Chúa Trịnh Cương là con thứ hai của Tấn Quang Vương Trịnh Bính và bà Thái Phi Trương Thị Ngọc Chử, sinh ngày 19 tháng 5, năm Đinh Mão (1687) niên hiệu Chính Hoà thứ 8. Ông được tiên phong từ Phó đô tướng phổ quận Công làm khâm sai Tiết chế các xứ thuỷ bộ chủ doanh kiêm tổng chấp chính Thái uý An Quốc Công, mở phủ Lý Quốc. Chúa Trịnh Căn sau khi khảo ý kiến của hai quốc lão đại thần Nguyễn Quý Đức và Đặng đình Tướng nên đã quyết định truyền ngôi cho chắt là Trịnh Cương.
Năm Trịnh Cương 18 tuổi là người thông minh, sáng suốt ham học hỏi được nối ngôi chính phủ chấp chính, quần thần đều bằng lòng. Khi mới chấp chính ở phủ Chúa đã nhanh chóng chấp chính bộ máy triều đình, ban bố 6 giáo điều:
1. Cấm đại thần không được cậy quyền thế, các thế gia, quan viên, các nha môn, phú hào khoanh đất lập trang trại, nếu có phải triệt bỏ, hạn trong 3 tháng nếu chậm sẽ bị trừng trị.
2. Các quan văn võ phải siêng năng thao luyện, các quan phủ huyện không được hà khắc bạo ngược.
3. Định lệ quân cấp ruộng đất công (lấy 6 năm làm một kỳ hạn) ruộng vụ thu không được để quá tháng ba, ruộng vụ hạ không được để quá tháng 9.
4. Cho định lại phép khảo công năm 1719, vận động người trong tông thất giải tán binh quyền riêng, tập trung vào quyền lực trung ương.
5. Miễn giảm tô thuế chẩn cấp cứu đói vì mất mùa gây ra trộm cắp, phiêu tán, thể hiện sự quan tâm của chúa.
6. Cầu lời nói thẳng năm 1711 (nghe Hiến sát Nghệ An tiến sĩ Nguyễn Công Thái điều trần về một cung nhân phủ Chúa là Bồ Thị sai người trong họ đành hạch nhũng nhiễu ở Nghệ An. Chúa Trịnh Cương biết việc đã phạt người nhà Bồ Thị thăng Công Thái lên Đô đốc đồng Thanh Hoa.
Chúa Trịnh Cương tiến hành cải tổ cải cách bộ máy quan lại vương phủ, năm mậu Tuất niên hiệu Vĩnh Thịnh 14 (1718) đặt ra lục phiên: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công phiên, quy ra sáu cung : Tả Trung, Hữu Trung, Đông, Tây, Nam, Bắc gọi là lục cung. Coi các việc tài chính, thuế má, quân sự. Xứ Thanh Nghệ, tứ trấn, các trấn ngoại phiên đều lệ thuộc vào lục phiên.
Chúa Trịnh Cương đã tiến hành một loạt cải cách về ruộng đất bắt đầu định lệ chia đều thuế đinh và điền khiến người giàu, nghèo nhiều ít tương trợ lẫn nhau. Sau này tiến tới thực hiện chính sách "Tô, Dung, Điệu" là một cải cách tiến bộ đổi mới, quan tâm đến khuyến nông, hăng hái chăm lo sắc dân . Tuy nhiên trong phạm vi tham luận này chỉ đề cập đến những cải cách, thay đổi về văn hoá nghệ thuật cho suốt thế kỷ XVIII và sau này là: thiết chế trang phục triều nghi, dân thường, phát triển mỹ thuật, kiến trúc điêu khắc đỉnh cao ở thế kỷ XVIII.
18 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2325 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Chúa Trịnh Cương với những cải cách ở phủ đình văn hóa nghệ thuật trong lịch sử, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHÚA TRỊNH CƯƠNG VỚI NHỮNG CẢI CÁCH Ở PHỦ ĐÌNH,
VĂN HOÁ NGHỆ THUẬT TRONG LỊCH SỬ.
Trịnh Quang Vũ
Chúa Trịnh Cương là con thứ hai của Tấn Quang Vương Trịnh Bính và bà Thái Phi Trương Thị Ngọc Chử, sinh ngày 19 tháng 5, năm Đinh Mão (1687) niên hiệu Chính Hoà thứ 8. Ông được tiên phong từ Phó đô tướng phổ quận Công làm khâm sai Tiết chế các xứ thuỷ bộ chủ doanh kiêm tổng chấp chính Thái uý An Quốc Công, mở phủ Lý Quốc. Chúa Trịnh Căn sau khi khảo ý kiến của hai quốc lão đại thần Nguyễn Quý Đức và Đặng đình Tướng nên đã quyết định truyền ngôi cho chắt là Trịnh Cương.
Năm Trịnh Cương 18 tuổi là người thông minh, sáng suốt ham học hỏi được nối ngôi chính phủ chấp chính, quần thần đều bằng lòng. Khi mới chấp chính ở phủ Chúa đã nhanh chóng chấp chính bộ máy triều đình, ban bố 6 giáo điều:
1. Cấm đại thần không được cậy quyền thế, các thế gia, quan viên, các nha môn, phú hào khoanh đất lập trang trại, nếu có phải triệt bỏ, hạn trong 3 tháng nếu chậm sẽ bị trừng trị.
2. Các quan văn võ phải siêng năng thao luyện, các quan phủ huyện không được hà khắc bạo ngược.
3. Định lệ quân cấp ruộng đất công (lấy 6 năm làm một kỳ hạn) ruộng vụ thu không được để quá tháng ba, ruộng vụ hạ không được để quá tháng 9.
4. Cho định lại phép khảo công năm 1719, vận động người trong tông thất giải tán binh quyền riêng, tập trung vào quyền lực trung ương.
5. Miễn giảm tô thuế chẩn cấp cứu đói vì mất mùa gây ra trộm cắp, phiêu tán, thể hiện sự quan tâm của chúa.
6. Cầu lời nói thẳng năm 1711 (nghe Hiến sát Nghệ An tiến sĩ Nguyễn Công Thái điều trần về một cung nhân phủ Chúa là Bồ Thị sai người trong họ đành hạch nhũng nhiễu ở Nghệ An. Chúa Trịnh Cương biết việc đã phạt người nhà Bồ Thị thăng Công Thái lên Đô đốc đồng Thanh Hoa.
Chúa Trịnh Cương tiến hành cải tổ cải cách bộ máy quan lại vương phủ, năm mậu Tuất niên hiệu Vĩnh Thịnh 14 (1718) đặt ra lục phiên: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công phiên, quy ra sáu cung : Tả Trung, Hữu Trung, Đông, Tây, Nam, Bắc gọi là lục cung. Coi các việc tài chính, thuế má, quân sự. Xứ Thanh Nghệ, tứ trấn, các trấn ngoại phiên đều lệ thuộc vào lục phiên.
Chúa Trịnh Cương đã tiến hành một loạt cải cách về ruộng đất bắt đầu định lệ chia đều thuế đinh và điền khiến người giàu, nghèo nhiều ít tương trợ lẫn nhau. Sau này tiến tới thực hiện chính sách "Tô, Dung, Điệu" là một cải cách tiến bộ đổi mới, quan tâm đến khuyến nông, hăng hái chăm lo sắc dân ... Tuy nhiên trong phạm vi tham luận này chỉ đề cập đến những cải cách, thay đổi về văn hoá nghệ thuật cho suốt thế kỷ XVIII và sau này là: thiết chế trang phục triều nghi, dân thường, phát triển mỹ thuật, kiến trúc điêu khắc đỉnh cao ở thế kỷ XVIII.
1720 cho sửa sang nhà Thái học, dựng bia tiến sĩ (25 bia từ năm 1667 - 1716) có giá trị về trang trí mỹ thuật.
1721 Chúa Trịnh Cương cho lập trường võ học đặt quan giáo thụ đặt khoa thi võ (tiến sĩ võ).
Chúa Trịnh Cương định quy chế phẩm phục năm 1720.
Năm 1714 bước đầu đã định quy chế việc mặc trang phục áo, mũ thanh cát, quy định kích thước dài ngắn, rộng hẹp để phân biệt, khác nhau về cấp bậc, tỏ rõ sự uy nghi.
