Hội chứng còi cọc sau cai sữa là 1 bệnh đang phổbiến trên heo. Những triệu 
chứng được quan sát lần đầu ởCanada vào năm 1991, từ đó nhiều nghiên cứu đã 
được ghi nhận. heo nhiễm PMWS trởnên còi cọc sau cai sữa có thểcó hoặc không 
có biểu hiện khó thở,tiêu chảy, xanh xao, vàng da và có nhiều thay đổi đặc tính mô 
bệnh học. Dòng circovirusheo dạng 2 , khác với dạng 1 vềmặt kháng nguyên và 
di truyền, gây ra sựnhiễm bệnh liên tục cho nhiều dòng tếbào heo, lúc đầu được 
cho là do PMWS. Tuy nhiên những nghiên cứu vềsau cho thấy sựnhiễm trùng chỉ
PCV2 thường không gây ra PMWS vì hầu hết heo thí nghiệm được tiêm dòng 
PCV2 chỉbịlây nhiễm cận lâm sàng. Hơn nữa, 1 cuộc khảo sát đã cho thấy tỷlệ
cao heo với kháng thểPCV2 ởnhững nông trại mà PMWS không được ghi nhận. 
Việc phát hiện PCV2 do đó không đủthuyết phục đểthiết lập cách chẩn đoán 
PMWS và việc xác định những trường hợp bịPMWS vẫn còn là tranh cãi. Sựchẩn 
bệnh chính xác cho từng heo hiện nay đang dựa trên tất cả3 điều kiện sau: những 
dấu hiệu lâm sàng điển hình gồm còi cọc sau cai sữa; những bệnh tích vi thể; phát 
hiện PCV2 trong những bệnh tích tương ứng. Ởnhững nông trại kinh doanh, 
PMWS cho thấy sựgia tăng liên tục sốlượng những heo tăng trưởng chậm và 
không có hiệu quảkinh tế. Do sựchết ởheo tăng cao quá mức so với quá khứnên 
trong những trường hợp xác định bệnh hiện nay ởmức độ đàn gia súc cũng xem sự
chết đó nhưlà 1 tiêu chuẩn quan trọng. Sựphát sinh bệnh của PMWS cũng còn 
khó hiểu. Những đồng tác nhân gây nhiễm, có thể1 mình hoặc kết hợp, được cho 
là nhân tốnguy hiểm cho sựphát triển hoặc sựkịch phát của PMWS. Những thí 
nghiệm với sựlây nhiễm kép đã xác định porcine parvovirus (PPV), virus gây hội 
chứng rối loạn sinh sản và hô hấp trên heo ( PRRS), mycoplasma hyopnemoniae
nhưlà những đồng tác nhân. Cũng có những bằng chứng cho thấy việc sửdụng
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 21 trang
21 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2364 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chuẩn đoán vius PMWS bằng kỹ thuật nuôi cấy té bao, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 
BỘ MÔN CÔNG NGHỆ SINH HỌC 
 GVHD: PGS.TS NGUYỄN NGỌC HẢI 
 SVTH: LÂM THIÊN NGỌC 
2 
MỞ ĐẦU 
 Hội chứng còi cọc sau cai sữa là 1 bệnh đang phổ biến trên heo. Những triệu 
chứng được quan sát lần đầu ở Canada vào năm 1991, từ đó nhiều nghiên cứu đã 
được ghi nhận. heo nhiễm PMWS trở nên còi cọc sau cai sữa có thể có hoặc không 
có biểu hiện khó thở,tiêu chảy, xanh xao, vàng da và có nhiều thay đổi đặc tính mô 
bệnh học. Dòng circovirus heo dạng 2 , khác với dạng 1 về mặt kháng nguyên và 
di truyền, gây ra sự nhiễm bệnh liên tục cho nhiều dòng tế bào heo, lúc đầu được 
cho là do PMWS. Tuy nhiên những nghiên cứu về sau cho thấy sự nhiễm trùng chỉ 
PCV2 thường không gây ra PMWS vì hầu hết heo thí nghiệm được tiêm dòng 
PCV2 chỉ bị lây nhiễm cận lâm sàng. Hơn nữa, 1 cuộc khảo sát đã cho thấy tỷ lệ 
cao heo với kháng thể PCV2 ở những nông trại mà PMWS không được ghi nhận. 
