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài phải: tôn trọng Hiếp pháp, pháp luật Việt Nam; tôn trọng độc lập, chủ quyền của Việt Nam. Nhà đầu tư nước ngoài phải nộp các khoản thuế, lệ phí do pháp luật Việt Nam quy định, phải tuân theo các quy định của pháp luât Việt Nam về chế độ kế toán, thống kê, quản lí ngoại hối, về bảo vệ môi trường. * Quy chế pháp lý của các pháp nhân nước ngoài không thuộc diện đầu tư tại Việt Nam: Nhiều pháp nhân nước ngoài cử đại diện đến Việt Nam tìm hiểu thị trường, giao dịch, kí kết các hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ với các bạn hàng Việt Nam. Phạm vi thẩm quyền của đại diện cho pháp nhân nước ngoài do pháp luật của nước mà pháp nhân nước ngoài mang quốc tịch quyết định. Trường hợp pháp nhân nước ngoài muốn đặt chi nhánh hoặc văn phòng đại diện tại Việt Nam thì có giấy phép của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam. Trong thời gian hoạt động ở Việt Nam, chi nhánh hoặc văn phòng đại diện của pháp nhân nước ngoài phải tôn trọng hiếp pháp, pháp luật Việt Nam… 4. Quốc gia: 4.1 Cơ sở xác định quy chế pháp lý đặc biệt của quốc gia: 4.1.1 Các nguyên tắc thể hiện cơ sở pháp lý quốc tế của quy chế pháp lý đặc biệt của quốc gia: - Nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia Chủ quyền quốc gia là quyền làm chủ một cách độc lập, toàn vẹn, đầy đủ về mọi mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp của một quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia đó. Quốc gia thể hiện chủ quyền của mình trên mọi phương diện kinh tế, chính trị, quân sự và ngoại giao. Tất cả các nước đều có chủ quyền quốc gia. Tôn trọng chủ quyền quốc gia là một trong những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và cũng là cơ sở để xây dựng quy chế pháp lý của một quốc gia. Nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia Nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia là nguyên tắc được Hiến chương Liên hiệp quốc khẳng định: không một quốc gia nào được can thiệp hoặc khống chế, xâm phạm chủ quyền của một quốc gia khác. Các cơ sở xác định này được ghi nhận trong các điều ước quốc tế điển hình như: - Công ước Viên năm 1961 về quan hệ ngoại giao - Công ước Viên năm 1963 về quan hệ lãnh sự - Công ước của Liên hiệp quốc (LHQ) về quyền miễn trừ tài phán và miễn trừ tài sản của quốc gia - Pháp luật quốc gia (như ơ Việt Nam, Điều 12 Pháp lệnh về quyền ưu đãi, miễn trừ dành cho các cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự và cơ quan đại diện của các tổ chức quốc tế tại Việt Nam năm 1993) 4.1.2 Quan điểm của các nước về quyền miễn trừ của quốc gia trong quan hệ Tư pháp quốc tế: - Thuyết miễn trừ tuyệt đối: Quan điểm này cho rằng, quyền miễn trừ của quốc gia là tuyệt đối, nghĩa là quốc gia phải được hưởng quyền này trong tất cả các lĩnh vực quan hệ dân sự mà quốc gia tham gia và trong bất kỳ trường hợp nào. Những người theo quan điểm này xuất phát từ chủ quyền quốc gia là tuyệt đối và bất khả xâm phạm, bất kỳ chủ thể nào cũng không có quyền vượt lên trên chủ quyền quốc gia. Thậm chí, quyền miễn trừ này còn được mở rộng cho người đứng đầu của quốc gia khi tham gia vào các mối quan hệ với tư cách người đứng đầu quốc gia hay tư cách cá nhân. Cần nhận thức rõ vấn đề ở đây, khi thừa nhận quyền miễn trừ của quốc gia khi tham gia vào các quan hệ dân sự quốc tế là tuyệt đối thì điều này có nghĩa là quốc gia sẽ được hưởng quyền miễn trừ trong tất cả các lĩnh vực quan hệ dân sự quốc tế và trong tất cả các trường hợp mà quốc gia tham gia với tư cách là một bên chủ thể trong quan hệ dân sự quốc tế. - Thuyết miễn trừ tương đối Theo học thuyết này, quốc gia khi tham gia vào các quan hệ dân sự quốc tế sẽ được hưởng quyền miễn trừ về tài phán và quyền miễn trừ về tài sản trong tất cả các lĩnh vực quan hệ dân sự. Tuy nhiên, có những trường hợp quốc gia sẽ không được hưởng quyền này mà phải tham gia với tư cách một chủ thể dân sự như các chủ thể thông thường khác. Như vậy, Thuyết quyền miễn trừ tương đối chấp nhận cho quốc gia được hưởng quyền miễn trừ trong tất cả các lĩnh vực quan hệ dân sự mà quốc gia tham gia, nhưng lại hạn chế những trường hợp mà quốc gia sẽ không được hưởng quyền miễn trừ. Công ước của LHQ về quyền miễn trừ tài phán và miễn trừ tài sản của quốc gia cũng dành nhiều điều quy định về các trường hợp quốc gia không được hưởng quyền miễn trừ trong các lĩnh vực giao dịch thương mại, hợp đồng lao động, thiệt hại về người và tài sản,… Như vậy, về cơ bản, phần lớn các quốc gia đều thừa nhận quyền miễn trừ của quốc gia khi tham gia vào các quan hệ dân sự quốc tế. Tuy nhiên, mức độ chấp nhận phạm vi của quyền miễn trừ của quốc gia ở các quốc gia là khác nhau. Thực tiễn trên cho thấy, Thuyết quyền miễn trừ tương đối của quốc gia đang có phạm vi ảnh hưởng ngày càng rộng và ngày càng có nhiều quốc gia chấp nhận. Đây cũng là một xu thế phát triển của TPQT hiện đại. 4.1.3 Nội dung của quy chế pháp lý đặc biệt của quốc gia trong Tư pháp quốc tế: Nhìn chung, Tư pháp quốc tế phần lớn các quốc gia đều thừa nhận tư cách chủ thể đặc biệt của quốc gia khi tham gia vào mối quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Khi tham gia vào quan hệ Tư pháp quốc tế, quốc gia được hưởng các quyền miễn trừ trong đó quan trọng nhất là quyền miễn trừ tư pháp và miễn trừ đối với tài sản của quốc gia, gọi chung là quyền miễn trừ của quốc gia. Quyền miễn trừ của quốc gia trong lĩnh vực quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được ghi nhận rải rác trong các điều ước quốc tế, điển hình nhất là Công ước Brussels về thống nhất các quy định về miễn trừ tàu thuyền nhà nước ngày 14/4/1926, Công ước Viên năm 1961 về quan hệ ngoại giao, Công ước Viên 1963 về quan hệ lãnh sự,… Đặc biệt, các nội dung này được quy định một cách cụ thể và tập trung tại Công ước của Liên hiệp quốc về quyền miễn trừ tài phán và miễn trừ tài sản của quốc gia. Các quyền này cũng được ghi nhận trong pháp luật của nhiều quốc gia. Quyền miễn trừ của quốc gia trong Tư pháp quốc tế gồm quyền miễn trừ tư pháp và quyền miễn trừ đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của quốc gia. 4.1.3.1. Quyền miễn trừ tư pháp: 4.1.3.1.1. Miễn trừ xét xử tại bất cứ Tòa án nào: Nội dung quyền này thể hiện nếu không có sự đồng ý của quốc gia thì không có một tòa án nước ngoài nào có thẩm quyền thụ lý và giải quyết vụ kiện mà quốc gia là bị đơn (trong lĩnh vực dân sự). Các tranh chấp liên quan đến quốc gia phải được giải quyết bằng con đường thương lượng trực tiếp hoặc con đường ngoại giao, trừ khi quốc gia từ bỏ quyền này. Điều 5 và Điều 6 Công ước của Liên hiệp quốc về quyền miễn trừ tài phán và miễn trừ tài sản của quốc gia quy định: “Quốc gia được hưởng quyền miễn trừ tài phán trước một tòa án nước ngoài theo những quy định của Công ước. Các quốc gia có nghĩa vụ đảm bảo quyền miễn trừ tài phán và quyền miễn trừ tài sản của quốc gia khác, cụ thể là không thực thi quyền tài phán chống lại quốc gia khác trong một vụ kiện tại tòa án nước mình”. 4.1.3.1.2 Miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng chế nhằm đảm bảo đơn kiện: Nếu quốc gia đồng ý cho tổ chức, cá nhân nước ngoài kiện mình, tức là đồng ý cho Tòa án nước ngoài xét xử vụ kiện mà quốc gia là bị đơn. Nội dung của quyền này thể hiện trong trường hợp nếu một quốc gia đồng ý để tòa án nước ngoài thụ lý, giải quyết một vụ tranh chấp mà quốc gia là một bên tham gia thì tòa án nước ngoài đó được quyền xét xử nhưng tòa án không được áp dụng bất cứ một biện pháp cưỡng chế nào như bắt giữ, tịch thu tài sản của quốc gia để phục vụ cho việc xét xử. Tòa án chỉ được áp dụng các biện pháp này nếu được quốc gia cho phép. Điều 18 Công ước của LHQ về quyền miễn trừ tài phán và miễn trừ tài sản của quốc gia quy định: “Không có biện pháp cưỡng chế tiền tố tụng nào như tịch thu, chiếm giữ tài sản trái pháp luật của quốc gia được áp dụng trong một vụ kiện trước một tòa án nước ngoài…”. 4.1.3.1.3 Miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng chế nhằm đảm bảo thi hành quyết định của Tòa án trong trường hợp quốc gia không đồng ý cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài kiện, đồng ý cho Tòa án xét xử: Trong trường hợp quốc gia đồng ý cho một tòa án nước ngoài giải quyết một tranh chấp mà quốc gia là một bên tham gia và nếu quốc gia là bên thua kiện thì bản án của tòa án nước ngoài đó cũng phải được quốc gia tự nguyện thi hành. Nếu không có sự đồng ý của quốc gia thì không thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế như bắt giữ, tịch thu tài sản của quốc gia nhằm cưỡng chế thi hành bản án đó. Ngay cả khi quốc gia từ bỏ quyền miễn trừ xét xử thì quyền miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng chế bảo đảm thi hành phán quyết của tòa án vẫn phải được tôn trọng. Điều 19 Công ước của Liên hiệp quốc về quyền miễn trừ tài phán và miễn trừ tài sản của quốc gia quy định: “Không có biện pháp cưỡng chế nào sau khi có phán quyết của tòa án như tịch thu, bắt giữ tài sản trái pháp luật của quốc gia được áp dụng trong một vụ kiện trước một tòa án nước ngoài…” TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trường Đại học Luật Hà Nội, 2011, Giáo trình tư pháp quốc tế, nhà xuất bản Công an Nhân dân
Luận văn liên quan