1720 quy định phẩm phục hành nghi cho các quan văn võ, theo trước đây các quan văn võ, các lại thuộc lớn nhỏ, các chức sắc quân sĩ đều mặc áo thanh cát, đội khăn kiểu chữ đinh, không phân biệt cao thấp, sang hèn, đến nay quy định rõ phẩm phục.
Áo mặc của Hoàng Thân, Vương thân mùa xuân, hạ dùng loại sa Tầu, mùa thu đông dùng đoạn tàu màu trầm hương.
Khăn đội: mùa xuân, hạ: dùng khăn mã vĩ
Thu đông: dùng đoạn màu huyền
Áo các quan văn võ từ nhất phẩm đến tam phẩm: Xuân, hạ dùng Sa Tầu, thu đông dùng đoạn Tàu.
Khăn quấn đều đội khăn màu huyền: quy cách quan văn quấn nhiều vòng (trùng điệp), quan võ dùng một vòng (đơn điệp).
Áo các quan văn võ tứ phẩm mặc giống quan tam phẩm chỉ khác là Sa, đoạn dùng hàng ta, (sa đoạn nam),.
- Các nội giám khăn: dùng loại bằng (bình đính) sau đổi khăn lục lăng.
- Các quan văn võ nội giám khi được sung làm chấp sự, hành lễ, làm việc mặc trang phục áo Thanh Cát, đội mũ ô sa thâm. Các quan văn khi vào hầu ở các nội các cũng như vậy1 Đại Việt sử ký tục liên/78 NXB KHXH 1991
. Năm 1721 các quan văn võ tứ phẩm trở lên khi vào hầu phủ chúa được mặc áo sa, áo đoạn.
Năm Đinh mùi, Bảo Thái 8 (1727) định thể lệ về phẩm phục, hành nghi cho hoàng tử trưởng và sự thăng thụ phẩm cấp cho hoàng tử và hoàng thân.
- Phẩm phục trưởng hoàng tử khi đi lạy mừng nhà vua trang phục:
Mũ: bình đinh mạo (mũ chữ đinh bằng có chỉ đột nổi)
Áo: sa tầu, dải thao chỗ tà giáp nhau, có trang sức bằng vàng xâu ba viên ngọc.
- Khi vào hầu trong phủ chúa trang phục:
Khăn: quấn khăn bằng lượt
Áo: Sa tầu
Hành nghi: Lọng một cái không còn rèm rủ về hoa văn mầu đỏ.
Quạt một cái có rèm rủ hoa văn màu đỏ.
Kiệu vuông hoặc võng mui luyện (bồng võng) cong tròn dùng 7 đòn. Kiện sơn son vẽ hoa văn, đòn khiêng thấp vàng.
Roi 8 chiếc (sơn son thiếp bạc hai đầu).
Khi vào hầu chúa đi cửa phía tả đến ngoài cổng thứ nhất thì xuống kiệu hoặc võng, có 10 người theo hầu, (lịch triều tạp kỷ/405, 406 nhà xuất bản KHXH 1995).
Cùng năm này về nghi chế cờ, chúa cho làm cờ đuôi beo (khi cờ đuôi beo béo lên là thiết chế quân luật tỏ rõ ưu thế quân sự tất cả quan lại, quân nhân đều phải yên lặng, nghiêm túc chấp hành nội bất xuất, ngoại bất nhập).