 Việc phát hiện PCV2 do đó không đủ thuyết phục để thiết lập cách chẩn đoán 
PMWS và việc xác định những trường hợp bị PMWS vẫn còn là tranh cãi. Sự chẩn 
bệnh chính xác cho từng heo hiện nay đang dựa trên tất cả 3 điều kiện sau: những 
dấu hiệu lâm sàng điển hình gồm còi cọc sau cai sữa; những bệnh tích vi thể; phát 
hiện PCV2 trong những bệnh tích tương ứng. Ở những nông trại kinh doanh, 
PMWS cho thấy sự gia tăng liên tục số lượng những heo tăng trưởng chậm và 
không có hiệu quả kinh tế. Do sự chết ở heo tăng cao quá mức so với quá khứ nên 
trong những trường hợp xác định bệnh hiện nay ở mức độ đàn gia súc cũng xem sự 
chết đó như là 1 tiêu chuẩn quan trọng. Sự phát sinh bệnh của PMWS cũng còn 
khó hiểu. Những đồng tác nhân gây nhiễm, có thể 1 mình hoặc kết hợp, được cho 
là nhân tố nguy hiểm cho sự phát triển hoặc sự kịch phát của PMWS. Những thí 
nghiệm với sự lây nhiễm kép đã xác định porcine parvovirus (PPV), virus gây hội 
chứng rối loạn sinh sản và hô hấp trên heo ( PRRS), mycoplasma hyopnemoniae 
như là những đồng tác nhân. Cũng có những bằng chứng cho thấy việc sử dụng 
3 
những vaccin hay kích thích miễn dịch nhất định có thể ảnh hưởng đến sự phát 
triển PMWS. 
 Những khác biệt trong sự phổ biến của PMWS ở các nước có thể góp phần vào 
sự hiểu biết về sự phát sinh bệnh của tình trạng này. Đến nay, nhiều nghiên cứu về 
bệnh này đã được báo cáo. Có nhiều phương pháp để xác định sự có mặt của 
PCV2, bài này chỉ đề cập đến việc phát hiện PCV2 trên môi trường nuôi cấy tế 
bào.Việc phát hiện PCV2 chỉ cho phép kết luận thú bị nhiễm PCV2 nhưng không 
thể kết luận thú bị PMWS. 
TỔNG QUAN 
GIỚI THIỆU 
 PMWS ( Hội chứng còi cọc trên heo sau cai sữa) là 1 căn bệnh truyền nhiễm 
nguy hiểm và phổ biến, ảnh hưởng đến nền công nghiệp nuôi heo trên toàn cầu. 
Bệnh được phát hiện đầu tiên ở tây Canada 1991, với những triệu chứng như mất 
trọng lượng liên tục, bệnh hô hấp và vàng da. Những triệu chứng tương tự cũng 
xuất hiện trên heo ở Mỹ, Pháp, bắc Ireland, Tây Ban Nha, Đan Mạch và Đức. Việc 
xác định kháng nguyên PCV và nucleic acid trong những bệnh tích đưa đến khả 
năng là virus PCV mới và độc hại hơn đã xuất hiện trong những đàn heo ở những 
nước này. Tất cả PCV phân lập từ PMWS đều có những nhóm có liên hệ về trình 
tự nucleotide, 96% trình tự nucleotide intragroup được xác định nhưng có vài sự 
khác biệt với PCV phân lập từ dòng tế bào PK15, ít hơn 80% trình tự nucleotide 
được xác định. Người ta cho rằng PCV gây ra PMWS nên được xem như là PCV 
loại 2 và PCV gây bệnh trong môi trường tế bào PK15 là PCV loại 1. 
 Khi chưa có những nghiên cứu về dịch tễ phân tử, có 2 giả thiết liên quan đến 
PCV2: một, PCV2 chính là PCV1 nhưng do sự thay đổi về kỹ thuật chăm sóc nuôi 
dưỡng heo cũng như những yếu tố môi trường khác đã tạo điều kiện cho PCV1 trở 
4 
nên có độc lực và gây bệnh tương tự như 1 số loài vi sinh vật khác sống cộng sinh 
trên cơ thể vật chủ; hai, PCV1 dưới tác động của những thay đổi điều kiện chăm 
sóc nuôi dưỡng và môi trường đã biến đổi trở thành loài virus gây bệnh mới. Do 
PCV1 và PCV2 cùng có thể hiện diện trên cùng 1 heo và giữa chúng có sự tương 
đồng nhất định về gen nên dịch tễ học phân tử cần phân biệt chúng với nhau để có 
những đánh giá chính xác về tình hình dịch tễ PMWS. 
 Porcine circovirus dạng 2 ( PCV 2) thuộc họ Circoviridae, giống Circovirus, 
là 1 DNA virus chuỗi đơn vòng. PCV 2 lan tràn trên khắp thế giới ở những đàn heo 
nuôi thuần hóa, với nhiều triệu chứng như bệnh Porcine circovirus (PCVD), hội 
chứng còi cọc trên heo sau cai sữa ( PMWS), hội chứng viêm da va viêm thận ở 
heo (PDNS) và rối loạn khả năng sinh sản. PCV được phát hiện đầu tiên năm 1974 
như là 1 chất gây nhiễm không gây bệnh tế bào ở liên tiếp dòng tế bào thận heo 
( PK15). Kháng thể huyết thanh đối với PCV gây bệnh trong môi trường tế bào 
PK15 được chứng minh ở nhiều đàn heo trên thế giới. Tuy nhiên, sự xâm nhiễm 
cho heo trong phòng thí nghiệm với virus này thất bại trong việc tạo ra những bệnh 
lâm sàng. Theo phòng thí nghiệm chẩn đoán thú y trường đại học bang Iowa, các 
trường hợp PCV2 gây bệnh trên heo đã tăng nhanh chóng ở Mỹ trong giai đoạn 
những năm 1998-2000. 
 PCV2 kết hợp với bệnh viêm phổi là 1 trong những biểu hiện phổ biến nhất của 
sự nhiễm PCV2 . PMWS là biểu hiện phổ biến thứ 2 do nhiễm PCV2. Chẩn đoán 
PMWS dựa vào tiền sử còi cọc, sự mất lympho và viêm u hạt trong hạch lympho 
nhờ kiểm tra mô bệnh học và chứng minh kháng nguyên PCV2 kết hợp với bệnh 
tích lympho. Dạng phổ biến thứ 3 là PCV2 kết hợp với nhiễm hệ thống, sự chẩn 
đoán này dựa trên những trường hợp có tiền sử còi cọc và sự vỡ tế bào bạch cầu 
hoặc viêm u hạt được quan sát trong nhiều cơ quan có liên quan với kháng nguyên 
5 
PCV2. Sự thiếu hụt tế bào bạch cầu không được quan sát hoặc mô lympho không 
được chấp nhận trong những trường hợp này. 
 Có vài dấu hiệu bệnh lâm sàng cơ bản của PMWS làm tiền đề cho những chẩn 
đoán lâm sàng bệnh bao gồm sưng hạch lympho, còi cọc, khó thở, tiêu chảy, vàng 
vọt, vàng da. Những dấu hiệu này không xuất hiện riêng lẻ ở từng con heo, đa số 
heo trong trang trại bị nhiễm bệnh sẽ có biểu hiện lâm sàng bệnh. Để xác định 
bệnh cần: sự hiện diện của những dấu hiệu lâm sàng bệnh, những bệnh tích mô học 
và sự hiện diện của PCV 2 trong những bệnh tích đó. 