Thời Chúa Trịnh Cương còn xuất hiện một nhà điêu khắc nổi danh được tôn sư là Tổ nghề họ Tô tên Phú Vượng, ông nổi danh về tạc tượng đầu thế kỷ XVIII có biệt tài nhìn người tạc ra tượng đẹp có tâm hồn, chuẩn mực theo phong cách hiện thức tả chân. Ông được Chúa An Vương Trịnh Cương phong tước là Kỳ tài tử niên hiệu Bảo Thái 9 (1728) sau thăng kỳ tài bá. Ông được coi là kỳ tài của nước ta thời kỳ Lê Trịnh, tại quê hương ông xã Đồng Minh huyện Vĩnh Bảo Phủ Hạ Hồng (nay thuộc Hải Phòng) còn để lại nhiều pho tượng điêu khắc giá trị đẹp nhất Việt Nam. Những pho tượng đó là ba pho thị nữ ở đình Bảo Hà. Nhóm tượng này còn ít được biết đến vì ngôi đình Bảo Hà đồ sộ trước đây đã bị tàn phá được nhân dân bảo vệ trong một khu hậu cung nhỏ bé và đường đi trước đây không được thuận tiện. Ba tượng thị nữ được tạo tạc chuẩn mực về tạo hình, dáng vẻ sống động, nét mặt đoan trang, mũi thon dọc dừa, đầu tóc đều rẽ ngôi giữa cân đối giản dị. Mái tóc thiếu nữ màu huyền màu dài xuống tận gót chân, tinh tả chân rất rõ về các thiếu nữ Việt thế kỷ xa xưa nhưng đến nay có thể cảm nhận vẻ đẹp thuần khiết, hiện đại. Các cô trong trang phục áo gấm có tượng đeo hoa tai mặt dàn, chân đi hài cong trái đào, váy phủ kín thiết tha. Nhìn chung ba pho tượng thị nữ mặc tảng phục cung đình: áo gấm hoa to tay thụng, cổ áo kiểu giao lĩnh có viền có trang trí hoạ tiết hoa văn chữ triện... có cô mặc áo kép chéo vạt chéo vạt lộ áo gấm đào. Những pho tượng màu trải qua thời gian hơn ba thế kỷ, màu sắc vẫn như xưa, nét tô tượng dung dị, vẽ mi, điểm nhỡn lông mày, làn môi uyển chuyển mờ ảo lung linh. Ta có thể so sánh với một tượng thị nữ mới làm cho đủ bốn cô (một pho đã bị mất) mới cảm nhận được sự loè loẹt, thô cứng, kém xa tượng cổ. Những pho tượng võ cao lớn thể hiện mặc triều phục gấm hoa vàng màu tía, khuôn mặt tinh anh ngước cao râu dài đội mũ đa la võ, áo gấm hoa văn tròn lớn, hai tay thụng lớn, ngực có hình bổ tử, áo ngoài dài quét đất, trong mặc xiêm đi võ hài. Tượng quan võ thứ ba đội mũ đa la đen chéo chếch xuống trán. Tượng ở tư thế động, tay lộ ngoài áo thế dáng đứng mạnh mẽ, nếp áo sinh động mềm mại thanh thoát để lộ các ngón tay chuyển động cầm kiếm dựng đứng trước vai (như kiểu bồng súng), nét mặt mạnh mẽ, thắt đai lưng to rộng bản giát vàng, áo đa la võ cộc tay, cổ tròn xẻ giữa ngực, đường viền lớn có nẹp vòng xoắn trang trí, viền đè lên hoạ tiết hoa cúc lớn hình tròn, gấu áo lượn sóng thuỷ ba bủa soài, toàn bộ có một bố cục mỹ thuật trang trí của mỹ thuật sơn ta với nhiều hoạt tiết giát vàng.
Những tượng quan văn đội mũ khước phi màu huyền, áo cổ tràng vạt lớn tay thụng màu huyền, tạo dáng thư thái ung dung. Phía trong ba lớp áo màu tía, xanh vàng lộ trên cổ áo và nẹp hai bên thân áo. Những nếp ảo toả dài, tạo ra đường nét khối hình uốn lượn tinh tế, bắt theo ánh sáng lunh linh tràn đầy mỹ cảm, óng ánh màu Thanh cát, đen huyền chuyển động của nếp áo. Lối trang phục này giống với kiểu trong ngôi mộ cổ của Đại tư đồ Nguyễn Bá Khanh được tìm thấy ở Hưng Yên thời Lê Trịnh. Những nét đặc trưng về triều phục nghệ thuật tạc tượng màu thời chúa Trịnh Cương, đặc biệt ở đình Bảo Hà là những tinh hoa của nghệ thuật mầu Việt Nam. Những tác phẩm này có một giá trị khác biệt với kiểu tượng chùa Tây phương ở sự hoàn hảo về tính sáng