 Dấu hiệu lâm sàng của PMWS bị giới hạn bởi tuổi cai sữa của heo. PMWS xuất 
hiện trên heo tuổi từ 25 đến 120 ngày, tập trung cao nhất trong khoảng tuổi từ 60 
đến 80 ngày tuổi. 
CÁC PHƯƠNG PHÁP CHẨN ĐOÁN VIRUS GÂY PMWS ( 
POSTWEANING MULTISYSTEMIC WASTING SYNDROME) 
II.1 Phát hiện DNA PCV2 trong nuôi cấy tế bào 
 Để phát hiện DNA PCV2 bằng nuôi cấy tế bào, 5g mỗi bộ phận (phổi, hạch 
lympho, hạch amidan) được thu thập, hòa lẫn trong 10 ml PBS (phosphate –
buffered saline) và đồng nhất. 
Ly tâm dung dịch ở 1,500×g trong 30 phút ở 4°C, dịch nổi được thu thập lại và lọc 
(0.45 μm, Sartorius,Göttingen, Germany). 
Dịch lỏng sẽ được ủ ở 3 trong số 24 giếng của đĩa nuôi cấy ( Corning Inc., NY, 
USA ), chứa 1 lớp NSK( dòng tế bào thận heo sơ sinh), tăng trưởng trong môi 
trường EMEM ( Eagle minimal essential medium ). 
Sau 2h ủ ở 22°C , mỗi giếng được thêm vào 1 ml EMEM được làm giàu với 5% 
huyết thanh thai bò (BioWhittaker Inc., MD, USA). 
6 
 Môi trường nuôi cấy NSK được kiểm tra âm tính thường xuyên với PCV1, 
PCV2, virus pseudorabies, và virus gây hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp. Đối 
chứng dương được chuẩn bị từ môi trường tế bào NSK bị nhiễm virus dòng PCV2, 
phân lập từ đàn heo Italy. 
 Môi trường tế bào NSK không có PCV1 và PCV2 được sử dụng làm đối chứng 
âm. Tất cả các đĩa nuôi cấy được ủ trong 10 ngày ở 37°C trong 10% CO2 . 
 Thực hiện 3 lần cấy chuyển, sau khi ủ, dịch nổi được dùng để xác định sự có 
mặt của DNA PCV2 bằng real- time PCR, theo protocol của Olvera et al. (2004) 
II.2 Hóa mô miễn dịch ( Immunohistochemistry ) 
Nguyên tắc: 
 Hóa mô miễn dịch là kết hợp phản ứng miễn dịch và hoá chất để làm hiện rõ 
các kháng nguyên (KN) hiện diện trong mô (bào tương, màng tế bào, nhân). Vì 
kháng nguyên không thể quan sát hình thái được nên người ta phải xác định vị trí 
của nó trên tế bào bằng các phản ứng miễn dịch và hóa học. Có hai kỹ thuật: miễn 
dịch huỳnh quang và miễn dịch men. 
 Nguyên tắc: Cho kháng thể (KT) đặc hiệu lên mô, nếu trong mô có kháng 
nguyên sẽ có phản ứng kết hợp KN - KT. Có 2 cách để quan sát được phức hợp 
này: 
 Miễn dịch huỳnh quang: cho gắn với một chất phát huỳnh quang và quan sát 
dưới kính hiển vi huỳnh quang. 
 Miễn dịch men: Cho gắn với một loại men (peroxidase hoặc alkaline 
phosphatase) và gắn với chất màu (chromogen), có thể quan sát dưới kính hiển vi 
quang học. 
2.2 Cách thực hiện 
7 
- Hóa mô miễn dịch được tiến hành trên mô, ngay cả khi mẫu bị đông lạnh 
ở −20°C. Mẫu mô được thu nhận từ những con heo có những dấu hiệu lâm sàng 
của pmws như giảm cân liên tục, bệnh đường hô hấp, vàng da, sưng hạch lympho. 