tạo, phong cách chân hiện thực của đời sống xã hội, cung đình Việt Nam. Những tượng ở chùa Tây phương phục vụ phật giáo có tính ước lệ và những quy chuẩn phật giáo. Tượng ở đình chùa Bảo Hà thể hiện tinh thần người Việt đầu thế kỷ XVIII, thể hiện qua tài năng điêu luyện, phong cách độc đáo, chân thực ở các pho tượng đều để tóc dài, nhiều kiểu tết, xoã, dài ngắn như vốn có của đời thường trong các tượng quan văn, quan võ là nam giới. Có người tóc đến ngang lưng, ngang hông, hoặc dài xuống chân, nhiều kiểu tóc hơi uốn cong, dày mỏng khác nhau. Các kiểu tóc bỏ ra ngoài trang phục, ta còn thấy ở tượng vua Lê Thần Tông, tượng Hoàng Hậu, Vương phi. Tác giả bài viết này đã có dịp được nghiên cứu nhìn từ phía sau tượng đều thấy tóc bỏ ra ngoài trang phục Long Bào, hoàng bào, áo vân kiều, đúng như lời hịch của Hoàng đế Quang Trung, "đánh cho để dài tóc, đánh cho để đen răng" chứa đựng đầy khí chất anh hùng của dân tộc truyền thống. Nét độc đáo các pho tượng ở đình Bảo Hà có pho tượng thần Linh Lang có thể cử động ngồi xuống đứng lên khi động chốt điều khiển. Tượng ngồi trên ngai, đội mũ dương đường, áo gấm long bào, cân đai được chạm khắc tinh vi. Đây là pho tượng thờ cử động còn lại duy nhất ở nước ta. Lối tạc tượng cử động này đã được nói tới từ triều Lý trên tấm bia ở thế kỷ X sùng thiện Diên Linh chùa Long Đọi, khi tả về rùa máy, người máy biểu diễn ở Hoàng Thành Thăng Long, Kỳ tài Tô Phú Vượng còn tự tạc tượng chân dung của ông, trong tư thế ngồi phóng khoáng, chân co chân trụ, dáng hai tay đang ở tư thế chuyển động, khoác áo tràng vạt, hở vai hở bụng, râu tóc bạc để dài quá ngực. Đặc biệt các ngón tay chau truốt, hình khối sinh động. Tượng có bố cục đẹp tư thế viên mãn thanh thoát, chân thực, hiện còn được lưu giữ tại đình Bảo Hà. Năm 1754 thời Chúa Tĩnh Vương Trịnh Sâm Tô Phú Vượng được vinh phong là kỳ tài hầu1 Tạp chí Mỹ thuật Việt Nam - Mỹ thuật truyền thống số 200 tháng 8/2009
.
Những quy chế này có thể tham khảo sách trang phục triều Lê Trịnh
Những quy định thể lệ trang phục phật giáo theo cấp bậc khi cúng lễ và lúc bình thường, năm Bính ngọ (1726).
Hoà thượng: mặc áo màu lục cổ tráng vạt: áo cà sa màu đỏ.
Mũ màu đỏ, lúc trụ trì áo màu xanh
Tăng chánh, tăng phó: Mặc áo màu xanh, áo cà sa và mũ đều màu lục.
Lúc trụ trì áo màu mực đen.
Tăng chúng: người nào được cấp độ điệp mặc áo màu thâm, áo cà sa và mũ dùng màu xanh xanh (xanh nhạt).
Lúc trụ trì mặc áo màu mộc lan (đen nhờ).
Chúa Trịnh Cương đã ban cho thiền sư Như Nhàn áo Tử Y kim lũ (màu tía thêu kim tuyến vàng) sư hoá năm 1724.
MỸ THUẬT KIẾN TRÚC ĐIÊU KHẮC THỜI TRỊNH CƯƠNG
Chúa Trịnh Cương là người rất quan tâm đến các công trình kiến trúc văn hoá, chùa Tháp, điêu khắc lịch sử đã ghi những dấu ấn về mỹ thuật thời kỳ này. Năm 1720 sửa toà Thái Học, 1723 dựng sáu toà nhà ngoài cửa phủ làm nơi xét xử hình ngục. Sai Bùi Nhân Hữu đi xây dựng chùa Độc Tôn ở chân núi Độc Tôn xã Cát Nê huyện Phổ Yên tỉnh Thái Nguyên làm chùa Thiền Tây (Tây Thiên) làng Sơn Đình huyện Nghĩa Sơn núi Tam Đảo do Trần Đình Ngọc trông coi. Đây là công trình kiến trúc chùa Cổ có giá trị mỹ thuật phật giáo còn đến nay đang được phục hồi, dựng cung Hy Sơn trên núi Hy Cương nay là khu vực đền Hùng. Khu đất tổ Hùng Vương các đời Chúa Trịnh đều chăm lo tu bổ, xây dựng.