- Mẫu mô dày khoảng 4-μm được nhuộm hematoxylin và eosin (HE) và với thuốc 
nhuộm hóa mô miễn dịch sử dụng kháng thể đơn dòng chống PVC2. 
- Sau khi làm khô và loại bỏ chất nhờn ở mẫu, peroxidase nội sinh sẽ ức chế với 
peroxide hydrogen 0.3% trong methanol 30 phút, sự phục hồi kháng thể nhờ 
protease XIV (0.05%) ở 37°C. 
- Kháng huyết thanh thỏ đa dòng được đưa vào mẫu mô ở mức pha loãng 1:2000 
trong PBS (phosphate –buffered saline) (pH 7.2) trong 1h ở 37°C 
- Sau đó rửa mẫu trong PBS, 5 phút, thêm vào biotinylated anti-rabbit IgG trong 
30 phút, 37°C. 
- Sau đó, lại rửa bằng PBS, và streptavidin-biotin-peroxidase được đưa vào để 
phát hiện sự có mặt của PCV trong 10 phút ở nhiệt độ phòng. 
- Sau 5 phút rửa trong PBS, mẫu được ủ trong enzyme diaminobenzidine. 
tetrahydrochloride (DAB) trong 5 phút ở nhiệt độ phòng ( DAB được sử dụng như 
chất tạo màu), rửa và nhuộm với haematoxylin 1 phút ở nhiệt độ phòng. 
- Mẫu được làm sạch nhờ cồn và xylene, đặt dưới lamen làm tiêu bản. 
- Mẫu mô được nhuộm tương phản papanicoleu hematoxyline, làm khô nước và 
cố định với dibutyl phthalate xylene. Mô lympho của heo con nhiễm PMWS ngẫu 
nhiên , sự hiện diện của PCV2 được xác định nhờ PCR và lai in situ, được sử dụng 
như là đối chứng dương. Đối chứng âm là kháng thể có cùng isotype (IgG1) với 
kháng thể sơ cấp nhưng có đặc hiệu không phù hợp. 
 Kết quả 
 Hầu hết động vật được kiểm tra cho thấy điều kiện cơ thể kém, với mức độ teo 
cơ bên ngoài biến đổi. Những bệnh tích ở mức độ lớn được quan sát chủ yếu ở 
8 
thùy đỉnh của phổi, viêm phổi, với đốm xuất huyết và ở hạch lympho của phế 
quản, bị sưng và tái (bảng 1) 
 Mô học cho thấy sự hiện diện của những tổn thương trong phổi, hạch, và mô 
lympho ( những tế bào đa nhân lớn, sợi phế quản, viêm u hạt , hoại tử đông tụ, và 
xuất huyết ). Không có bằng chứng mô học nào về sự nhiễm vi khuẩn, PCR từ 
những cơ quan bệnh đồng nhất cho thấy có DNA PCV2 ở 7 trong số 16 con heo 
đực. Về phân lập virus, không có tác động gây bệnh tế bào nào được quan sát trong 
môi trường nuôi cấy NSK. 
 Tuy nhiên, sự có mặt của DNA PCV2 được chứng minh từ tất cả 16 con heo 
hoang dã bằng Real Time PCR của gen Cap (Capsip protein gene) được thực hiện 
trên dịch nổi của môi trường nuôi cấy NSK. Kết quả này được xác nhận bằng kính 
hiển vi điện tử cho thấy sự có mặt của những tụ porcine circovirus như những phân 
tử, với hình tròn và đường kính khoảng 17 nm trong bất cứ môi trường tế bào nào 
( hình 1) 
9 
 Fig. 1 Electron microphotograph of small 
circovirus particles from supernatant of 
newborn swine kidney cell culture on pooled 
organs (bronchial lymph nodes, lungs, tonsils) 
from wild boars with PCV2 infection. Negative 
staining. Bar 50 nm 
10 
 Không có virus khác giống những phân tử được quan sát trong môi trường 
không nhiễm và đối chứng. Chỉ có 1 mẫu cho kết quả dương tính với nhuộm kháng 
nguyên IHC trong tế bào chất và nhân tế bào của những nang trong hạch lympho 
phổi (hình 2) 
11 
II.3 Lai tại chỗ (In situ hybridization) 
3.1 Nguyên tắc: 
 Lai tại chỗ là kiểu lai phân tử trong đó trình tự đích cần tìm nằm ngay trong tế 
bào, trong mô. Quá trình lai với mẫu dò đánh dấu và phát hiện phân tử lai được 
thực hiện ngay trên lát cắt mô. 
3.2 Cách thực hiện 
Mẫu mô được thu nhận từ những con heo có những dấu hiệu lâm sàng của PMWS 
như giảm cân liên tục, bệnh đường hô hấp, vàng da, sưng hạch lympho. 
Mẫu mô heo bệnh được cố định ở 10% formalin trung tính và gắn tiêu bản trên 
paraffin nhờ sử dụng những kỹ thuật tiêu chuẩn. 
5 µm mẫu mô từ heo bị PMWS và heo đối chứng được cắt vào những slide, xử lý 
với 3-amino-propyltriethoxysilane (APES) 
Ủ ở 600 C trong 30 phút, loại bỏ chất nhờn trong xylene và làm khô bằng cồn. 
peroxidase nội sinh bị ức chế 
Probe chuyên biệt cho PCV2 được tạo ra với 1 bộ kit có sẵn trên thị trường. Probe 
được đưa vào cùng với 20-30 ml hỗn hợp lai gồm 50% formamide, 10% dextran 
sulphate, 2 x dung dịch đệm muối natri citrate ( ssc), 2 x dung dịch Denhardt, 200 
mg/ml DNA tinh trùng và 0.05% probe cho PCV. 
Mẫu mô lặp lại được loại bỏ paraffin nhờ 3 thay đổi xylene và 2 thay đổi cồn tuyệt 
đối, làm khô trong PBS có 70-95% ethanol. Giữa mỗi bước, mô được rửa 2 lần 
trong 5 mM PBS mỗi 10 phút. Hoạt động của enzyme nội sinh peroxidase bị ức 
chế khi ủ 20 phút trong 0.5% H2O2 methanol. 
Những mẫu cắt và môi trường tế bào cố định formalin được ủ ở 0.5% protease 
XIV trong 0.05 M tris- HCL trong 15 phút, 37°C, rửa qua với nước cất và rửa lại 2 
lần trong 5 mM PBS (để tối ưu cho thí nghiệm ISH và IHC, mẫu này được đưa vào 
12 
enzyme tiêu hóa protein sử dụng protease XIV hoặc proteinase K ở nồng độ là 0.5 
mg/ml cho 10, 20, 30 hoặc 40 phút ở 37°C.) 
50 µl hỗn hợp lai được đưa vào và đặt dưới lamen. 
 DNA mục tiêu trong mô và mẫu dò PCV2 trong hỗn hợp lai sẽ bị biến tính khi ủ ở 
90°C, 10 phút ngay sau khi làm lạnh ở túi đá. Sự lai được thể hiện trong khoảng 
18-22h, ở 37°C trong môi trường ẩm. 
Sau khi lai, slide kính được rửa 2 lần trong muối natri citrate. Slide được rửa lại 
lần nữa trong PBS sau khi ủ trong buffer maleic acid 20 phút, 37°C. 
Những mẫu cắt sau đó được chuyển vào buffer maleic acid, chứa 1% tác nhân ức 
chế, sau khi ủ trong kháng thể anti-digoxygenin POD, pha loãng 1:200 trong 1% 
chất ức chế/ buffer maleic acid. 
 Mẫu được rửa đầu tiên trong buffer maleic acid rồi đến 5mM PBS. Cuối cùng, đưa 
DAB vào ( 3,3 diaminobenzidine). 
Slide sẽ được nhuộm tương phản nhẹ với Harris hematoxylin, làm khô bằng cồn và 
cố định làm tiêu bản để quan sát bằng kính hiển vi quang học. 