Năm 1727 chúa Trịnh Cương cho xây dựng chùa Quỳnh Lâm (thời Lý nổi tiếng đã bị huỷ hoại), xây tháp Tịch Quang là một tháp đá lớn trong có tạc tượng Tuệ Đăng Hoà Thượng, Chánh chân Nguyên thiền sư. Ngài là đệ nhất tổ chùa này tên thật là Nguyễn Nghiêm người Thanh Hà tu ở chùa Hoa Yên, Yên Tử, sau về chùa Vĩnh Phúc núi Côn Cương, Ngài hoá năm Bảo Thái thứ 7 (1726) được dựng tháp Long Động thọ 76 tuổi Chúa Phong là Tăng Thống chính giác hoà thượng. Chùa Quỳnh Lâm đã bị phá nay vẫn còn lại lan can chạm đá hình rồng to lớn thời Lê Trịnh dài hơn 3m với nét chạm khắc trau chuốt tinh diệu. Chùa Quỳnh Lâm là một đại danh lam có kiến trúc gỗ đồ sộ cao lớn ba tầng ở nước ta.
Tại Kinh đô Thăng Long xây dựng chùa Hàm Long trong 12 năm (1702 - 1713) do bà Thái Phi mẹ chúa Trịnh Cương chủ trì, đây là đại danh lam phật giáo ở kinh đô, hiện còn lưu giữ 2 tấm bia đá lớn của tiến sĩ Đặng Đình tướng và Tham Tụng Nguyễn Qúy Đức có giá trị lịch sử và mỹ thuật. Chính nơi đất chùa Hàm Long khảo cổ đã phát hiện một bệ đá tượng phật tạc bông sen nhiều tầng rất lớn chạm khắc, khi dùng cẩu nâng lên đã bị vỡ không còn nguyên vẹn.
Chúa Trịnh Cương với ý định di chuyển kinh đô, sai Lê Hoà Chính tiến sĩ Phong thuỷ người Lưu xá, Kim Bảng Hà Nam chọn đất, vẽ đồ án để dâng chúa xem đất Cổ Bi (Như Kinh) Như Quỳnh ngày nay. Tại Cổ Bi bước đầu xây dựng sau một tháng Hành Cung đã xong. Chúa đã đến dự tuyên đọc lệnh chỉ ban ơn phong chức cho các quan văn võ. Do chúa Trịnh Cương mất đột ngột nên việc kiến trúc ở Như Kinh bị dang dở ngày nay còn lại 6 linh thú đá chia làm 3 cặp đực cái (âm dương) tạc bằng đá xanh nguyên khối:
+ Lối vào hành cung là cặp hổ 1 đực, 1 cái ngồi chầu song song đối diện, đuôi vắt lên thân. Hai chân trước thẳng đứng, dáng thon khoẻ, đầu nhỏ, mặt chạm chìm có hốc sâu, cao 1m20 ngang 1m, nét chạm râu, lông mày sâu thế tĩnh ngồi canh.
+ Cặp voi đá nguyên khối cao khoảng 2m, dài 2m, rộng 1m20 không kể bệ. Voi đực dáng đứng thế cao lớn.
+ Cặp kỳ lân cao 1m60 dài 1m20, rộng 0m70, nét chạm khắc sâu thành những đường gờ nổi khối mặt, hàm vuông mũi rộng, trán lớn đầu nhô ra phía trước, bờm toả dải xuống cổ gờ nổi có vòng xoáy hoa mỹ, tạo thành vòng tròn liên kết hai tầng. Thế ngồi kỳ lân hùng vĩ được tạo tác kỹ thuật, phong cáchd trang trí điển hình cho tạo hình kỳ lân Việt Nam.
Khu vực nhà thờ họ Trương Thái Phi của Diễn Khánh Công còn 6 rồng đá cao 0m70 dài 1m20 hoa văn rồng đầu kỳ lân, đuôi cá, mây lửa, 7 hương án đá, 2 kỳ lân đá 2 linh ngao to, lớn cao khoảng 1m70. Đây là hai linh ngao to nhất Việt Nam bằng đá, 2 tượng nữa (nô lệ) 2 cột đá, có giá trị mỹ thuật chạm khắc đá trong mỹ thuật Việt Nam.
MỸ THUẬT TRANG TRÍ BIA VĂN MIẾU THỜI CHÚA TRỊNH.
Những di sản văn hoá mỹ thuật trang trí bia tại Văn Miếu Quốc Tử Giám ở kinh đô Thăng Long còn lại đến nay từ thế kỷ XV. Những hình thức trang trí trên trán bia và diềm bia có giá trị mỹ thuật vô cùng to lớn là nền tảng chuẩn mực của mỹ thuật trang trí dân tộc, có phong cách riêng so với các nước lân bang. Những đồ án trang trí bia phát triển theo chiều dài của lịch sử, những mẫu trang trí hoa văn, đường triện, hồi văn được áp dụng vào nhiều lĩnh vực như trang trí chùa Đình, đền tháp và những hình trang trí trên tiền tệ ở nước ta. Sinh viên trường Mỹ thuật đều phải học và nghiên cứu vốn cổ đó để thấm nhuần phong cách dân tộc truyền thống. Số đồ án trang trí bia Văn Miếu chỉ còn lại 82 bia gồm 14 bia thời Lê Sơ từ 1442 đến 1514 và thời Mạc 1529 - 1536. Thời Lê Trịnh đã để lại một khối lượng đồ án đồ sộ là 68 bia. Số đồ án trang trí bia thời Lê Sơ và Mạc còn đơn giản, chạm khắc ít ỏi, kích thước nhỏ, trán bia hẹp, độ cao trung bình 1m50 rộng khoảng hơn 1m dày khoảng 0m15. Những chạm khắc đá, trang trí lăng tẩm thời Lê Sơ còn hạn chế, tượng người, thú nhỏ bé, những đồ án trang trí ở bia Văn Miếu còn đơn giản, sơ sài.
NHỮNG ĐỒ ÁN TRANG TRÍ BIA THỜI CHÚA TRỊNH TK XVIII.
Nhìn khái quát trong lần dựng bia đầu tiên niên hiệu Thịnh Đức (1633) hiện còn 25 bia đã có bước ngoặt về trang trí đồ án bởi những đặc điểm sau: to lớn hơn trước, cao từ 1m55 đến 1m70, rộng từ 1m10 đến 1m25 dày 0m20. Nhiều kiểu đồ án trang trí phong phú trán bia được chú trọng với đề tài rồng chầu mặt nguyệt. Hình rộng cụ thể tư thế uốn lượn, vẩy móng dữ dội, đuôi rồng vút trên trán bia, đầu rồng và phong cách có tiếp nối hình rộng ở điện Kinh thiên thời Lê Sơ. Trán bia trang trí có hình mặt trời, mặt trăng, viên ngọc sáng có điểm xoắn ốc, viền ngoài là quầng lửa tỏa sáng bay lên gợi cho ta thấy có phong cách thời kỳ Lý Trần. Hình trang trí còn có chim phượng bay uốn lượn đang xoè cánh hoặc hình long mã có vẩy rồng uốn mình vờn ngọc. Những hình trang trí hoa lá, chim muông, hươu, hổ cũng xuất hiện trong các trang trí đường diềm bia và góc bia rất đa dạng được chạm khắc đẹp.