3.3 Kết quả: 
Hình thái học tế bào bị khử ở cả những mô cố định formalin và ethanol khi so sánh 
với những mẫu cắt nhuộm hematoxylin và eosin (HE) của cùng mẫu mô và phương 
pháp cố định formalin. 
Mô cố định ethanol có sự giảm rõ ràng về hình thái học khi ISH được so sánh với 
HE hoặc ISH trên những mô cố định formalin. 
Cả hai phương pháp cố định ethanol và formalin đều tạo ra cùng dạng nhuộm trên 
mô dương tính PCV2. Khi cố định ethanol, mẫu tuyến ức và hạch lympho âm tính 
PCV2 không chứa tế bào dương tính ISH. Mẫu nhiễm PCV2 chứa mô heo bị 
PMWS được bảo quản formalin và ethanol. Mẫu cắt tuyến ức bị PMWS được cố 
định ethanol cho thấy có sự phân hủy sản phẩm phản ứng DAB tạo thành những 
13 
thể vùi riêng biệt hoặc sự tích đọng tế bào chất đến sự hòa nhập chất nhuộm ở tế 
bào chất cho thấy sự có mặt của DNA virus trong tế bào chất của đại thực bào. 
Thỉnh thoảng nhân mô bào là dương tính trong khi hiếm khi tế bào có nhân thoái 
hóa cho thấy nhân nhuộm ISH. 
Hạch lympho bị PMWS cố định ethanol cho thấy sự nhuộm tế bào chất của DNA 
virus trong đại thực bào như những thể vùi riêng biệt hoặc sự kết tụ tế bào chất của 
virus. 
Tế bào dương tính thỉnh thoảng phân bố trong tủy ức, mô vỏ. Hạch lympho bị 
PMWS cố định formalin cho thấy vật chất trong tế bào chất dương tính mạnh trong 
tế bào chất của mô bào và những tế bào thực bào hoạt hóa. 
Không có sự khác biệt nào về dạng tế bào nhuộm hoặc sự nhuộm nội bào giữa hai 
phương pháp cố định trên. Ở hạch lympho, nhiều đại thực bào là dương tính ISH, 
so sánh với vài tế bào rải rác ở mô vỏ. 
14 
15 
Hạn chế và ưu điểm của phương pháp IHC 
Chậm 
Đặc hiệu, nhạy 
Đơn giản, dễ thực hiện, giá thành thấp 
Thuận lợi trong việc bảo quản mẫu bệnh phẩm 
Hạn chế và ưu điểm của phương pháp lai tại chỗ 
Đặc hiệu cao 
Độ nhạy cao, không ổn định 
Phức tạp, giá thành cao 
Phân lập virus 
 Để phân lập virus, khoảng 15% dịch nổi của mẫu mô được thu nhận từ MEM-
SA (Môi trường thiết yếu tối thiểu chứa muối earle và peniciline và streptomycin) 
16 
bằng cách nghiền mẫu với cối, chày vô trùng và thêm vào ít cát vô trùng. Sau đó 
hòa tan với MEM-SA rồi ly tâm ở 3,000 x g trong 30 phút ở 40C, loại bỏ dịch nổi. 
trước khi ủ với môi trường tế bào, 100 µl chloroform được thêm vào đến 2ml dịch 
nổi và trộn lẫn liên tục khoảng 10 phút ở nhiệt độ phòng. Hỗn hợp được chuyển 
vào ống ly tâm và ly tâm ở 3000 x g trong 10 phút, loại bỏ dịch nổi. Dịch nổi này 
được sử dụng như nguyên liệu cấy cho nghiên cứu phân lập virus. 
 Tất cả nghiên cứu phân lập virus được thực hiện trên môi trường tế bào PK15, 
không nhiễm PCV, pestivirus, adenovirus heo, parvovirus heo. 
 Tế bào PK15 được lấy ra khỏi môi trường sử dụng trypsin versene và hòa tan lại 
trong MEM-SA chứa 15% huyết thanh bò không có pestivirus ( MEM-G) ở nồng 
độ 4 x 105 tế bào/ml. 10ml mẫu đại diện của dịch tế bào này được trộn lẫn với 2ml 
mẫu đại diện của nguyên liệu cấy ở trên, hỗn hợp thu được sẽ phân chia vào 2 bình 
nuôi cấy mô khoảng 25ml. Những môi trường này được ủ ở 370C trong 18h ở 10% 
CO2. Sau đó, lớp tế bào 1 lớp sẽ được xử lý với 300 mM D-glucosamine và ủ ở 
370C trong 48-72h. Sau đó, 1 bình nuôi cấy của mỗi nguyên liệu cấy được được 
đông lạnh và rã đông 3 lần. Bình còn lại của mỗi nguyên liệu cấy được cấy chuyển 
bằng cách tách tế bào PK15 sử dụng trypsin versene, tái hòa tan những tế bào tách 
này trong 20 ml MEM-G, đưa chúng vào bình nuôi cấy 75 ml sạch ở nồng độ 4 x 
105 tế bào/ ml. Bình nuôi cấy này sau đó được “siêu gây nhiễm” bằng cách thêm 5 
ml tế bào ly giải thích hợp sau khi đông lạnh/rã đông 3 lần. 5 ml dịch siêu gây 
nhiễm được lấy ra và đưa vào đĩa petri ( đường kính 55mm) có lamen khử mỡ vô 
trùng. Bình nuôi cấy và lamen được ủ ở 370C và xử lý với glucosamine như trên. 
Sau khi xử lý glucosamine 24-48h, Lamen được lấy ra và cố định acetone trong 10 
phút ở nhiệt độ phòng hoặc trong 10% buffer formalin trung tính trong 4h. Sau khi 
cố định, tất cả lamen được dự trữ ở -700C trên gel silica trước khi sử dụng cho hóa 
miễn dịch và ISH 
17 
II.4 Các phương pháp khác 
Ngoài sử dụng phương pháp hóa mô miễn dịch và lai in situ, 1 số phương pháp 
khác cũng được sử dụng để chẩn đoán PMWS virus như phương pháp PCR, 
phương pháp ELISA, miễn dịch huỳnh quang gián tiếp… 
 4.1 Phương pháp PCR: 
 PCR được thực hiện để xác định sự hiện diện của PCV2 DNA trong 
phổi, hạch bạch huyết và hạch amidan. DNA virus được ly trích với bộ kit QIAmp 
DNA mini, thu thập từ động vật và đồng nhất trong dung dịch PBS ( phosphate 
buffer solution) tỉ lệ 1:5. Phản ứng PCR được thực hiện trong máy chu trình nhiệt 
mastercyler gradient (eppendorf, Hamburg, Germany). 2 µl DNA trích được sử 
dụng cho khuếch đại trình tự CAP (capsid protein gene). Sự khuếch đại được thực 
hiện trong 25 µl hỗn hợp phản ứng với thành phần sau: MgCl2 (1 mM), Buffer 
GoTaq® 1X (Promega, Madison, WI, USA), dNTPs (0.2 mM), primers 150 (5′-
ACTGTCAAGGCTACCACAGTCA-3′) và PMWS-1443 (5′-
CGGATATTGTAGTCCTGGTCG-3′; 1 μM), GoTaq® (1.25 U), and 2.5 μL of 
DNA. Điều kiện phản ứng là : biến tính ở 94°C trong 1 phút, 35 chu kỳ ở 94°C 
trong 1 phút, 55°C trong 1 phút, 72°C trong 1 phút , kéo dài ở 72°C trong 10 phút . 
sản phẩm PCR (481) chạy điện di ở gel 2% agarose và được quan sát nhờ cơ chế 
geldoc2000 (Bio-Rad Laboratories Inc., France). Đối chứng dương được chuẩn bị 
từ 100 μL môi trường tế bào thận heo sơ sinh (NSK) n