Những đồ án trang trí bia thời Chúa Trịnh Cương TK XVIII Chúa Trịnh Cương cho dựng bia Văn Miếu gồm 25 bia. Lần dựng thứ nhất vào năm 1717 niên hiệu Vĩnh Thịnh 13 hiện còn 21 bia. Ba lần dựng sau là những năm 1721, 1724, 1726 còn lại ba bia. Đặc điểm bia từ thời Chúa Trịnh Cương to lớn, đồ sộ hơn bia ở thế kỷ XVII thường cao hơn từ 1m70 đến 1m90, rộng từ 1m20 - 1m30 dày 0m20. Hình dáng đồ án bia thời kỳ này tương tự ở thế kỷ XVII nhưng bề thế hơn đặt trên lưng rùa tạc theo lối tả chân thực, đầu rùa chếch, cổ ngắn hơn, mai rùa vồng cong có sống, một số con có hình trang trí mai, đầu ngóc lên, miệng dài, chân to lộ rõ năm ngón. Hình khối rùa to khoẻ mai gồ có sống để cân đối đội tấm bia to hoành tráng ở trên. Đợt dựng bia đồng loạt năm 1717, đồ án rồng trang trí thay đổi có tính trang trí cách điệu rồng mây, rồng lá. Hình tượng rồng được biến thể sang các hoạ hình vân mây, lá những vần cho cảm giác là hình đầu rồng, thân rồng và móng vuốt. Đường nét trang trí đồ hoạ đã biến cách, uốn lượn khéo léo tạo ra hình hoạ con rồng nhưng không mang yếu tố tả thực. Trong đồ án trên trán bia trang trí cách điệu rồng cùng kết hợp với mặt trời, mặt trăng, mây bay tạo ra một phong cách mới, mềm mại trong bố cục chặt chẽ, các khoảng cách chạm khắc nổi, chìm rất sống động và phong phú. Những phong cách đồ án trang trí có bố cục long mã sau này được phát triển cao trong một số bia đá thời Chúa Trịnh Cương như ở Cổ Bi, bia phủ từ họ Trương ở Như Kinh (Như Quỳnh ngày nay). Đồ án Long Mã thể hiện đầu rồng mình ngựa, thân có vẩy rồng, sống lưng có vây, đuôi lông soáy hình quả tim. Phần chân trước của long mã từ khuỷu và chân sau có mây lửa hình lưỡi kiến, tạo sự phong phú của đường nét và hoành tráng của linh thú. Trang trí diềm bia những năm về sau vẫn duy trì phong cách đầu thế kỷ XVII, XVIII vô cùng phong phú như các loại hoa chanh, hoa mẫu đơn, hoa cúc, mai, hồng, lựu, hoa sen, các loài chim sáo cò, vịt, trĩ, khỉ, hươu, nai, ngựa, hổ v.v... Đặc biệt có cả hình chạm khắc trang phục quan văn, quan võ (bia Thịnh Đức 1). Trang trí đường diềm vô cùng phong phú: kết hợp hoa điểu, hoa lá, hoa thú tạo ra các đường triện kiểu hồi văn (nhắc đi nhắc lại). Các loại hoa được cách điệu theo lối "giải phẫu học" bổ dọc, cắt ngang hoặc kết hợp thay đổi điểm nhìn mắt trước hoa, mặt sau, mặt nghiêng có cả cánh hoa và đài hoa đều được dàn ra ở phía trước. Những hoạ tiết hoa, chim thú, được bao bọc, uốn lượn bởi các loại mây lá, dây hoa có mầm tách nhánh tạo ra sự tinh tế về đường nét, thay đổi về mảng khối. Những đồ án trang trí này người nghệ nhân đã tận dụng tối đa các đặc điểm cấu tạo tự nhiên của từng loại hoa như mẫu đơn, cúc, sen v.v... Những đồ án vẽ chim cũng rất sinh động với cách nhìn trang trí, tinh giản theo mặt phẳng, chú ý đến dáng chuyển động, khi nhảy nhót, khi giang cánh bay, khi đậu ngoái cổ, kết hợp với cành lá rất sinh động. Sự phối kết hợ trang trí đường nét thẳng, mảng phẳng của hình chim với những đường chạm sâu tả lông, cánh tạo ra sự thay đổi nét âm dương (nổi chìm) rất sinh động. Nếu ta dùng phương pháp dán giấy dó vào bia và đập mực lên sẽ hiện lên như bản tranh khắc sống động, đầy mỹ cảm mang phong cách mỹ thuật đỉnh cao thời Lê Trịnh. Hiện nay dùng phương pháp này để có nhiều bản in khắc trang trí, dùng cho sinh viên các trường Đại học Mỹ thuật học và hiểu về truyền thống mỹ thuật trang trí cổ Việt Nam.
Ngày nay 82 bia còn lại ở Quốc Tử Giám trên 6 thế kỷ qua ghi dấu ấn về mỹ thuật văn hoá lịch sử của một trường đại học cổ xưa. Nhữn